10554_Những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con

luanvantotnghiep.com

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Mỹ Duyên

NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÍ
CỦA MẸ ĐƠN THÂN TRONG VIỆC
GIÁO DỤC CON

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Mỹ Duyên

NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÍ
CỦA MẸ ĐƠN THÂN TRONG VIỆC
GIÁO DỤC CON

Chuyên ngành : Tâm lí học
Mã số : 8310401

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ TỨ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào khác.
TP.HCM, ngày 29 tháng 9 năm 2018
Tác giả

Lê Thị Mỹ Duyên

LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quý thầy cô giảng dạy lớp Cao học
Tâm lí học khóa 27 và quý thầy cô Phòng Sau đại học đã truyền đạt kiến thức nền
tảng và tạo điều kiện thuận lợi để tác giả tham gia học tập và hoàn thành luận văn.
Xin bày tỏ lòng cảm ơn đến các Admin của “Hội những bà mẹ đơn thân” đã
tạo điều kiện cho cho tác giả được tham gia giao lưu, lắng nghe chia sẻ tâm tư của
những người mẹ đơn thân; nhóm khách thể nghiên cứu đã nhiệt tình hợp tác và giúp
đỡ tác giả trong việc thu thập thông tin nghiên cứu.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Thị Tứ
đã truyền cảm hứng nghiên cứu khoa học, đã dành thời gian quý báu, tận tình hướng
dẫn tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn đến các bạn Cao học lớp Tâm lí học K26 đã
nhiệt tình giúp đỡ, chia sẻ kiến thức; gia đình, bạn bè, đã luôn bên cạnh động viên,
khuyến khích, ủng hộ và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện
luận văn.

TP.HCM, ngày 29 tháng 9 năm 2018

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………………….. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÍ
CỦA MẸ ĐƠN THÂN TRONG VIỆC GIÁO DỤC CON ………….. 6
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con ……………………………………………………………………………. 6
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về mẹ đơn thân ở nước ngoài ……………………… 6
1.1.2. Các công trình nghiên cứu mẹ đơn thân trong nước
……………………………. 10
1.2. Cơ sở lí luận về những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo
dục con ………………………………………………………………………………………………. 13
1.2.1. Khó khăn tâm lí
……………………………………………………………………………… 13
1.2.2. Mẹ đơn thân ………………………………………………………………………………….. 16
1.2.3. Hoạt động giáo dục con của mẹ đơn thân
………………………………………….. 19
1.2.4. Khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con
…………………… 22
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong
việc giáo dục con
……………………………………………………………………………. 26
Tiểu kết chương 1
………………………………………………………………………………………. 32
Chương 2. THỰC TRẠNG NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÍ CỦA MẸ
ĐƠN THÂN TRONG VIỆC GIÁO DỤC CON
………………………….. 33
2.1. Thể thức nghiên cứu ……………………………………………………………………………… 33
2.1.1. Mẫu khách thể ……………………………………………………………………………….. 33
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu thực trạng
………………………………………………….. 33
2.2. Thực trạng những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con ……………………………………………………………………………………….. 36

2.2.1. Kết quả chung về những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con ………………………………………………………………………………….. 36
2.2.2. Những khó khăn tâm lí về mặt nhận thức của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con ………………………………………………………………………………….. 39
2.2.3. Những khó khăn tâm lí về mặt thái độ của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con ………………………………………………………………………………….. 41
2.2.4. Những khó khăn tâm lí về mặt hành vi của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con ………………………………………………………………………………….. 43
2.2.5. So sánh sự khác biệt những vấn đề khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
theo lí do trở thành mẹ đơn thân ………………………………………………………. 45
2.2.6. Cách thức đối mặt và giải quyết những khó khăn tâm lí của mẹ đơn
thân trong việc giáo dục con ……………………………………………………………. 47
2.2.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành những khó khăn tâm lí mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con ……………………………………………………… 49
2.2.8. Mô tả chân dung tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con ………… 51
2.3. Một số biện pháp giúp mẹ đơn thân giảm bớt những khó khăn tâm lí
trong việc giáo dục con ………………………………………………………………………… 60
2.3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp ………………………………………………………………….. 60
2.3.2. Các nhóm biện pháp hỗ trợ, giảm bớt những khó khăn tâm lí trong
việc giáo dục con của mẹ đơn thân. …………………………………………………. 63
2.3.3. Đánh giá tính cần thiết và khả thi của các biện pháp …………………………… 66
Tiểu kết chương 2
………………………………………………………………………………………. 71
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ …………………………………………………………………….. 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
………………………………………………………………………….. 75
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
Nội dung viết tắt
ĐTB
Điểm trung bình
ĐLC
Độ lệch chuẩn
MĐKK
Mức độ khó khăn
TCT
Tính cần thiết
TKT
Tính khả thi

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê đặc điểm mẫu khách thể nghiên cứu
………………………………. 33
Bảng 2.2. Bảng quy đổi điểm …………………………………………………………………….. 34
Bảng 2.3. ĐTB và thứ hạng tổng quát những mặt khó khăn tâm lí của mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con …………………………………………………. 37
Bảng 2.4. Kết quả cụ thể những khó khăn tâm lí về mặt nhận thức của mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con …………………………………………………. 39
Bảng 2.5. Kết quả khó khăn tâm lí về mặt thái độ của mẹ đơn thân trong
việc giáo dục con
……………………………………………………………………….. 41
Bảng 2.6. Kết quả khó khăn tâm lí về mặt hành vi của mẹ đơn thân trong
việc giáo dục con
……………………………………………………………………….. 43
Bảng 2.7. Sự khác biệt những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân theo lí do trở
thành mẹ đơn thân ……………………………………………………………………… 45
Bảng 2.8. Cách thức giải quyết những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
…………. 47
Bảng 2.9. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành những khó khăn tâm lí
của mẹ đơn thân ………………………………………………………………………… 49
Bảng 2.10. Bảng điểm trung bình về tính cần thiết của các biện pháp ………………. 66
Bảng 2.11. Bảng điểm trung bình về tính khả thi của các biện pháp …………………. 68

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Điểm trung bình mức độ khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân theo lý
do làm mẹ đơn thân
……………………………………………………………………. 46
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Làm mẹ là thiên chức cao cả của người phụ nữ nên bất cứ người con gái nào
cũng có ước muốn kết hôn và sinh con. Nhưng trong xã hội ngày nay, dưới tác động
của nền kinh tế thị trường, sự du nhập văn hóa của Phương Tây đã làm ảnh hưởng
và thay đổi nhiều đến các giá trị sống của người phụ nữ. Họ không còn đặt nặng vấn
đề kết hôn rồi mới sinh con. Trên một bài báo khoa học tác giả Nguyễn Thị Tứ đã
dẫn lại số liệu thống kế xã hội năm 2007, có tới hơn 2 triệu phụ nữ chọn lối sống
độc thân, tỉ lệ độc thân chiếm khoảng 2,5% dân số Việt Nam trong đó chủ yếu là nữ
giới với tỷ lệ 87,6% tổng số người độc thân. Ngày nay xu hướng làm mẹ đơn thân
đang trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Tại Mỹ vào năm 1960 tỉ lệ bố mẹ đơn thân
chỉ chiếm 9% nhưng đến năm 2000 con số này đã tăng lên 28%. Còn ở Úc năm
2003, tỉ lệ bố mẹ đơn thân là 14% nhưng có tới 31% những trẻ sơ sinh ra đời ở nước
này là từ những bà mẹ chưa kết hôn. Tại Anh số gia đình đơn thân chiếm 21% số
gia đình ở nước này.
Tuy nhiên, việc trở thành mẹ đơn thân và nuôi dạy một đứa trẻ nên người là
điều không dễ dàng. Bởi vì, mẹ đơn thân phải đối mặt với rất nhiều những khó khăn
về mặt vật chất lẫn tinh thần và đặc biệt là trong việc giáo dục con. Bởi vì người mẹ
lúc này phải đóng cả hai vai trò vừa làm cha vừa làm mẹ. Càng khó khăn hơn khi
đứa trẻ ngày một lớn lên sự thay đổi về tâm sinh lí theo từng giai đoạn lứa tuổi là
thách thức đối với những người mẹ đơn thân khi họ không có đầy đủ kiến thức về
nuôi dạy con, đặc biệt là với đứa con khác giới tính với mình. Bên cạnh đó, dư luận
xã hội, các áp lực từ gia đình sự dè biểu, thành kiến, dị nghị của mọi người lên trên
người phụ nữ “không chồng mà có con” càng tạo ra nhiều áp lực cho người mẹ gây
ra sự khó khăn trong việc giáo dục con của mẹ đơn thân.
Có thể thấy, người mẹ đơn thân gặp rất nhiều những khó khăn tâm lí trong
cuộc sống, đặc biệt là việc giáo dục con. Họ rất cần được sự quan tâm, chia sẽ giúp
đỡ từ người thân, bạn bè, xã hội. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam chưa có nhiều
công trình nghiên cứu đi sâu về tâm lí mẹ đơn thân và chưa một công trình nghiên
cứu nào về những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc nuôi dạy con. Việc
2
tìm hiểu cụ thể, chi tiết những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục
con là một điều rất cần thiết để có thể giúp người mẹ đơn thân giảm bớt những khó
khăn tâm lí để việc giáo dục con có hiệu quả hơn.
Vì các lí do kể trên mà đề tài “Những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con” được xác lập.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con
3. Đối tuợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tuợng nghiên cứu
Những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục cho con.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu bao gồm 30 mẹ đơn thân, có con trong độ tuổi đi học
(từ 3 tuổi đến 25 tuổi), trên địa bàn tỉnh Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con được thể hiện qua ba mặt: Nhận thức, thái độ và hành vi.
4.2. Về khách thể nghiên cứu
Mẹ đơn thân đang tham gia trực tiếp vào việc giáo dục con là những người
mẹ có trình độ, có sự hiểu biết và tiếp cận với các phương tiện truyền thông hiện đại
(internet, mạng xã hội…).
5. Giả thuyết khoa học
– Mẹ đơn thân có gặp khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con và khó khăn tâm
lí được thể hiện trên cả ba mặt: Nhận thức, thái độ và hành vi. Trong đó khó khăn
tâm lí về mặt thái độ là cao nhất.
– Có hai nhóm yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong
việc giáo dục con là yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con.
3
6.2. Khảo sát những khó khăn tâm lí tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục
con.
6.3. Đề xuất một số biện pháp giúp giảm thiểu những khó khăn tâm lí của mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Cách tiếp cận trong nghiên cứu
Đề tài tiến hành dựa trên cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo hướng tiếp cận
hệ thống – cấu trúc, hướng tiếp cận hoạt động – thực tiễn .
* Hướng tiếp cận hệ thống – cấu trúc
Dựa trên hệ thống cấu trúc để xây dựng cơ sở lí luận về khó khăn tâm lí của
mẹ đơn thân trong việc giáo dục con và phân tích một cách hệ thống dưới nhiều góc
độ. Bên cạnh đó, những khó khăn tâm lí này cũng được xem xét và phân tích đánh
giá trong các mối quan hệ với các thành phần khác trong cấu trúc nhân cách của con
người, đặc biệt là mối quan hệ với những phẩm chất và năng lực của bản thân.
* Hướng tiếp cận thực tiễn
Việc nghiên cứu trong đề tài sẽ dựa vào những hoạt động thực tiễn của mẹ đơn
thân trong việc giáo dục con để tìm hiểu những khó khăn tâm lí thường gặp trong
việc giáo dục của họ. Thông qua cách trả lời các câu hỏi và các hành vi, hoạt động
cụ thể trong việc giáo dục con của mẹ đơn thân mà người nghiên cứu có thể tìm
hiểu và phân tích đánh giá mức độ những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong
việc dạy con.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
7.2.1.1. Mục đích
Dựa trên sự tổng hợp tài liệu và các công trình nghiên cứu có liên quan đến
vấn đề khó khăn tâm lí nói chung và khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con. Từ đó khái quát hóa, hệ thống hóa một số vấn đề lí luận cơ bản về khó
khăn tâm lí trong việc giáo dục con của mẹ đơn thân để định hướng cho việc thiết
kế công cụ nghiên cứu để khảo sát thực trạng khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con.
4
7.2.1.2. Cách thực hiện
Nghiên cứu các tài liệu bao gồm: luận án, luận văn, các bài viết đăng tải trên
tạp chí khoa học chuyên ngành và các kênh wedsite chính thống, các ấn phẩm được
xuất bản như sách, tạp chí.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, trong đó
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp chính, các phương pháp nghiên
cứu còn lại gồm phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn, phương pháp
nghiên cứu trường hợp là các phương pháp bổ trợ.
7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
A. Mục đích
Để đánh giá mức độ khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con.
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khác tới khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân.
B. Cách thực hiện
Bảng hỏi tự thiết kế được căn cứ trên cơ sở lí luận của đề tài và các phương
pháp luận để đảm bảo phù hợp với mục đích nghiên cứu. Bảng hỏi được thử nghiệm
trước khi đưa vào điều tra chính thức trên khách thể.
7.2.2.2. Phương pháp quan sát
A. Mục đích
Phương pháp này được thực hiện nhằm ghi nhận những biểu hiện hành vi khó
khăn tâm lí ở mẹ đơn thân trong việc dạy con tại nhà, nơi công cộng, cũng như biểu
hiện về nhận thức của mẹ đơn thân về khó khăn tâm lí trong buổi phỏng vấn.
B. Cách thực hiện
Quan sát, ghi nhớ và ghi chép hệ thống lại những biểu hiện khó khăn tâm lí
của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con
7.2.2.3. Phương pháp phỏng vấn
A. Mục đích

Nhằm tìm hiểu sâu một số trường hợp tiêu biểu và thu thập thông tin một
cách trực tiếp. Ngoài ra còn được dùng để đánh giá độ trung thực trong việc trả lời
bảng hỏi.
5
B. Cách thực hiện
Tiến hành phỏng vấn một số mẹ đơn thân, từ những câu trả lời của họ sẽ khai
thác sâu hơn về cảm xúc, nguyên nhân, cách giải quyết của mẹ đơn thân trong
những tình huống ấy.
7.2.2.4. Phương pháp mô tả chân dung tâm lí
A. Mục đích
Việc sử dụng phương pháp này nhằm miêu tả chân dung thực trạng khó khăn
tâm lí ở một số mẹ đơn thân cụ thể trong việc giáo dục con. Kết quả nghiên cứu từ
phương pháp mô tả chân dung tâm lí bổ sung thêm cho những kết quả nghiên cứu
thu được từ các phương pháp khác.
B. Cách thực hiện
Tìm hiểu hoàn cảnh thực tại trong gia đình và mối quan hệ của mẹ đơn thân
với con của họ. Những khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con. Chân dung tâm lí
mẹ đơn thân được xây dựng trên những biểu hiện khó khăn tâm lí ở các mặt nhận
thức, thái độ và hành vi.
7.2.3. Phương pháp xử lí thông tin
A. Mục đích
Dùng phần mềm SPSS phiên bản 20.0 để xử lí các số liệu thu được từ bảng
hỏi nhằm định lượng và định tính các kết quả nghiên cứu của đề tài.
B. Cách thực hiện
Các phép tính thống kê và các công thức thống kê được sử dụng để tính hệ số
tin cậy, tỉ lệ phần trăm, điểm trung bình (ĐTB), độ lệch chuẩn (ĐLC), kiểm nghiệm
Anova để phân tích và xử lí số liệu điều tra.
6
Chương 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÍ
CỦA MẸ ĐƠN THÂN TRONG VIỆC GIÁO DỤC CON
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về mẹ đơn thân ở nước ngoài
Mẹ đơn thân là đề tài được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau
trên thế giới quan tâm nghiên cứu như: Xã hội học, Nhân học, Y học, Tâm lí học,
Gia đình học và Giáo dục học … Nhưng các công trình nghiên cứu về đề tài này nổi
bật hơn hẳn ở hai lĩnh vực Xã Hội học và Tâm lí học.
Dưới góc độ Xã hội học có thể kể đến các công trình nghiên cứu của các
tác giả sau đây
McLoyd, Jayaratne, Ceballo và Borquez, J. (1994) “Thất nghiệp và gián đoạn
công việc của các bà mẹ đơn thân Mỹ gốc Phi: Ảnh hưởng đến việc nuôi dạy con
cái và chức năng xã hội vị thành niên.” Bock J. (2000) “Làm việc đó là đúng ? Các
bà mẹ đơn thân do chọn lựa và đấu tranh cho tính hợp pháp”. Lansford J. E.,
Cebello R., Abbey và Stewart A. J. (2001) “Cấu trúc gia đình có quan trọng không?
So sánh các hộ gia đình, cha mẹ ruột, mẹ đơn thân, cha dượng và mẹ kế” Graham
S. (2012) “Chọn làm mẹ đơn thân, phụ nữ độc thân làm chủ gia đình hạt nhân”,
“Câu chuyện về “người cha” vắng mặt: Phụ nữ đơn thân tìm kiếm sự giúp đỡ từ
các nguồn tài trợ” . Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu của các tác
giả nước ngoài có liên quan đến mẹ đơn thân của Việt Nam như: Belanger (1996)
“Sự suy giảm hôn nhân ở Châu Á tình trạng phụ nữ độc thân trong bối cảnh Việt
Nam”, Phinney (1998) “Vấn đề con cái của phụ nữ độc thân ở Bắc Việt Nam”.
Phinney đi sâu tìm hiểu về phụ nữ đơn thân sau chiến tranh ở Việt Nam và quyết
định làm mẹ đơn thân của nhóm phụ nữ này.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về mẹ đơn thân của các tác giả nước
ngoài dưới góc độ Xã hội học nhằm miêu tả hiện tượng, thực trạng và biểu hiện khó
khăn trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của mẹ đơn thân. Mẹ đơn thân gặp rất
7
nhiều khó khăn trong đời sống vật chất bởi vì trình độ thấp, sức khỏe không tốt nên
họ không thể kiếm được nhiều tiền, cuộc sống của mẹ con luôn bấp bênh, nghèo
khó. Các đề tài nghiên cứu cũng đã đề xuất các giải pháp giúp đỡ, hỗ trợ, cải thiện,
góp phần nâng cao chất lượng đời sống kinh tế cho nhóm đối tượng còn yếu thế này
trong xã hội.
Dưới góc độ Tâm lí học
Xã hội học đã đi sâu nghiên cứu về những khó khăn vật chất của mẹ đơn thân
thì khi nghiên cứu về đối tượng mẹ đơn thân Tâm lí học lại đi sâu vào những khó
khăn tinh thần của mẹ đơn thân. Tâm lí con người thì đa dạng nên các đề tài nghiên
cứu cũng rất phong phú. Tuy nhiên, điểm qua các công trình nghiên cứu về tâm lí
mẹ đơn thân phần lớn các công trình nghiên cứu thường tập trung vào ba nhóm: Xu
hướng lựa chọn trở thành mẹ đơn thân; Sức khỏe tinh thần mẹ đơn thân; Sự phát
triển tâm lí của đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi mẹ đơn thân.
Thứ nhất: Xu hướng lựa chọn trở thành mẹ đơn thân
Có thể kể đến các công trình nghiên cứu của nhóm các tác giả sau đây Hertz
R. (2006) “Cơ hội một mình, làm mẹ do lựa chọn: Cách phụ nữ lựa chọn làm cha
mẹ mà không có hôn nhân và tạo ra một gia đình người Mỹ mới”, Dales (2014) có
bài viết “Ohitorisama – việc sống đơn thân và năng lực (phụ nữ) ở Nhật Bản”,
Mannis (2015) “mẹ đơn thân do lựa chọn”, Susan Golombok và cộng sự (2016)
“mẹ đơn thân do lựa chọn: Mối quan hệ giữa mẹ và con và điều chỉnh tâm lí của
trẻ em”. Theo kết quả nhận được từ các công trình nghiên cứu về xu hướng trở
thành mẹ đơn thân từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 21, xu hướng làm mẹ đơn thân
ngày càng tăng lên. Giải thích về hiện tượng gia tăng xu hướng lựa chọn làm mẹ
đơn thân các tác giả cho rằng do có sự thay đổi trong nhận thức của người phụ nữ,
họ làm điều họ muốn bằng sự tự tin và bản lĩnh của họ. Bên cạnh đó ngày nay tình
hình chính trị, văn hóa, xã hội đã thay đổi. Sự bình đẳng giới, tôn trọng tự do cá
nhân, xu thế nữ quyền nên người phụ nữ đã mạnh dạng li hôn, giành quyền nuôi
con, sẵn sàng trở thành mẹ đơn thân khi họ cảm thấy không thể sống chung với
người chồng của mình nữa. Yếu tố tự chủ kinh tế đã góp phần làm cho xu hướng
làm mẹ đơn thân được dự đoán sẽ gia tăng trong quá trình phát triển. Thêm vào đó
8
mẹ đơn thân còn nhận được sự ủng hộ từ gia đình, bạn bè và xã hội nên sẽ làm cho
những người người phụ nữ muốn làm mẹ đơn thân trở nên mạnh dạn hơn với những
sự lựa chọn của mình.
Thứ hai: Sức khỏe tinh thần mẹ đơn thân
Ở các nước phát triển từ lâu chính phủ đã rất quan tâm đến đời sống vất chất
và sức khỏe tinh thần của người dân nói chung và đối tượng MDT nói riêng. Ở
những quốc gia này, việc chăm sóc sức khỏe tinh thần cho mẹ đơn thân được quan
tâm sâu sắc. Vì thế nên có rất nhiều công trình nghiên cứu về đời sống tinh thần mẹ
đơn thân, tìm hiểu những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân cũng được các nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu.
Năm 1997 đến 2002, một cuộc khảo sát cộng đồng rộng rãi ở Canada cho thấy
khoảng 11,2% bà mẹ đơn thân có triệu chứng trầm cảm, chán nản, thất vọng ê chề,
nhiều hơn gấp hai lần so với tỉ lệ ở các bà mẹ bình thường.
Bella DePaulo Ph.D, năm 2004 Đã phát hành cuốn sách “Single Out” nội dung
của quyển sách là những giải pháp giúp cho những người mẹ đơn thân bị kì thị và
chối bỏ vẫn có thể sống cuộc đời hạnh phúc, an yên bên cạnh con của mình.
Tạp chí khoa học Anh (The British Medical Journal), năm 2015 có bài viết
“mẹ đơn thân ở Anh: Dễ bệnh hơn vì không được gia đình ủng hộ”. Theo kết quả
nghiên cứu này, các nhà khoa học đã phát hiện các bà mẹ đơn thân ở Anh có sức
khỏe kém hơn sức khỏe những mẹ đơn thân ở các nước châu Âu khác. Nguyên nhà
được xác định cho tình trạng này là do những người mẹ đơn thân ở Anh thường bị
gia đình bỏ rơi, kì thị, chối bỏ không chấp nhận việc họ làm mẹ đơn thân.
Qua các công trình nghiên cứu kể trên có thể thấy yếu tố tinh thần của người
mẹ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống của họ. Tuy nhiên, khi
trở thành mẹ đơn thân thì hầu như các mẹ đơn thân ít nhiều điều gặp khó khăn về
mặt tâm lí. Do đó, nghiên cứu và hỗ trợ tinh thần mẹ đơn thân là điều đáng được
quan tâm.
Thứ ba: Sự phát triển tâm lí của đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi mẹ đơn thân
Một số tác giả có công trình nghiên cứu về vấn đề này như: McLanahan &
Sandefur (1994) “Lớn lên với một phụ huynh đơn thân: Điều gì làm tổn thương,
9
điều gì giúp ích”, Amato P. R (2001) “Trẻ em trong ly hôn những năm 1990”,
Aurora P. Jackson, Kathleen SJ Preston and Todd M. Franke (2010) “Cha mẹ đơn
thân và các vấn đề về hành vi của trẻ mẫu giáo”. Kết quả của nghiên cứu này cho
thấy những căng thẳng, áp lực về việc phải một mình giáo dục con cái của các bà
mẹ đơn thân có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho hạnh phúc của trẻ em nghèo và
cận nghèo.
Issar Daryanai, Jessica, Hamilton, Abramson và Lauren B.Alloy “Cha mẹ đơn
thân và Tâm lí vị thành niên”. Kết quả của công trình nghiên cứu này cho thấy trẻ
em lớn lên trong các gia đình mẹ đơn thân có nguy cơ mắc các bệnh tâm thần cao
hơn trẻ em được nuôi dưỡng trong các gia đình có đầy đủ cha mẹ. Nguyên nhân của
nguy cơ này là do quá trình giáo dục con của mẹ đơn thân. Các tác giả cũng cho
rằng khó khăn tâm lí của người mẹ đơn thân trong quá trình nuôi dạy con sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục con và điều đó đồng nghĩa với việc khó
khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong quá trình giáo dục con ảnh hưởng gián tiếp đến
nguy cơ mắc bệnh tâm thần ở trẻ vị thành niên. Tuy nhiên, trong đề tài này nhóm
nghiên cứu chỉ tập trung chủ yếu vào mối liên hệ giữa nguy cơ mắc bệnh tâm thần
của trẻ vị thành niên trong gia đình mẹ đơn thân với gia đình mẹ nuôi con cùng
chồng, thông qua mức độ kiểm soát, sự quan tâm và tính chất kỷ luật con của mẹ
đơn thân nhưng chưa đi sâu vào nghiên cứu khó khăn tâm lí của người mẹ trong quá
trình giáo dục con.
Các nghiên cứu trên đã khẳng định tâm lí của những đứa trẻ được nuôi dưỡng
bởi các bà mẹ đơn thân ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực so với
những đứa trẻ sống chung với ba mẹ khác. Điều này được tạo nên bởi ảnh hưởng
trực tiếp từ việc giáo dục của mẹ đối với con và khó khăn tâm lí của người mẹ lại
ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của người mẹ. Do đó, việc hỗ trợ người mẹ đơn
thân giảm bớt khó khăn tâm lí trong quá trình nuôi dạy con là rất cần thiết.
Như vậy, thông qua những công trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn, các nhà
khoa học trên thế giới đã minh chứng rằng mẹ đơn thân gặp rất nhiều khó khăn
trong cuộc sống khó khăn về mặt vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, ngày nay khi xã
hội đã phát triển, xu hướng làm mẹ đơn thân ngày càng gia tăng, những người phụ
10
nữ hiện đại chủ động trở thành mẹ đơn thân đã có thể độc lập tài chính, đảm bảo ổn
định đời sống vật chất cho chính mình và con của họ. Xã hội đã có cái nhìn thoáng
hơn với những người phụ nữ sinh con nhưng chưa từng kết hôn đã giảm tải cho họ
phần nào gánh nặng dư luận xã hội. Nhưng cho dù làm mẹ đơn thân chủ động hay
bị động, có hay không có khó khăn về vật chất đi chăng nữa thì một khi đã làm mẹ
đơn thân, một mình nuôi con nên người thì ít nhiều họ cũng sẽ gặp khó khăn tâm lí.
Mà theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã trình bày ở trên, có thể thấy
được khó khăn tâm lí nó ảnh hưởng trực tiếp đến không chỉ chất lượng đời sống
tinh thần, sức khỏe của người mẹ mà còn ảnh hưởng đến cả người con của họ. Đặc
biệt là những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con cái.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu mẹ đơn thân trong nước
Ở Việt Nam, đối tượng mẹ đơn thân cũng được các nhà khoa học chú ý và bắt
đầu nghiên cứu rộng rãi khoảng 20 năm trở lại đây. Tuy nhiên, những nghiên cứu về
mẹ đơn thân chưa có nhiều. Đa số các công trình nghiên cứu là bước đầu tìm hiểu
về cuộc sống của những người mẹ đơn thân, những khía cạnh tâm lí và những khó
khăn mà họ gặp phải trong quá trình nuôi dạy con, chân dung và vị thế của mẹ đơn
thân trong xã hội.
Thuật ngữ mẹ đơn thân chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX. Ngày xưa trong dân gian không có thuật ngữ này. Ông bà xưa gọi những
người phụ nữ có chồng mất là “Góa phụ”. Còn những người con gái chưa chồng mà
có thai bị xã hội biệt thị và đối xử vô cùng tàn bạo. Nhân gian gọi những người phụ
nữ này là “chữa hoang”, “gái hư” và trừng phạt họ bằng những luật lệ hà khắc đó là
cạo đầu bôi vôi, trói chân tay bằng dây thừng rồi bỏ vào lồng heo thả trôi trên sông
cho đến chết. Thời xưa, khi người con gái chưa kết hôn mà lại mang trong mình một
bào thai và để cho gia đình, làng xã biết tức là họ đã mang trong mình tội chết.
Khi chế độ phong kiến được xóa bỏ, chế độ trọng nam khinh nữ không còn quá
bành trướng, quyền làm mẹ của người phụ nữ được bảo vệ. Những luật lệ vô nhân
tính bị bỏ đi, người phụ nữ mới có vai trò và tiếng nói riêng của mình. Từ đó sự cực
khổ, nỗi vất vả khi phải mang nặng đẻ đau và nuôi con một mình mới được nhiều
11
người quan tâm và các nhà xã hội học mới vào cuộc tìm hiểu và có các chính sách
hỗ trợ cho mẹ đơn thân về các mặt của đời sống.
Một trong những nhà khoa học đầu tiên có công trình nghiên cứu về mẹ đơn
thân sớm nhất là tác giả Lê Thị Nhâm Tuyết năm 1991 “Một mình mẹ đẻ con”. Bài
viết được thực hiện trong chuyến đi công tác thực tế tại Thái Bình, tác giả đã tiếp
xúc trao đổi nghiên cứu một số trường hợp mẹ đơn thân tại xã An Hiệp, huyện
Quỳnh Phụ, Lê Thị Nhâm Tuyết đã miêu tả, phân tích lại tâm trạng của những
người mẹ đơn thân đa phần là những người phụ nữ “quá lứa lỡ thì” khi họ đi “xin
con”, “kiếm con” để nuôi, dưới cái nhìn đầy sự kì thị của mọi người xung quanh.
Tác giả Nguyễn Thị Khoa năm 1997 đã cho ra mắt ấn phẩm “Phụ nữ không
chồng có con những khía cạnh tâm lí”. Tác giả đã miêu tả đời sống tâm lí phức tạp
của những người phụ nữ có mối quan hệ ngoài luồng với những người đàn ông đã
có vợ và có con riêng với những người đàn ông ấy. Do đó, trong tâm trí họ luôn tồn
tại một nỗi sợ đối với người vợ chính thức của người đàn ông họ đang qua lại. Do
đó họ rất mong muốn được sự che chở, bảo vệ, quan tâm, chia sẻ của cha đứa bé.
Tác giả Nguyễn Thị Khoa cũng nhấn mạnh phụ nữ không có chồng mà có con phải
gánh vác một mình mọi công việc trong gia đình. Họ thiếu tình yêu vợ chồng, thiếu
đời sống chăn gối. Thêm nữa, tuy xã hội hiện nay đã có những quan tâm và giảm
bớt định kiến đối với phụ nữ không chồng mà có con, nhưng thực tế nhiều khó khăn
khác nhau đang từng ngày đè nặng trên cuộc sống của họ (Nguyễn Thị Thu Vân,
2016).
Cái tên tiếp theo có thể kể đến là Tác giả Lê Thi người có rất nhiều công trình
nghiên cứu về mẹ đơn thân. Năm 1998, Lê Thi đã phát hành cuốn sách “Gia đình
phụ nữ thiếu vắng chồng”. Bức tranh toàn diện đầu tiên về gia đình mẹ đơn thân ở
Việt Nam, tác giả đã liệt kê tất cả mọi lí do mà người chồng không có mặt ở gia
đình. Bốn năm sau đó, năm 2002 Lê Thi lại tiếp tục phát hành ấn phẩm “Cuộc sống
của những người phụ nữ đơn thân ở Việt Nam” đã đi sâu vào nghiên cứu đời sống
vật chất và tinh thần, tâm tư, tình cảm của người mẹ đơn thân với ba chương:
Chương 1. Những nguyên nhân xã hội ảnh hưởng đến tình trạng phụ nữ đơn thân ở
nước ta, lịch sử và hiện tại. Chương 2. Thực trạng đời sống phụ nữ đơn thân: hoàn
12
cảnh, tâm tư và nguyện vọng. Chương 3. Sự giúp đỡ của gia đình, cộng đồng xã hội
Nhà nước đối với phụ nữ đơn thân.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Vân năm 2016 trong luận án tiến sĩ đã thực hiện đề
tài “Vị thế của người mẹ đơn thân trong xã hội Hàn Quốc hiện nay và liên hệ với
thực tiễn ở Việt Nam”. Đề tài này cho chúng ta một cách nhìn tương quan về vị thế
của người mẹ đơn thân tại Việt Nam hiện nay với một nước bạn cùng chung khu
vực Đông Nam Á (Nguyễn Thị Thu Vân, 2016).
Tác giả Nguyễn Thị Tứ có bài viết “Người mẹ đơn thân trong xã hội hiện đại
dưới góc nhìn Tâm lí học” được đăng tải trên tạp chí giáo dục và xã hội số đặc biệt
tháng 4 năm 2017. Nội dung bài báo phản ánh thực trạng hiện tượng làm mẹ đơn
thân chủ động trong xã hội hiện đại ngày nay. Tuy nhiên, tác giả nhấn mạnh dù làm
mẹ đơn thân chủ động hay bị động thì những người mẹ đơn thân cũng gặp rất nhiều
những khó khăn tâm lí. Theo tác giả nhiều người mẹ đơn thân sau ly hôn thường
chịu áp lực về kinh tế và tinh thần, người mẹ đơn thân không kết hôn mà sinh con
thường phải chịu những áp lực tinh thần từ phía gia đình, xã hội, tâm lí cô đơn lẻ
bóng và từ chính đứa con của họ. Nỗi khổ lớn nhất của các bà mẹ đơn thân là không
biết trả lời ra sao khi con cái hỏi về cha của chúng. Nếu không nhận được những
câu trả lời thỏa đáng từ mẹ, chúng thường mặc cảm, tự ti và dần xa lánh mẹ. Bên
cạnh đó, tình yêu và cách chăm sóc của mẹ rất khác với cha. Để phát triển hoàn
thiện, một đứa trẻ cần cả cha và mẹ. Người cha giúp hình thành ở con tính cách
mạnh mẽ của người đàn ông, người mẹ giúp con hình thành tính cách dịu hiền của
phụ nữ. Thiếu vắng cha sẽ làm tăng khả năng trẻ có hành vi lệch lạc, tình thương và
sự bao bọc quá nhiều của mẹ dễ dẫn con cái đến sự thụ động, mất cảm giác an toàn.
Ngoài ra, nếu người mẹ không biết cách chăm sóc, giáo dục con tốt, những đứa trẻ
lớn lên rất dễ mất cân bằng, trầm cảm hoặc hư hỏng. Nhiều chuyên gia tâm lí đã chỉ
ra, những đứa con của các bà mẹ đơn thân thường có hai xu hướng phát triển: Dễ hư
hỏng vì thiếu sự giáo dục của người cha hoặc sống rất bản lĩnh, nhân hậu và hiếu
thảo (Nguyễn Thị Tứ, 2017).
Tổng quan lại thông qua các công trình nghiên cứu về mẹ đơn thân được kể
trên có thể thấy mẹ đơn thân là nhóm đối tượng gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc
13
sống. Cho dù mẹ đơn thân chủ động hay bị động thì ít nhiều họ điều gặp khó khăn
về mặt tâm lí, gặp khó khăn trong việc nuôi dạy con và họ cần rất nhiều sự hỗ trợ từ
gia đình và xã hội. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam các công trình nghiên cứu về
mẹ đơn thân còn ít và các nghiên cứu thiên về khó khăn vật chất. Còn về mặt tâm lí
của mẹ đơn thân thì lại có rất ít các công trình đào sâu vào nghiên cứu khó khăn tâm
lí của người mẹ đơn thân, đặc biệt là những khó khăn tâm lí của người mẹ khi phải
giáo dục con một mình. Trong khi đó giáo dục gia đình lại là yếu tố ảnh hưởng rất
nhiều đến việc hình thành nhân cách ở một đứa trẻ. Hồ Chí Minh có nói “Hiền dữ
phải đâu là tính sẵn _ Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Trong khi đó những khó
khăn tâm lí của người mẹ lại ảnh hưởng trực tiếp đến việc giáo dục con của họ. Do
đó việc tìm hiểu, nghiên cứu những khó khăn tâm lí cụ thể và chi tiết của người mẹ
đơn thân có thể gặp phải trong quá trình giáo dục con là rất cần thiết và cấp bách
trong thời đại hiện nay khi xu hướng làm mẹ đơn thân ngày càng gia tăng. Để kịp
thời giúp mẹ đơn thân giảm tải những khó khăn tâm lí này để việc giáo dục con đạt
hiệu quả tốt hơn.
1.2. Cơ sở lí luận về những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo
dục con
1.2.1. Khó khăn tâm lí
1.2.1.1. Định nghĩa khó khăn tâm lí
Khó khăn tâm lí là một thuật ngữ tâm lí được nhiều nhà nghiên cứu diễn giải
khác nhau:
Theo tác giả Nguyễn Thị Thiên Kim (2007) đã định nghĩa “khó khăn tâm lí là
đặc điểm tâm lí cá nhân nảy sinh trong quá trình hoạt động của chủ thể, gây ra
những trở ngại làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình và hiệu quả của quá trình
hoạt động”. Đồng quan điểm với tác giả Nguyễn Thị Thiên Kim, hai tác giả Trần
Kim An và Nguyễn Thị Thanh Phương đã sử dụng định nghĩa này cho đề tài “khó
khăn tâm lí của phụ nữ sau sinh con đầu lòng” được đăng tải trong Kỷ yếu Hội thảo
khoa học toàn quốc lần thứ 2 Tâm lí học, giáo dục học với tình yêu, hôn nhân và gia
đình năm 2017.
14
Tác giả Đoàn Thị Tỵ (2008) thì cho rằng “khó khăn tâm lí là những thiếu hụt,
những cản trở, những vướng mắc về mặt tâm lí của chủ thể cần vượt qua để thực
hiện một nhiệm vụ hay hành động nào đó”.
Tác giả Đặng Thị Lan thì miêu tả cụ thể hơn về các mặt biểu hiện của khó
khăn tâm lí “khó khăn tâm lí là toàn bộ những nét tâm lí cá nhân (nảy sinh trong
quá trình hoạt động với hoàn cảnh xác định) ít phù hợp với yêu cầu, đặc trưng của
hoạt động đó, gây trở ngại cho tiến trình và kết quả hoạt động”. khó khăn tâm lí
được biểu hiện ở ba mặt: nhận thức, thái độ và hành vi.
Tác giả Lý Thị Minh Hằng (2014) trong luận văn tiến sĩ của mình về đề tài
khó khăn tâm lí của phụ nữ đã có định nghĩa “khó khăn tâm lí là những yếu tố tâm lí
gây cản trở hoạt động của chủ thể, có thể biểu hiện ở nhận thức, thái độ và hành
vi”.
Về mặt ngữ nghĩa theo kiến thức phổ thông được truyền bá rộng rãi trong các
hoạt động xã hội của quần chúng nhân dân. Mọi người thường hay sử dụng “Khó
khăn vật chất và khó khăn tinh thần” diễn giải về điều này trong một đề tài nghiên
cứu khoa học tác giả Nguyễn Thị Tứ đã làm rõ vấn đề như sau:
Khó khăn được hiểu là những trở ngại trong quá trình hoạt động của con
người và đòi hỏi con người phải nỗ lực vượt qua. Dựa vào nguốn gốc xuất phát và
tính chất của những khó khăn có thể chia thành hai loại khó khăn vật chất và khó
khăn tinh thần.
Khó khăn vật chất (hay còn gọi tắt là những vấn đề khó khăn) là những vấn
đề nảy sinh dưới tác động của các yếu tố sinh học và xã hội của con người, chúng
gây ra bất lợi cũng như cản trở các dạng hoạt động của con người và đòi hỏi con
người phải có sự nỗ lực vượt qua để giải quyết chúng.
Khó khăn tinh thần hay còn gọi là khó khăn tâm lí là những thiếu hụt, cản
trở hoặc vướng mắc trong tâm lí của chủ thể mà họ cần vượt qua để thực hiện thành
công một nhiệm vụ hay một hành động nào đó. khó khăn tâm lí thể hiện ở ba mặt
nhận thức, thái độ và hành vi. (Nguyễn Thị Tứ, 2011)
Tóm lại, các tác giả tuy diễn đạt khái niệm khó khăn tâm lí ở các dạng hoạt
động khác nhau nhưng nhìn chung đều thống nhất khó khăn tâm lí là những nét tâm
15
lí cá nhân gây nên những khó khăn, cản trở cho hiệu quả hoạt động của chủ thể.
Trong nghiên cứu này tôi đồng quan điểm khó khăn tâm lí với tác giả Nguyễn Thị
Tứ.
Khó khăn tâm lí những thiếu hụt, cản trở hoặc vướng mắc trong tâm lí của
chủ thể mà họ cần vượt qua để thực hiện thành công một nhiệm vụ hay một
hành động nào đó. Khó khăn tâm lí thể hiện ở ba mặt nhận thức, thái độ và hành
vi.
1.2.1.2. Biểu hiện khó khăn tâm lí trong hoạt động
Các biểu hiện của khó khăn tâm lí trong hoạt động được xem xét trên ba mặt
biểu hiện: Nhận thức, thái độ và hành vi:
Về mặt nhận thức: Nhận thức giúp con người hiểu, biết đầy đủ mọi thông tin
về các sự vật hiện tượng, trên cơ sở đó mà chủ thể thể hiện thái độ và hành vi ứng
xử tương ứng. Người có khó khăn tâm lí về mặt nhận thức có thể tồn tại ở hai dạng:
dạng đầu tiên khó khăn tâm lí là khó khăn khi nhận thức về chính bản thân mình
trong hoạt động, dạng thứ hai khó khăn khi nhận thức về đối tượng hoạt động. Đối
với người có khó khăn tâm lí ở dạng thứ hai thường có hiểu biết không đầy đủ về
đối tượng hoạt động. Chính sự không hiểu biết đầy đủ này dẫn đến hiệu quả hoạt
động không như mong muốn.
Về mặt thái độ: Khó khăn tâm lí của chủ thể hoạt động ở mặt thái độ được
biểu hiện thông qua cách nhìn nhận, quan điểm đánh giá, xúc cảm, tình cảm v.v…
của chủ thể đó đối với đối tượng và thường được biểu hiện như tránh né, lo sợ, xa
lánh, không hào hứng và thường hay có xúc cảm, tình cảm âm tính đối với hoạt
động, không điều khiển được trạng thái cảm xúc của mình, nhạy cảm thái quá và
biểu lộ cảm xúc không phù hợp. Khi chủ thể hoạt động có những thái độ, tình cảm
không tích cực đối với hoạt động thì sẽ dẫn đến hiệu quả hoạt động không cao.
Về mặt hành vi: Hành vi là toàn bộ những biểu hiện của con người ra bên
ngoài cuộc sống. Hành vi được biểu hiểu là sự phối hợp vận động của các bộ phận,
giác quan trên cơ thể con người hướng vào một đối tượng nào đó để giải quyết một
nhiệm vụ, mục đích nhất định. Người có khó khăn tâm lí trong hoạt động thường
biểu hiện hành vi thiếu tự nhiên, gò bó, lúng túng, hành động không phù hợp với
16
tình huống, bối cảnh. Đây là dạng khó khăn tâm lí biểu hiện cụ thể, dễ nhận thấy
nhất trong hoạt động của chủ thể hoạt động. Những khó khăn tâm lí về mặt hành vi
có thể là kết quả của sự chi phối bởi nhận thức và thái độ tình cảm hoặc do những
kỹ năng hoạt động không có hiệu quả cao.
1.2.2. Mẹ đơn thân
1.2.2.1. Định nghĩa mẹ đơn thân
Trong Tiếng Anh người ta gọi những người mẹ đơn thân là “Single mother”
đây là cách gọi chính thống nhất trên thế giới về đối tượng này.
Tại Đức có từ “Alleinerziehende” nghĩa là những người giáo dục con một
mình.
Theo Klett – Davies Martina trong cuốn sách “Going ít alone ? Lone morther
in late modernity” đã định nghĩa “mẹ đơn thân là một nhóm đồng nhất, có những
bất lợi tương tự nhau và họ luôn cảm thấy bị chôn vùi trong những ràng buộc và áp
lực của xã hội “.
Trong khu vực Đông Nam Á, tại Hàn Quốc, Kang Eun Hwa định nghĩa “phụ
nữ làm mẹ đơn thân (phiên âm tiếng Hàn là: Mi – hon – mo) là thuật ngữ dùng để
chỉ những phụ nữ không trải qua thủ tục kết hôn hợp pháp, nhưng có con và nuôi
con một mình” (Nguyễn Thị Thu Vân, 2012).
Có thể thấy trên giới người ta định nghĩa cho những người phụ nữ nuôi con
một mình là mẹ đơn thân. Tuy nhiên, phần lớn những nghiên cứu về hiện tượng mẹ
đơn thân ngày nay và xu hướng làm mẹ đơn thân các tác giả tập trung vào nhóm đối
tượng mẹ đơn thân chưa từng kết hôn.
Tác giả Lê Thi gọi nhóm phụ nữ này là “phụ nữ thiếu vắng chồng” “phụ nữ
đơn thân”. Tuy nhiên, nếu dùng từ “Phụ nữ đơn thân” thì dễ gây hiểu lầm với
những người phụ nữ đang còn độc thân chưa lập gia đình, đồng thời cũng chưa nói
lên được vai trò làm mẹ chăm lo cho con một mình của họ.
Theo Mai Huy Bích trong quyển Xã hội học gia đình (2011), Gia đình đơn
thân là một biến thể của gia đình hạt nhân, gồm hai thế hệ (cha hoặc mẹ và con cái
chưa kết hôn), trong đó thế hệ thứ nhất (tức thế hệ cha mẹ), không đủ hai người của

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *