BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Hiền Nguyên
NIỀM TIN VÀO TÍNH HIỆU QUẢ CỦA
GIÁO DỤC VIỆT NAM CỦA HỌC SINH LỚP 12
TẠI THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Hiền Nguyên
NIỀM TIN VÀO TÍNH HIỆU QUẢ CỦA
GIÁO DỤC VIỆT NAM CỦA HỌC SINH LỚP 12
TẠI THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
Chuyên ngành : Tâm lí học
Mã số
: 8310401
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU
Thành phố Hồ Chí Minh – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lê Hiền Nguyên, học viên cao học chuyên ngành Tâm lí học khóa
28, niên khóa 2017 – 2019.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết luận được nêu trong đề tài chưa được công bố trong công trình nào khác.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiêm về tính xác thực trong đề tài của mình.
Tác giả luận văn
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô khoa Tâm lí – Giáo dục, Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã cho tôi con đường vào đời là
quãng đường đại học. Xin cảm ơn Quý Thầy Cô đã tận tình giảng dạy lớp Đại
học cũng như lớp Cao học Tâm lí học khóa 28 và sự hỗ trợ nhiệt tình của Quý
Thầy Cô, chuyên viên, cán bộ phòng Sau Đại học để tôi thực hiện đề tài này.
Và tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến GS.TS. Đoàn Văn
Điều, người đã trực tiếp hướng dẫn giúp tôi tìm ra hướng nghiên cứu, góp ý
chỉnh sửa chi tiết, dẫn dắt trong suốt quá trình thực hiện, đặc biệt là sự tận
tình của Thầy….nhờ đó tôi mới có thể hoàn thành luận văn của mình.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, quý Thầy Cô cùng toàn thể các em
học sinh lớp 12 trường THPT Dĩ An, THPT Nguyễn An Ninh, TH, THCS &
THPT Phan Chu Trinh đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể thực hiện đề tài
nghiên cứu này.
Ngoài ra, trong quá trình học tập, nghiên cứu tôi đã nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ của đồng nghiệp, bạn bè và người thân. Tôi xin được bày tỏ lòng
biết ơn chân thành đến:
– Công ty TNHH Thương Mại Dịch Vụ LND đã tạo điều kiện thời gian,
động viên, hỗ trợ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
– Các anh chị lớp CH K28, các anh chị bạn bè đã hỗ trợ tôi trong suốt quá
trình học tập cũng như thực hiện luận văn.
– Đặc biệt, gia đình tôi là động lực lớn nhất cũng là chỗ dựa vững chắc
cho tôi trên con đường này.
Tôi xin được thể hiện lòng tri ân.
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………………………….
1
Chương 1.
LÝ LUẬN VỀ NIỀM TIN VÀO TÍNH HIỆU QUẢ CỦA
GIÁO DỤC VIỆT NAM …………………………………………………….
6
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề niềm tin
…………………………………………………
6
1.1.1. Nghiên cứu trên thế giới …………………………………………………………..
6
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam ………………………………………………………….
13
1.2. Một số khái niệm ………………………………………………………………………..
17
1.2.1. Niềm tin ……………………………………………………………………………….
17
1.2.2. Tính hiệu quả của giáo dục ……………………………………………………..
25
1.2.3. Niềm tin vào tính hiệu quả của giáo dục Việt Nam của học sinh …
28
Tiểu kết chương 1 ………………………………………………………………………………..
36
Chương 2.
THỰC TRẠNG NIỀM TIN VÀO TÍNH HIỆU QUẢ
CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM CỦA HỌC SINH LỚP 12
TẠI THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
………………………
38
2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng niềm tin vào tính hiệu quả của giáo
dục của học sinh lớp 12 ……………………………………………………………..
38
2.1.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu ………………………………………………….
38
2.1.2. Mục đích nghiên cứu thực trạng ………………………………………………
40
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………..
40
2.2. Thực trạng niềm tin vào tính hiệu quả của giáo dục Việt Nam của
học sinh lớp 12 tại Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương
……………………….
46
2.2.1. Thông tin về mẫu nghiên cứu ………………………………………………….
46
2.2.2. Niềm tin váo tính hiệu quả của giáo dục biểu hiện qua nhận
thức của học sinh …………………………………………………………………..
46
2.2.3. Niềm tin vào tính hiệu quả của giáo dục biểu hiện qua xúc cảm
của học sinh ………………………………………………………………………….
62
2.2.4. Niềm tin vào tính hiệu quả của giáo dục …………………………………..
67
2.2.5. Dự định của học sinh lớp 12 sau khi ra trường
…………………………..
74
2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến niềm tin vào tính hiệu quả của giáo
dục của học sinh lớp 12 ………………………………………………………….
78
2.3. Một số biện pháp nhằm xây dựng và củng cố niềm tin của học sinh
lớp 12 vào tính hiệu quả của giáo dục Việt Nam. ………………………….
87
2.3.1. Đề xuất của học sinh
………………………………………………………………
87
2.3.2. Đề xuất tổng hợp các biện pháp
……………………………………………….
91
Tiểu kết chương 2 ………………………………………………………………………………..
96
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
……………………………………………………………..
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
…………………………………………………………………
101
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Nxb
Nhà xuất bản
ĐTB
Điểm trung bình
ĐLC
Độ lệch chuẩn
Sig.
Mức ý nghĩa
HS
Học sinh
TH
Tiểu học
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Cách chia biên giới liên tục của ĐTB nhận thức và ĐTB
xúc cảm
…………………………………………………………………………….
43
Bảng 2.2. Quy đổi sang điểm trung bình
……………………………………………..
44
Bảng 2.3. Mẫu nghiên cứu
…………………………………………………………………
46
Bảng 2.4. Nhận thức về mức độ cần thiết của hoạt động học tập
ở trường ……………………………………………………………………………
47
Bảng 2.5. Lý do học sinh lựa chọn mức độ cần thiết của hoạt động học
tập ở trường ………………………………………………………………………
48
Bảng 2.7. So sánh sự khác biệt trong biểu hiện nhận thức về mức độ
cần thiết của hoạt động học tập ở trường giữa nhóm học
sinh có kết quả học tập khác nhau
………………………………………..
50
Bảng 2.8. Biểu hiện nhận thức về nội dung giáo dục của học sinh
lớp 12
……………………………………………………………………………….
51
Bảng 2.9. Biểu hiện nhận thức về giá trị xã hội từ nội dung giáo dục
mang lại của học sinh lớp 12
……………………………………………….
56
Bảng 2.10. So sánh biểu hiện nhận thức về các giá trị mà nội dung giáo
dục mang lại giữa loại hình trường ………………………………………
60
Bảng 2.11. Mức độ biểu hiện nhận thức của học sinh về tính hiệu quả
của giáo dục
………………………………………………………………………
61
Bảng 2.12. Biểu hiện xúc cảm của học sinh về những điều nhà trường
mang lại ……………………………………………………………………………
62
Bảng 2.13. Mức độ biểu hiện xúc cảm đối với tính hiệu quả của
giáo dục ……………………………………………………………………………
66
Bảng 2.14. Mức độ niềm tin của học sinh vào tính hiệu quả của
giáo dục ……………………………………………………………………………
67
Bảng 2.15. Tương quan giữa nhận thức và xúc cảm ……………………………….
68
Bảng 2.16. Tương quan giữa xúc cảm và niềm tin
………………………………….
69
Bảng 2.17. Tương quan giữa nhận thức và niềm tin ……………………………….
69
Bảng 2.18. Tương quan giữa niềm tin, nhận thức và xúc cảm
………………….
70
Bảng 2.19. So sánh niềm tin của học sinh vào tính hiệu quả của giáo
dục theo giới tính
……………………………………………………………….
71
Bảng 2.20. So sánh niềm tin của học sinh vào tính hiệu quả của giáo
dục theo loại trường …………………………………………………………..
72
Bảng 2.21. So sánh niềm tin của học sinh vào tính hiệu quả của giáo
dục theo kết quả học tập
……………………………………………………..
73
Bảng 2.22. Dự định của học sinh sau khi học xong lớp 12 ………………………
74
Bảng 2.23. So sánh dự định của học sinh theo loại hình trường ……………….
78
Bảng 2.24. Yếu tố ảnh hưởng từ chính bản thân học sinh
………………………..
79
Bảng 2.25. Yếu tố ảnh hưởng từ phía gia đình
……………………………………….
81
Bảng 2.26. Yếu tố ảnh hưởng từ phía nhà trường …………………………………..
83
Bảng 2.27. Yếu tố ảnh hưởng từ phía giáo viên ……………………………………..
83
Bảng 2.28. Yếu tố ảnh hưởng từ nội dung giáo dục
………………………………..
84
Bảng 2.29. Một số yếu tố khác ảnh hưởng đến niềm tin ………………………….
86
Bảng 2.30. Ý kiến của HS đề xuất biện pháp đối với nhà trường ……………..
87
Bảng 2.31. Ý kiến của HS đề xuất biện pháp đối với giáo viên
………………..
89
Bảng 2.32. Ý kiến của HS đề xuất biện pháp đối với bản thân học sinh ……
90
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Dự định của học sinh lớp 12 trường công lập sau khi
ra trường …………………………………………………………………………
76
Biểu đồ 2.2. Dự định của học sinh lớp 12 trường tư thục sau khi
ra trường …………………………………………………………………………
76
Biểu đồ 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến niềm tin vào tính hiệu quả
giáo dục ………………………………………………………………………….
78
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là vấn đề được toàn xã hội quan tâm và chú trọng. Thế nên, các
nhà giáo dục không ngừng hoạt động cải tiến để mang đến hiệu quả và phát
triển nền giáo dục nước nhà. Như năm học 2018, ngành Giáo dục tiếp tục
thực hiện hàng loạt các Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của
Chính phủ; Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội khóa
XIII, Nghị quyết số 51/2017/QH14 ngày 21/11/2017 của Quốc hội khóa XIV
và Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 18/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về đổi
mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Rất nhiều chính sách
được triển khai và thực hiện chỉ với một mục đích duy nhất là nâng cao chất
lượng học tập cho các em. Trong những năm gần đây, có những tác động trực
tiếp đến các em học sinh lớp 12 về kỳ thi THPT. Đây là kỳ thi quốc gia tại
Việt Nam là một sự kiện quan trọng của ngành Giáo dục Việt Nam, được tổ
chức bắt đầu vào năm 2015. Là kỳ thi 2 trong 1, được gộp bởi hai kỳ thi là kỳ
thi tốt nghiệp THPT và kỳ thi tuyển sinh đại học và cao đẳng, kỳ thi này xét
cho thí sinh hai nguyện vọng: tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao
đẳng, nhằm giảm bớt tình trạng luyện thi, học tủ, học lệch và giảm bớt chi phí.
Ngày 26 tháng 2 năm 2015, Bộ GD&ĐT Việt Nam đã ban hành quy chế thi
của kỳ thi này. Tuy nhiên, đến nay theo Bộ trưởng GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ,
kỳ thi THPT quốc gia năm 2019 chỉ phục vụ mục đích tốt nghiệp phổ thông
mà không phục vụ mục đích “2 trong 1” vì một số lý do. Hiện nay, giáo dục
đang tập trung vào hoạt động hướng nghiệp cho học sinh lớp 12, đây là giai
đoạn lứa tuổi cần có những định hướng rõ ràng về tương lai, nghề nghiệp,
định hướng phát triển trong xã hội. Song song đó, niềm tin là yếu tố đóng vai
trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành
công hay thất bại của một con người. Từ thế kỷ XIX, Henri Frédéric Amiel,
2
nhà triết học người Thụy Sỹ đã nói rằng “Xã hội tồn tại nhờ niềm tin, và phát
triển nhờ khoa học”. Không có niềm tin, con người sẽ sống và hoạt động
không có định hướng. Vì thế, các em cần có niềm tin vào những gì được giáo
dục thì sẽ mang đến thành công cho các em trong việc học tập hiện tại và
tương lai sau này. Ngược lại, nếu hoài nghi thì ý thức sai lệch, ý thức sai lệch
dẫn đến hành động sai lầm. Khi nhậm chức, tân Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo (GD&ĐT) Phùng Xuân Nhạ nói : “Nhiệm vụ quan trọng của mình là
tạo niềm tin. Chỉ khi xã hội có niềm tin vào giáo dục thì mới thắng lợi. Còn
khi chưa có niềm tin vào giáo dục thì vẫn thất bại”, “niềm tin phải được xây
dựng bằng nhận thức. Trước khi làm cho xã hội tin thì người trong ngành phải
tin đã”. Niềm tin trong giáo dục có tầm quan trọng đến như vậy. Liệu rằng
học sinh hiện nay có đủ lòng tin đối với những triết lý giáo dục, tin vào năng
lực và phẩm chất tốt đẹp của giáo viên, tin vào các chính sách và chủ trương
đối với ngành giáo dục và đối với việc tổ chức các kì thi,….tin vào khả năng
trở thành con người tốt theo mục đích và nội dung giáo dục.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Niềm tin của học sinh lớp 12 vào
tính hiệu quả của giáo dục Việt Nam hiện nay tại Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình
Dương” được xác lập nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng niềm tin của học sinh lớp 12 vào tính hiệu quả của
giáo dục Việt Nam trên địa bàn Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Trên cơ sở đó, đề xuất biện pháp nhằm xây dựng và củng cố niềm tin của
học sinh vào tính hiệu quả của giáo dục Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Niềm tin của học sinh lớp 12 vào tính hiệu quả của giáo dục Việt Nam
hiện nay trên địa bàn Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
3
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu chính: 364 học sinh lớp 12 tại ba trường THPT trên
địa bàn Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Khách thể nghiên cứu bổ trợ: giáo viên tại các trường THPT được chọn
lựa khảo sát.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Niềm tin vào tính hiệu quả của giáo dục hiện nay của học sinh lớp 12 tại
địa bàn Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương ở mức độ chưa cao.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến niềm tin vào tính hiệu quả của giáo dục
hiện nay của học sinh lớp 12 tại địa bàn Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trong
đó ảnh hưởng chủ yếu xuất phát từ các yếu tố chủ quan.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài như niềm
tin, tính hiệu quả, tính hiệu quả của giáo dục, học sinh lớp 12, niềm tin vào
tính hiệu quả của giáo dục.
– Khảo sát thực trạng niềm tin của học sinh lớp 12 vào tính hiệu quả của
giáo dục Việt Nam hiện nay trên địa bàn Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến niềm tin vào tính hiệu quả của giáo dục
của học sinh lớp 12 trên địa bàn Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
– Đề xuất các biện pháp nhằm xây dựng và củng cố niềm tin của học sinh
lớp 12 vào tính hiệu quả của giáo dục Việt Nam hiện nay trên địa bàn Thị xã
Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
6. Phạm vi nghiên cứu đề tài
6.1. Nội dung nghiên cứu
Chỉ nghiên cứu niềm tin của học sinh vào tính hiệu quả của giáo dục hiện
nay theo hướng tìm hiểu mức độ tin tưởng của học sinh vào tính hiệu quả giáo
dục, không nghiên cứu hiệu quả của giáo dục Việt Nam hiện nay.
4
6.2. Mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành trên 3 trường THPT trên địa bàn Thị xã Dĩ An, tỉnh
Bình Dương:
+ Trường THPT Dĩ An
+ Trường THPT Nguyễn An Ninh
+ Trường Tiểu học, THCS & THPT Phan Chu Trinh
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa, khái quát hóa những vấn đề lí luận
trong tài liệu, văn bản, công trình nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho
việc triển khai nghiên cứu thực tiễn.
7.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi
Mục tiêu nhằm khảo sát mức độ tin tưởng vào tính hiệu quả của giáo
dục hiện nay, các yếu tố ảnh hưởng đến niềm tin của học sinh lớp 12.
Khách thể nghiên cứu: học sinh lớp 12 trên ba trường THPT tại Thị xã
Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Công cụ khảo sát: phiếu thăm dò ý kiến
– Mục đích: khảo sát thực trạng niềm tin của học sinh lớp 12 vào tính
hiệu quả của giáo dục.
– Nội dung điều tra mức độ hiểu biết và cảm xúc của học sinh lớp 12 về
nội dung, giá trị của giáo dục, mức độ ảnh hưởng đến niềm tin của các yếu tố
chủ quan và yếu tố khách quan, thu thập ý kiến của học sinh về các biện pháp
nhằm xây dựng và củng cố niềm tin của các em.
Chọn mẫu: 364 học sinh lớp 12
7.3. Phương pháp phỏng vấn
Mục tiêu nhằm bổ trợ để làm rõ hơn các số liệu thống kê thu được thu
thập từ phiếu thăm dò ý kiến.
5
Cách thức tiến hành: trao đổi trực tiếp; phỏng vấn gián tiếp bằng văn
bản phỏng vấn.
Chọn mẫu: các giáo viên tương ứng với ba trường THPT đã phát phiếu
thăm dò.
7.4. Phương pháp thống kê toán học
Phần mầm thống kê SPSS phiên bản 20.0 được sử dụng để xử lý và phân
tích số liệu thu được.
6
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ NIỀM TIN VÀO TÍNH HIỆU QUẢ
CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề niềm tin
1.1.1. Nghiên cứu trên thế giới
Đây là vấn đề thuộc phạm trù đời sống tinh thần của con người. Là một
trong những yếu tố tinh thần có vai trò to lớn trong việc tạo ra động lực cho
sự tiến bộ xã hội. Thế nên không chỉ được nghiên cứu trong nước ta mà còn
được đề cập đến từ rất sớm trên thế giới. Vấn đề niềm tin rất rộng về hướng
tiếp cận, nội dung phong phú, hình thức biểu hiện đa dạng và mang ý nghĩa
sâu sắc, cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Nổi trội
nhất là Triết học, Tâm lý học và Tôn giáo.
* Bối cảnh lịch sử vấn đề niềm tin
– Dưới góc nhìn triết học
Vấn đề niềm tin được thể hiện qua mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo,
tri thức và đức tin, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa vô thần
và hữu thần, chủ nghĩa duy lý và phi duy lý. Hàng nghìn năm qua, niềm tin
tồn tại như một vấn đề quan trọng của triết học, chứng minh qua việc:
Từ thời cổ đại, người ta đã đề cập niềm tin là cái đối lập với tri thức, niềm
tin chỉ còn là niềm tin tôn giáo và tách biệt, đối lập với khoa học. Ở thời này,
Khổng Tử (551 – 479 TCN) là nhà triết học, nhà giáo dục nổi tiếng của Trung
Quốc luôn quan tâm và đề cao vai trò của niềm tin trong cách điều hành xã
hội. Theo ông, để đáp ứng khát vọng của con người, cần ba việc: lo lương
thực đầy đủ, lo củng cố binh bị, lo tạo dựng niềm tin nơi dân.
Bước sang thời trung cổ, niềm tin chính thức trở thành một đối tượng
nghiên cứu của triết học. Đã có sự đấu tranh gay gắt giữa lý tính và niềm tin
tôn giáo, cuộc tranh luận giữa phái duy thực và duy danh về cách giải quyết
giữa mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin tạo ra hướng giải quyết có lợi cho
7
tri thức. Quan niệm của Tertulian (150 – 220) “Tôi tin vì phi lý”, của
Climento (150 – 215) “Không có tri thức thiếu niềm tin, niềm tin thiếu tri
thức” và những quan niệm tương tự như vậy của An Kindi, An Mari, Inbo
Sina, Inbo Rôsđơ (Averoie)…đã đóng vai trò lớn cho sự hình thành, phát triển
tư tưởng triết học về niềm tin ở Tây Âu.
Thời Phục Hưng và cận đại, học thuyết của Đavít Hium, Pôn Hăngri
Hônbách (nhà triết học Pháp gốc Đức) về niềm tin là đáng chú ý. Đến cuối
thế kỉ XVIII, triết học Cổ điển Đức đã mở ra một giai đoạn mới cho sự phát
triển của triết học toàn nhân loại. Trong số những vấn đề triết học ấy có vấn
đề niềm tin, quan niệm về niềm tin, về vị trí và vai trò của niềm tin trong đời
sống con người.
Vào thế kỉ XIX, niềm tin mà triết học Mácxit chọn làm đối tượng xem xét
khác với những quan niệm về niềm tin trước đó. Đại diện là C.Mác,
Ph.Angghen, V.I. Lenin coi tri thức con người là yếu tố cơ bản cấu thành nên
niềm tin. Các ông cho rằng, không có tri thức thì không có ý thức và do vậy
cũng không có niềm tin. Do đó, bản chất của niềm tin là kết quả của quá trình
nhận thức thế giới xung quanh và tự nhận thức chính bản thân mình, mang
tính năng động, sáng tạo của con người. Triết học Mácxit khẳng định niềm tin
có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, tác động mạnh đến hoạt động
của con người, là động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội (Trịnh Đình Bảy, 2003).
Charles Sanders Peirce (1839 – 1914) là nhà triết học, lôgíc học, toán học
và tự nhiên học. Ông còn được thừa nhận là người sáng lập chủ nghĩa thực
dụng Mỹ. Về lịch sử khoa học, khi nói về vai trò của khoa học, ông cho rằng,
chúng ta không nên biến khoa học thành cái chỉ biết phục tùng niềm tin, mà
nên biến khoa học thành cái phục tùng thực nghiệm. Năm 1872, lần đầu tiên,
ông đưa ra khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” và trình bày những tư tưởng cơ
bản, quan niệm chủ yếu của mình về chủ nghĩa thực dụng trong báo cáo khoa
học tại câu lạc bộ siêu hình thuộc Đại học Harvard. Sau đó, báo cáo khoa học
8
này đã được ông chỉnh lý, bổ sung thành hai bài viết với tên gọi Xác định
niềm tin và Làm thế nào để cho quan niệm của chúng ta được sáng tỏ và lần
lượt cho đăng trên Nguyệt san khoa học phổ thông (số 11 – 1877 và số 1 –
1878). Charles S.Peirce coi mọi tri thức của nhân loại đều là “niềm tin thực
dụng”; rằng tri thức chẳng qua chỉ là phương tiện để nhân loại xác định niềm
tin và biến niềm tin này thành phương thức hành động (Nguyễn Văn Hùng,
2008).
Karl Jaspers (1883 – 1969) nhà tâm lý học và triết gia người Đức cũng
quân tâm đến vấn đề niềm tin. Tuy nhiên là ông đề cập đến niềm tin triết học,
ông cho rằng: Niềm tin triết học là một hình thức tín ngưỡng, là yếu tính của
tương quan giữa ta và siêu việt, là niềm tin của con người vào những khả
năng của mình. Niềm tin này nói lên tự do tính của con người. Quan niệm này
cho thấy, với Jaspers thì niềm tin triết học không phải là tri thức, mà là vô
thức, tức là một đức tin; nó không có mục đích thay thế đức tin tôn giáo, mà
chỉ có ý nghĩa củng cố cho đức tin đó tự vượt lên chính mình; nó là một hành
vi hiện sinh, khi hiện sinh tự ý thức rằng mình sống trong tương quan với siêu
việt, trong thực tại của siêu việt (Nguyễn Lê Thạch & Nguyễn Ngọc Quỳnh,
2010).
– Dưới góc nhìn tôn giáo
James W. Fowler (1940 – 2015) là nhà thần học người Mỹ, là giáo sư
Thần học và phát triển con người tại Đại học Emory. Ông là giám đốc của
Trung tâm nghiên cứu về đức tin và phát triển đạo đức và Trung tâm đạo đức
cho đến khi ông nghỉ hưu năm 2005. Ông là một mục sư của Giáo hội Giám
lý Liên hiệp. Ông định nghĩa đức tin là một hoạt động tin tưởng, cam kết và
liên quan đến thế giới dựa trên một loạt các giả định về cách một người có
liên quan đến người khác và thế giới. Ông đề xuất một loạt các giai đoạn phát
triển đức tin (hay phát triển tâm linh) trong suốt vòng đời của con người như
sau:
9
Giai đoạn 1 Trực giác – hình chiếu: một giai đoạn nhầm lẫn và có độ ấn
tượng cao thông qua các câu chuyện và nghi lễ (thời kỳ mẫu giáo).
Giai đoạn 2 Huyền thoại – nghĩa đen: một giai đoạn cung cấp thông tin
được chấp nhận để phù hợp với các chuẩn mực xã hội (giai đoạn đi học).
Giai đoạn 3 Tổng hợp – thông thường: đức tin có được được cụ thể hóa
trong hệ thống niềm tin với việc từ bỏ nhân cách hóa và thay thế bằng thẩm
quyền trong các cá nhân hoặc nhóm đại diện cho niềm tin của một người (tuổi
vị thành niên sớm).
Giai đoạn 4 Cảm ứng – phản xạ: cá nhân phân tích phê phán và chấp nhận
đức tin với các hệ thống đức tin hiện có. Sự vỡ mộng hoặc củng cố đức tin
xảy ra trong giai đoạn này. Dựa trên nhu cầu, kinh nghiệm và nghịch lý (tuổi
trưởng thành sớm).
Giai đoạn 5 Đức tin kết hợp: con người nhận ra giới hạn của logic và đối
mặt với những nghịch lý hay siêu việt của cuộc sống, chấp nhận “bí ẩn của
cuộc sống” và thường quay trở lại những câu chuyện và biểu tượng thiêng
liêng của hệ thống đức tin được tiếp thu hoặc được thông qua lại. Giai đoạn
này được gọi là giải quyết thương lượng trong cuộc sống (khoảng tuổi trung
niên).
Giai đoạn 6 Phổ cập đức tin: đây là giai đoạn “giác ngộ” nơi cá nhân bước
ra khỏi tất cả các hệ thống đức tin hiện có và sống cuộc sống với các nguyên
tắc từ bi và tình yêu phổ quát và phục vụ người khác để nâng đỡ, không phải
lo lắng và nghi ngờ (tuổi trung niên muộn).
Không có quy tắc đơn giản đòi hỏi các cá nhân theo đuổi đức tin phải trải
qua tất cả sáu giai đoạn. Các giai đoạn từ 2-5 có khả năng cao cho các cá nhân
cố định trong một giai đoạn cụ thể trong suốt cuộc đời. Giai đoạn 6 là đỉnh
cao của sự phát triển đức tin (Fowler, James W & Robin W. Levin, 1984).
Trong Phật giáo sơ khai, đức tin tập trung vào Tam Bảo: Phật, Pháp và
Tăng, nghĩa là Phật Gautama, giáo lý của Phật (Pháp) và cộng đồng những tín
đồ phát triển tâm linh, hoặc cộng đồng tu sĩ tìm kiếm sự giác ngộ (Tăng đoàn).
10
Niềm tin vào Phật giáo dẫn đến mục tiêu giác ngộ, hay bồ đề và niết bàn. Đức
tin ngụ ý một hành động kiên quyết và can đảm của ý chí, nó kết hợp ý chí
kiên định sẽ làm một điều với sự tự tin rằng có thể làm được điều đó. Đức tin
được gọi là “hạt giống”, và không có nó, thực vật của đời sống tâm linh không
thể bắt đầu được. Không có niềm tin, người ta có thể, không có gì đáng làm
cả (Conze, E. ,1993).
Trong Kitô giáo, đức tin gây ra sự thay đổi khi nó tìm kiếm một sự hiểu
biết lớn hơn về Thiên Chúa. Đức tin không chỉ là chủ nghĩa trung thực hay sự
vâng phục đơn giản đối với một bộ quy tắc hoặc tuyên bố. Trước khi Kitô hữu
có đức tin, họ phải hiểu họ có đức tin vào ai và vào những gì. Không có sự
hiểu biết, không thể có đức tin thực sự, và sự hiểu biết đó được xây dựng trên
nền tảng của cộng đồng tín đồ, kinh thánh và truyền thống và kinh nghiệm cá
nhân của tín đồ. Trong các bản dịch tiếng Anh của Tân Ước, từ “đức tin”
thường tương ứng với danh từ Hy Lạp πίστις (pistis) hoặc với động từ Hy Lạp
πιστεύω (pisteuo), có nghĩa là “tin tưởng, tin tưởng, trung thành, đáng tin cậy,
để đảm bảo ” (James & B. O, 2019).
Bahá’í giáo – một tôn giáo độc lập trên thế giới, có nguồn gốc thiêng liêng,
phát xuất từ Ba Tư (Iran). Đức Baha’u’llah là đấng Giáo Tổ của tôn giáo
Baha’i từ khi lập đạo đã dạy: “Trái đất là một quốc gia, nhân loại là công dân
của quốc gia đó” và dạy rằng chỉ có một Thượng Đế duy nhất, biểu hiện liên
tục ý chí của Ngài đến với nhân loại qua các Đấng Sứ giả của Ngài như Đức
Moses, Đức Krishna, Đức Phật, Đức Zoroaster, Đức Chúa, Đức Muhammad
nhằm thăng tiến nền văn minh không ngừng cho nhân loại. Trong Bahá’í giáo,
đức tin có nghĩa là kiến thức có ý thức và thực hành những việc tốt. Theo
quan điểm của tôn giáo, đức tin và kiến thức đều cần thiết cho sự tăng trưởng
tâm linh. Đức tin liên quan nhiều hơn sự vâng phục bên ngoài nhưng cũng
phải dựa trên sự hiểu biết cá nhân sâu sắc về giáo lý tôn giáo (Esslemont &
John Ebenezer 2006).
11
– Dưới góc nhìn tâm lý học
Vào thế kỷ XX, các nhà tâm lý học như Erik Erikson (1902-1994), John
Bowlby (1907-1990), D. W. Winnicott, v.v…đã giải thích về sự hình thành
niềm tin. Các học thuyết cho rằng sự hình thành niềm tin bắt nguồn từ những
giai đoạn đầu đời của con người và mối quan hệ với những người xung quanh.
Cụ thể là cha, mẹ có sự tác động mạnh mẽ đến quá trình nền tảng của việc
hình thành niềm tin vào chính bản thân và các đối tượng khác.
Các nhà tâm lý còn bàn về sự tác động của niềm tin trong việc hình thành
nhân cách con người. Một đóng góp lớn là trong công trình nghiên cứu nhân
cách của A. G. Kovaliov chỉ ra rằng niềm tin là một trong những thuộc tính
của xu hướng nhân cách. Niềm tin tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành
động – tác động chiều hướng phát triển nhân cách (Lê Thị Bừng, 2007).
Ở lĩnh vực trị liệu tâm lý, Albert Ellis (1902 – 1994) đã xây dựng phương
pháp hành vi cảm xúc hợp lý (Rational Emotive Behaviour Therapy: REBT)
năm 1962. Lý luận của ông xuất phát từ quan điểm cho rằng vấn đề của thân
chủ (những rối nhiễu cảm xúc) là do những niềm tin sai lệch hoặc những
mong muốn thái quá, không phù hợp gây ra. Ông cho rằng, rất ít khi do bản
thân sự kiện hay tình huống gây ra hậu quả stress – thất bại hoặc bị rối loạn
ứng xử, mà chủ yếu là do niềm tin về sự kiện đó gây ra. Đối với liệu pháp trị
liệu tâm lý này, ông đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của niềm tin trong việc
điều chỉnh cảm xúc, hành vi của thân chủ (Trần Thị Minh Đức, 2014).
* Một số nghiên cứu trên thế giới
Sách “Belief, Truth and Knowledge” của tác giả D.M. Amstrong là một
nghiên cứu trên phạm vi rộng về các khái niệm trung tâm trong nhận thức
luận – niềm tin, sự thật và kiến thức. Ông đưa ra bản mô tả về niềm tin chung
và kiến thức về các đề xuất chung. Niềm tin về các vấn đề thực tế cụ thể được
mô tả như các cấu trúc trong tâm trí của tín đồ đại diện cho hoặc “bản đồ”
thực tế, trong khi niềm tin chung là các khuynh hướng mở rộng “bản đồ” hoặc
12
giới thiệu các mối quan hệ ngẫu nhiên giữa các phần của bản đồ theo các quy
tắc chung. “Kiến thức” biểu thị độ tin cậy của những niềm tin như là sự thể
hiện của thực tế.
Năm 1984, Snyder, M. trong tác phẩm “When belief creates reality” đã
nhấn mạnh rằng các quy trình của tư tưởng xã hội được kết nối mật thiết vào
kết cấu của sự tương tác xã hội và các mối quan hệ giữa các cá nhân. Các sự
kiện của cuộc sống có sự phản ánh niềm tin của một người về những người
khác trong thế giới. Theo nghĩa này, niềm tin có thể và thực sự tạo ra thực tế.
Năm 1985, trong tác phẩm “Trust as a Social Reality” của J. David Lewis
và Andrew Weigert xem niềm tin là bao gồm cả khía cạnh cảm xúc, nhận
thức và hoạt động như một giả định sâu sắc bảo lãnh trật tự xã hội.
Năm 1992, trong nghiên cứu “Trust in the Public Sector: Individual and
Organizational Determinants” của Carnevale, DG, & Wechsler, B đã thử
nghiệm một mô hình hình thành niềm tin trong các tổ chức công cộng. Kết
quả nghiên cứu này cho thấy niềm tin của tổ chức là một thái độ khác biệt liên
quan đến công việc. Niềm tin dựa trên nhân khẩu học, khuynh hướng tâm lý
và cá nhân, thái độ và niềm tin và phản ứng có liên quan đến các yếu tố tổ
chức. Tuy nhiên, các yếu tố quyết định quan trọng nhất của niềm tin được tìm
thấy trong môi trường tổ chức được thiết lập bởi các mối quan hệ giám sát.
Năm 2015, trong nghiên cứu “The role of beliefs in teacher agency” của
Gert Biesta, Mark Priestley và Sarah Robinson cho thấy niềm tin đóng một
vai trò quan trọng trong công việc của giáo viên, sự không phù hợp rõ ràng
giữa niềm tin và giá trị cá nhân của giáo viên và các diễn ngôn và văn hóa thể
chế rộng hơn, và thiếu tầm nhìn chuyên nghiệp rõ ràng và mạnh mẽ về mục
đích giáo dục cho thấy rằng việc thúc đẩy cơ quan giáo viên không chỉ dựa
vào niềm tin mà các giáo viên cá nhân mang lại cho thực tiễn của họ, mà còn
đòi hỏi sự phát triển và cân nhắc tập thể.
13
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, đến những năm gần đây các nhà khoa học mới quan tâm đến
vấn đề niềm tin. Các đề tài nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau, đặc biệt
là niềm tin với chính trị và niềm tin với tôn giáo,…
Năm 2002, Tác giả Trịnh Định Bảy đã bảo vệ thành công luận án “Niềm
tin: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Tác giả đã đưa ra quan niệm về niềm
tin, nguồn gốc, bản chất, cấu trúc nội dung của niềm tin. Các khía cạnh bản
thể luận, nhận thức luận, thực tiễn và giá trị luận của niềm tin. Vai trò của
niềm tin (đặc biệt là niềm tin khoa học) trong đời sống xã hội và một số giải
pháp nhằm củng cố niềm tin. Đây là một công trình nghiên cứu nổi trội trong
các đề tài nghiên cứu niềm tin, theo khuynh hướng triết học.
Năm 2006, Vũ Anh Tuấn đã đăng trong tạp chí tâm lý học chủ đề “Giáo
dục và hình thành niềm tin từ hướng tiếp cận tâm lý học”. Tác giả đưa ra khái
niệm niềm tin, phân loại niềm tin, nêu ra những đặc trưng cơ bản và cơ chế
tâm lý của quá trình giáo dục và hình thành niềm tin.
* Một số nghiên cứu về niềm tin trong xã hội
Năm 2008, trong nghiên cứu của tác giả Đặng Vũ Cảnh Linh với tác phẩm
“Niềm tin – một giá trị đặc biệt của sinh viên trong điều kiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” đã tìm hiểu về những niềm tin của sinh viên, ý nghĩa
của niềm tin đối với cuộc sống sinh viên. Ngoài ra còn tìm hiểu những biểu
hiện mất niềm tin, sai lệch niềm tin và đề xuất một số khuyến nghị để xây
dựng niềm tin tích cực cho sinh viên dựa trên kết quả nghiên cứu.
Sách “Đi tìm niềm tin thời Internet” (2013) của tác giả Phan Alan đã đặt
ra các vấn đề: Chúng ta sống trong thời đại của Internet, thông tin đầy rẫy
nhưng không phải cái gì cũng đáng tin; khi thông tin tràn ngập đủ loại, chúng
ta dễ bị lúng túng. Cho nên, dĩ nhiên phải đi tìm niềm tin để định hướng cho
nhận thức của mình. Nhưng ở một tầng nghĩa khác bao quát hơn, vĩ mô hơn,
bài toán này dường như không chỉ giới hạn ở mỗi cá nhân mà đặt ra cho cả
14
quốc gia, cho cả dân tộc: Nước Việt Nam, dân tộc Việt cần có niềm tin và
vững tin vào chính bản thân mình trước vô vàn thử thách của thời đại Internet.
Năm 2014, Nguyễn Thị Khánh Hòa với đề tài luận án “Các yếu tố ảnh
hưởng đến lòng tin xã hội của người Việt Nam”. Tác giả đã chỉ ra 2 khía cạnh
là ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin xã hội và ảnh hưởng gián tiếp đến lòng tin
xã hội thông qua các thành tố của lòng tin. Đối với người Việt Nam, các yếu
tố được phân chia một cách tương đối thành ba nhóm: nhóm yếu tố cá nhân,
gia đình và cộng đồng/xã hội. Trong đó, các yếu tố thuộc nhóm cộng đồng/xã
hội thể hiện mức độ ảnh hưởng mạnh nhất một trực tiếp và gián tiếp đến lòng
tin xã hội.
Năm 2015, tác giả Phạm Liên Kết cũng nghiên cứu về niềm tin xã hội và
kết luận rằng niềm tin xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực quan trọng để
phát triển bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Niềm tin
xã hội trở thành chủ đề nghiên cứu thời sự, có ý nghĩa thực tiễn và chính sách.
Tác phẩm “Góp phần tìm hiểu cơ sở lý luận nghiên cứu niềm tin xã hội” bước
đầu phác thảo cơ sở lý luận nghiên cứu niềm tin xã hội thông qua tìm hiểu và
nhận diện nội hàm của khái niệm niềm tin xã hội cũng như một số đặc điểm
của nó.
* Một số nghiên cứu về niềm tin trong chính trị
Năm 2005, tác giả Luyện Thị Hoàn với luận văn “ Xây dựng niềm tin đối
với chủ nghĩa xã hội cho sinh viên”. Tác giả đã làm sáng tỏ nhận thức về
niềm tin, đặc biệt là niềm tin đối với chủ nghĩa xã hội và về quá trình xây
dựng niềm tin đó cho sinh viên. Đưa ra phương hướng và những giải pháp
nhằm góp phần tiếp tục làm tốt hơn việc giáo dục, xây dựng niềm tin đối với
chủ nghĩa xã hội cho sinh viên.
Năm 2015, trong luận án “Vấn đề niềm tin trong triết học thực dụng
Peirce”, tác giả Nguyễn Hải Hoàng đã chỉ ra tiến trình hình thành, xác định và
phân tích được những nội dung cơ bản của khái niệm niềm tin thực dụng ở
15
Peirce, từ đó đưa ra một số nhận định và đánh giá khách quan về những giá trị,
hạn chế và cả những mâu thuẫn đúng với nội dung thực sự của triết học thực
dụng nói chung và của quan niệm về niềm tin thực dụng của Peirce.
Cùng năm 2015, trong đề tài “Giáo dục niềm tin chính trị cho thanh niên
tỉnh Yên Bái hiện nay” tác giả Dương Thị Thúy Tài đã nghiên cứu lý luận
chung về giáo dục niềm tin chính trị, các yếu tố cấu thành công tác giáo dục
niềm tin chính trị cho thanh niên, sự cần thiết phải nâng cao chất lượng giáo
dục niềm tin chính trị cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Khảo sát thực
trạng giáo dục niềm tin chính trị cho thanh niên tỉnh Yên Bái, chỉ ra các thành
tựu, hạn chế cũng như nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó, phát
hiện ra những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục niềm tin chính trị cho
thanh niên tỉnh Yên Bái hiện nay. Đề xuất quan điểm và các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục niềm tin chính trị cho thanh niên tỉnh Yên Bái
trong thời gian tới.
Năm 2017, Nguyễn Quang Hùng với luận án “Niềm tin chính trị của sinh
viên Việt Nam hiện nay”. Tác giả đã phân tích, làm rõ thực trạng niềm tin
chính trị của sinh viên; phân tích các nhân tố tác động đến niềm tin đó, những
vấn đề đặt ra và xu hướng biến đổi về niềm tin chính trị. Từ đó, đề xuất
phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nằm xây dựng, củng cố niềm tin
chính trị của sinh viên Việt Nam hiện nay.
* Một số nghiên cứu về niềm tin trong tôn giáo
Năm 2009, Tô Thúy Hạnh với luận văn “Thực trạng niềm tin đối với đạo
Tin lành của tín đồ người Hmông ở một số tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam
hiện nay”. Từ nghiên cứu hiện trạng niềm tin đối với đạo Tin lành, tác giả đề
xuất một số kiến nghị bao gồm: tạo điều kiện để dân tộc này nâng cao đời
sống kinh tế, cũng như đời sống tinh thần; tuyên truyền giáo dục đồng bào
hiểu đúng bản chất của vấn đề niềm tin.