BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ
Nguyễn Thị Ánh
THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC THỂ DỤC
THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐỐI VỚI GIÁ TRỊ SỐNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ
Nguyễn Thị Ánh
THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC THỂ DỤC
THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐỐI VỚI GIÁ TRỊ SỐNG
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số : 60 31 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Ánh, học viên lớp Cao học Tâm lý học K22, khoá
2011 – 2013. Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ: “Thái độ của sinh viên Đại
học Thể dục thể thao Thành phố Hồ Chí Minh đối với giá trị sống” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả được trình bày trong luận văn là trung thực, chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Ánh
2
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Tiến sĩ Trần Thị Quốc Minh,
người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Với những lời chỉ dẫn, những
tài liệu, sự tận tình hướng dẫn và những lời động viên của Cô đã giúp tôi vượt qua
nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn này.
Xin cám ơn các Quý thầy, cô công tác tại Văn phòng khoa, thư viện, đặc biệt là
Phòng sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình tôi tham gia và
hoàn thành khóa học.
Sau cùng tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến bạn bè, gia đình đã luôn cổ vũ, động
viên và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng như thực hiện
luận văn.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận
văn còn nhiều thiếu, rất mong nhận được ý kiến góp ý của Thầy/Cô và các anh/ chị
học viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Nguyễn Thị Ánh
3
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ………………………………………………………………………………………….. 1
LỜI CẢM ƠN ……………………………………………………………………………………………….. 2
MỤC LỤC …………………………………………………………………………………………………….. 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
………………………………………………………………. 5
MỞ ĐẦU
……………………………………………………………………………………………………….. 6
1. Lý do chọn đề tài
……………………………………………………………………………………………….
6
2. Mục đích nghiên cứu …………………………………………………………………………………………
7
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ……………………………………………………………………
7
4. Giả thuyết nghiên cứu ……………………………………………………………………………………….
7
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
…………………………………………………………………………………………
8
6. Giới hạn nghiên cứu: …………………………………………………………………………………………
8
7. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………………………………………..
8
8. Cấu trúc luận văn ……………………………………………………………………………………………..
9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI GIÁ TRỊ SỐNG CỦA
SINH VIÊN …………………………………………………………………………………………………. 11
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề …………………………………………………………………………….
11
1.1.1. Trên thế giới …………………………………………………………………………………………….
11
1.1.2. Ở Việt Nam ……………………………………………………………………………………………..
12
1.2. Những vấn đề lý luận về thái độ đối với giá trị sống của sinh viên
…………………..
13
1.2.1. Lý luận về thái độ
……………………………………………………………………………………..
13
1.2.2. Giá trị và giá trị sống
…………………………………………………………………………………
20
1.2.3. Thái độ của sinh viên đối với giá trị sống …………………………………………………….
39
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC THỂ
DỤC THỂ THAO TP. HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI GIÁ TRỊ SỐNG ……………….. 46
2.1. Thể thức nghiên cứu ……………………………………………………………………………………..
46
2.1.1. Khách thể nghiên cứu
………………………………………………………………………………..
46
2.1.2. Mô tả công cụ nghiên cứu ………………………………………………………………………….
48
2.2. Thực trạng thái độ của sinh viên Đại học Thể dục thể thao TP Hồ Chí minh đối
với một số giá trị sống
………………………………………………………………………………………….
51
2.2.1. Nhận thức của sinh viên Đại học TDTT TP HCM đối với giá trị sống …………….
51
2.2.2. Thái độ của sinh viên đối với tầm quan trọng của giá trị sống ………………………..
52
2.2.3. Thái độ của sinh viên đối với 4 giá trị sống ………………………………………………….
57
2.2.4. Thái độ ứng xử của sinh viên Đại học TDTT TP HCM đối với 4 giá trị sống …..
62
4
2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên đối với giá trị sống ……………….
66
2.3. Một số biện pháp xây dựng thái độ tích cực đối với giá trị sống cho sinh viên …
73
2.3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp …………………………………………………………………………….
73
2.3.2. Đề xuất một số biện pháp
…………………………………………………………………………..
74
2.3.3. Khảo sát mức độ hiệu quả của một số biện pháp xây dựng thái độ tích cực đối với
giá trị sống cho sinh viên
…………………………………………………………………………………….
76
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ……………………………………………………………………………. 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………………………. 86
PHỤ LỤC ……………………………………………………………………………………………………. 90
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
•
ĐH TDTT
: Đại học Thể dục thể thao
•
GDTC
: Giáo dục thể chất
•
HLTT
: Huấn luyện thể thao
•
QLTT
: Quản lý thể thao
•
SV
: Sinh viên
•
TLH
: Tâm lý học
•
TPHCM
: Thành Phố Hồ Chí Minh
•
NXB
: Nhà xuất bản
•
ĐTB
: Điểm trung bình
•
ĐLC
: Độ lệch chuẩn
•
GTS
: Giá trị sống
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
cùng với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội thì hệ thống giá trị cũng thay đổi.
Nhiều giá trị mới được tạo dựng, một số giá trị được mở rộng về nội dung…Điều này
ảnh hưởng đến sự lựa chọn các giá trị sống của mỗi cá nhân, nhất là lứa tuổi thanh
niên.
Các giá trị nói chung được coi là cốt lõi của nhân cách. Nó được hiểu là tổ hợp
các thuộc tính tâm lý của nhân cách, qui định chiều hướng và tính chất của hành vi.
Giá trị được thể hiện ở vai trò, vị trí, lối sống của cá nhân.
Giá trị sống là cơ sở để cá nhân tự đánh giá và điều chỉnh hoạt động, hành vi
ứng xử trong cuộc sống. Nó thôi thúc con người làm những điều tốt đẹp có ích cho
bản thân và cộng đồng. Ngoài ra, giá trị sống còn là động lực thúc đẩy hành vi của
con người, khơi gợi con người làm những điều tốt đẹp. Nếu thiếu các giá trị sống nền
tảng con người sẽ thiếu động cơ, mục đích sống, không biết cách xây dựng và duy trì
mối quan hệ, không biết tôn trọng bản thân và người khác…
Sinh viên là nguồn nhân lực tương lai của đất nước, đại diện cho lực lượng lao
động có trình độ cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội
nhập khu vực và quốc tế. Việt Nam luôn chú trọng đào tạo nguồn nhân lực tương lai
có đầy đủ năng lực chuyên môn và những giá trị sống cần thiết để chung sống trong
thời đại ngày nay. Tuy nhiên hiện nay giá trị sống của không ít người trẻ tuổi, trong
đó có sinh viên, đang thay đổi theo hướng coi trọng các giá trị vật chất, quyền lực và
sự giàu sang mà ít coi trọng các giá trị tinh thần. Việc nghiên cứu nhận thức của sinh
viên về giá trị sống sẽ giúp người nghiên cứu phác họa bức tranh về thực trạng giá trị
sống của sinh viên, từ đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của sinh
viên về giá trị sống là một điều thực sự cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Sinh viên thể thao, là thế hệ được đào tạo để phát triển một lực lượng huấn luyện
viên, giáo viên tương lai nhằm thực hiện một trong những nhiệm vụ cơ bản, quan
trọng của giáo dục là giáo dục đức – trí – thể – mỹ, đặc biệt là giáo dục thể chất. Ngoài
7
sự phát triển về thể lực thì việc giáo dục các gia trị sống có vai trò vô cùng quan
trọng. Sự phát triển này tác động chi phối các hoạt động tâm lý, hành vi và thái độ
trong học tập, thi đấu và trong cuộc sống của các em. Vì thế, nếu nhận thức đúng đắn
và có thái độ phù hợp với những giá trị sống trong giai đoạn này sẽ có ảnh hưởng tích
cực đến cuộc sống, công việc của các em.
Nghiên cứu về giá trị và giá trị sống đã được một số tác giả trong và ngoài nước
đề cập đến trên bình diện định hướng giá trị và định hướng giá trị đạo đức ở thanh
niên. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể thái độ của
sinh viên nói chung và sinh viên thể thao về giá trị sống. Vì lẽ đó, tìm hiểu cụ thể thái
độ của sinh viên thể thao đối với giá trị sống là cần thiết.
Từ những lý do trên, người nghiên cứu chọn đề tài “Thái độ của sinh viên Đại
học Thể dục thể thao TP. Hồ Chí Minh đối với giá trị sống”.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thái độ đối với giá trị sống của SV trường Đại học Thể dục thể thao
TP. HCM, qua đó đề xuất một số biện pháp nhằm xây dựng thái độ tích cực đối với
giá trị sống cho sinh viên.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên Đại học Thể dục thể thao TP. HCM
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thái độ của sinh viên Đại học Thể dục thể thao TP. HCM đối với giá trị sống
4. Giả thuyết nghiên cứu
Hiện nay, sinh viên trường Đại học Thể dục thể thao TP. HCM có thái độ khá
tích cực đối với các giá trị sống.
Có sự khác biệt ý nghĩa thống kê về thái độ giữa các tham số: giới tính, năm
học, ngành học,…
8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu các vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài
5.2 Khảo sát thực trạng thái độ của sinh viên trường Đại học Thể dục thể thao
TP. HCM về một số giá trị: tôn trọng, trung thực, hợp tác và yêu thương
5.3 Đề xuất một số biện pháp nhằm xây dựng thái độ tích cực đối với các giá trị
sống cho sinh viên trường Đại học Thể dục thể thao TP. HCM.
6. Giới hạn nghiên cứu:
6.1. Giới hạn về nội dung
Trong đề tài này người nghiên cứu chỉ tìm hiểu các nội dung liên quan đến thái
độ của sinh viên đối với giá trị sống
6.2. Khách thể nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sinh viên ba khoa: Khoa Giáo dục thể chất , Khoa Huấn luyện
thể thao và Khoa Quản lý thể thao trường Đại học TDTT TP.HCM.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập, phân tích, tổng hợp và khái quát các tài liệu khoa học có liên quan đến
đề tài làm cơ sở lý luận định hướng cho việc tìm hiểu thực tiễn.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1.Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi:
Mục đích: Đây là phương pháp chính của đề tài. Dựa trên cơ sở lý luận, các đề
tài tham khảo có liên quan, người nghiên cứu xây dựng bảng hỏi để tìm hiểu thái độ
của sinh viên đối với một số giá trị sống, cụ thể là các vấn đề sau:
– Thái độ của sinh viên đối với giá trị sống
– Thái độ của sinh viên đối với bốn giá trị: tôn trọng, trung thực, tự do và yêu
thương
– Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ đối với giá trị sống
– Các biện pháp xây dựng thái độ của sinh viên đối với giá trị sống
9
Nội dung: Tìm hiểu mức độ nhận thức – thái độ – hành vi của sinh viên về đối
với một số giá trị sống.
Cách thức tiến hành
Thiết kế bảng hỏi: Trưng cầu ý kiến bằng câu hỏi mở, kết hợp với việc tổng hợp
cơ sở lý thuyết để thiết kế bảng hỏi sử dụng trong đề tài.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn:
Mục đích: thu thập, bổ sung và làm rõ hơn những thông tin điều tra thái độ của
sinh viên đối với giá trị sống đã thu được khi khảo sát rộng.
Nội dung: đánh giá mức độ quan trọng và sự ảnh hưởng của các giá trị sống đến
thái độ của sinh viên; các biện pháp xây dựng thái độ tích cực với các giá trị sống.
Cách thức tiến hành: phỏng vấn trực tiếp sinh viên trường đại học Thể dục thể
thao TP.HCM
7.3. Phương pháp thống kê toán học:
Mục đích: xử lý và mã hóa các thông số cần dùng trong đề tài nghiên cứu.
Nội dung: các phép thống kê cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu qua phần
mềm SPSS để xử lý số liệu:
– Tính trung bình
– Tính tấn số và tỷ lệ lựa chọn
– Xếp thứ hạng
– Kiểm nghiệm f (so sánh biến giới tính, khoa, học lực)
8. Cấu trúc luận văn
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu nước ngoài
1.1.2. Nghiên cứu trong nước
1.2. Một số khái niệm cơ bản về thái độ đối với giá trị sống của sinh viên
1.2.1. Khái niệm thái độ
10
1.2.2. Giá trị và giá trị sống
1.2.3. Thái độ của sinh viên đối với giá trị sống
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ đối với các giá trị sống
1.3 Đặc điểm tâm lý cúa sinh viên Đại học Thể dục thể thao
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC TDTT TP.
HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI GIÁ TRỊ SỐNG
2.1. Thể thức nghiên cứu
2.1.1. Khách thể nghiên cứu
2.1.2. Mô tả công cụ nghiên cứu
2.2. Thực trạng thái độ của sinh viên Đại học TDTT TP Hồ Chí Minh đối với giá
trị sống
2.2.1. Thái độ của sinh viên TDTT đối với giá trị sống
2.2.2. Thái độ của sinh viên đối với 4 giá trị sống
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên đối với giá trị sống
2.3. Một số biện pháp xây dựng thái độ tích cực đối với giá trị sống cho sinh viên
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI GIÁ TRỊ
SỐNG CỦA SINH VIÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề giá trị và giáo dục giá trị là mối quan tâm đặc biệt của các nhà giáo dục
trong định hướng phát triển nhân cách con người. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam
đã và đang có nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc về vấn đề này
1.1.1. Trên thế giới
Trong những năm cuối của thế kỷ 20, vấn đề giá trị và định hướng giá trị ngày
càng được nhiều nước trên thế giới quan tâm như Ba Lan, Liên Xô, Bungary, Nhật
Bản, Hungary, v.v…Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều vấn đề của giá trị
như nội dung (gồm giá trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị thẩm mĩ ) (Tsunesaburo
Makiguchi (1994), giáo dục vì cuộc sống sáng tạo).
Trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên của Bungari trong chương trình
nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên đã đề cập nhiều đến vấn đề
định hướng giá trị cho thanh niên, đặc biệt là sự khác biệt trong thang giá trị của
thanh niên so với thế hệ ông cha.
Hai cuộc điều tra: Thanh niên từ 18 – 24 tuổi của phòng nghiên cứu Thanh niên
– Viện nghiên cứu Thế giới của Nhật Bản lấy mẫu trên 11 nước và thanh niên từ 18 –
24 tuổi ở 10 nước châu Âu đều đề cập chủ yếu đến vấn đề giá trị và định hướng giá
trị của thanh niên nhằm chuẩn bị cho họ sẵn sàng bước vào cuộc sống.
Để thực hiện những chương trình hoạt động của mình năm 1986 – 1987
UNESCO đã đề nghị: The cub of rome tiến hành cuộc điều tra quốc tế về giá trị giá
trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI trong tình hình có những
biến đổi thường xuyên và nhanh chóng về bạo lực đang ảnh hưởng đến xã hội vào
những năm cuối của thế kỷ này. Mục đích của cuộc nghiên cứu là hướng dẫn người
làm công tác giáo dục các vấn đề giá trị đạo đức, đề nghị họ mở rộng điều tra hơn
nữa và sử dụng những điều đó vào hệ thống giáo dục của các nước, ở tất cả những
nơi và lớp trẻ cần được giáo dục về giá trị đạo đức.
12
Trong khuôn khổ chương trình Giáo dục những giá trị sống của UNESCO, bộ
sách của tác giả Diane Tillman “Những giá trị sống dành cho trẻ từ 3 đến 7 tuổi”,
“Những giá trị sống dành cho trẻ từ 8 đến 14 tuổi”, và “Những giá trị sống cho tuổi
trẻ” đã trình bày 12 giá trị: hòa bình, hợp tác, tôn trọng, trung thực, tự do, trách
nhiệm, khoan dung, giản di, yêu thương, đoàn kết, hạnh phúc, khiêm tốn.
Thời gian gần đây, các nước Châu Á và Đông Nam Á đã có nhiều cuộc hội thảo,
tập huấn về vấn đề nghiên cứu giá trị và giáo dục giá trị, nhiều tài liệu về giáo dục giá
trị của các nước đã được công bố. Đáng chú ý là “Chương trình giáo dục cho người
Philipin và tập tài liệu “Giá trị trong hành động” của Trung tâm canh tân và Công
nghệ giáo dục thuộc tổ chức Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á – xuất bản năm 1992.
Tài liệu này đã trình bày quan điểm, mục tiêu, chương trình và cách đưa giáo dục giá
trị vào nhà trường cộng đồng của các nước Indonesia, Philipin, Singapo, Malaysia,
Thái lan.
1.1.2. Ở Việt Nam
Cũng như các nhà khoa học trên thế giới, tại Việt nam, khi nghiên cứu về vấn đề
giá trị, các tác giả cũng quan tâm nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị.
Các đề tài cấp nhà nước trong chương trình nghiên cứu về con người (KX-07)
đều có đề cập đến hệ giá trị, định hướng giá trị của con người Việt Nam trong điều
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, đổi mới, mở cửa.
“Tổng quan về giá trị và giáo dục giá trị”, đề tài Đề tài KX – 07 – 04. H.( 1993)
do Lê Đức Phúc và Mạc Văn Trang thực hiện.[23]
“Giá trị – Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị”. Đề tài KX – 07 – 04.
H. 1995 của Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang.[32]
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Đinh Thị Kim Thoa đã phân tích các giá trị
truyền thống của con người Việt Nam và 12 giá trị sống phổ quát của UNESCO. Từ
đó đề xuất một số biện pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh phổ thông. [16]
Tác giả Nguyễn Công Khanh và Nguyễn Thị Kim Liên đã nghiên cứu và đề xuất
các giá trị sống cần được giáo dục ở lứa tuổi học sinh và phương pháp giáo dục giá trị
13
sống. Từ đó hai tác giả đề xuất xây dựng mô hình câu lạc bộ giáo dục giá trị sống và
phát triển kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sơ[13]
Tác giả Lục Thị Nga có đề tài phân tích công tác quản lý của hiệu trưởng trường
trung học cơ sở trong công tác giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống[17]
Đề tài “Nghiên cứu giáo dục giá trị sống cho học sinh tiểu học Hà Nội trong
giai đoạn hiện nay” do Hội Tâm lý Giáo dục Hà Nội thực hiện, TS Nguyễn Tùng
Lâm làm chủ nhiệm đề tài. Mục tiêu của đề tài là: Xác định những giá trị cốt lõi của
người Việt Nam hiện nay để xây dựng chương trình giáo dục giá trị sống cho học
sinh tiểu học ở Hà Nội. Từ đó đưa ra các giải pháp xây dựng chương trình và thực
hiện giáo dục giá trị sống. Hiện nay, đề tài vẫn đang trong giai đoạn hoàn thành và tổ
chức một số hội thảo nhằm đánh giá những nguyên nhân cần phải tăng cường giáo
dục giá trị sống cho học sinh tiểu học ở Hà Nội. Đồng thời, đề xuất về các giá trị sống
cần giáo dục cho học sinh tiểu học, cũng như phương pháp và cách thức tiếp cận. [41]
Nghiên cứu về thái độ đã được tiếp cận đến các lĩnh vực như thái độ đối với học
tập, nghề nghiệp, trẻ tự kỷ, các vấn đề xã hội… thể hiện cụ thể thông qua một số đề
tài: Tìm hiểu thực trạng thái độ nghề nghiệp của giáo viên tâm lý giáo dục ở một số
trường cao đẳng sư phạm (Thái Bình, Vĩnh Phú, Hải Hưng) thông qua các hoạt động
sư phạm của tác giả Bùi Ngọc Sơn, Đại học sư phạm Hà Nội I năm 1985; Nhận thức
thái độ của học sinh THPT thị xã Hà Giang về đạo hiếu trong gia đình ngày nay/
Phạm Thị GấmĐHSPHN, 2001…
Năm 2012, tác giả Trần Kim An đưa giá trị sống theo UNESCO vào trong
nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình với tên đề tài “Nhận thức về một số giá trị sống
của SV trường đại học Kinh tế – Tài chính TP. HCM”. Như vậy chưa có công trình
nghiên cứu nào quan tâm đến việc xem xét thái độ đối với các giá trị sống của sinh
viên. Vì vậy, vấn đề thái độ đối với các giá trị sống được chúng tôi tiến hành nghiên
cứu trên khách thể là sinh viên trường Đại học Thể dục thể thao TP. HCM
1.2. Những vấn đề lý luận về thái độ đối với giá trị sống của sinh viên
1.2.1. Lý luận về thái độ
1.2.1.1. Khái niệm thái độ
14
Theo từ điển tiếng Việt, viện ngôn ngữ học, 2004, thái độ được định nghĩa:
1. Là tổng thể nói chung của những biểu hiện ra bên ngoài ( bằng nét mặt, cử
chỉ, lời nói, hành động) của ý nghĩ, tình cảm với ai hoặc đối với sự việc nào đó.
2. Là cách nghĩ, cách nhìn, cách hành động theo một hướng nào đó trước một
vấn đề, một tình hình.
Theo từ điển tâm lý, Nguyễn Khắc Viện chủ biên năm 2001, thái độ, tiếng Pháp
attitude, được giải thích như sau: trước một đối tượng hoặc một ý tưởng, con người
bộc lộ những phản ứng tức thì, chẳng hạn như tiếp nhận rõ ràng hay khó khăn, đồng
tình hay chống đối, như đã có sẵn những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc
ứng phó. Từ những thái độ có sẵn, tri giác về đối tượng cũng như tri thức bị chi phối.[
35]
Nhà tâm lý học xã hội Hoa Kỳ G.V.Onparte cho rằng “thái độ” là trạng thái thần
kinh và tâm lý của sự sẵn sàng được tạo ra trên cơ sở kinh nghiệm, nó ảnh hưởng và
điều khiển năng động đến những khách thể và tình huống gắn liền với cá nhân
đó.[32,tr 70]
Theo Uzonataze “thái độ” là một trạng thái toàn vẹn của chủ thể. Đó là sự phản
ánh cơ bản đầu tiên đối với các tác động của tình huống trong chủ thể phải đặt ra và
giải quyết tình huống.(giống trên Nguyễn Quang Uẩn)
Bên cạnh đó còn có nhiều định nghĩa khác nhau về thái độ. Chẳng hạn, định
nghĩa của Allport về thái độ, “thái độ là trạng thái sẵn sang về mặt tinh thần và thần
kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, sử dụng sự điều chỉnh hoặc ảnh hưởng
năng động trong phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà
phản ứng cá nhân ấy có mối quan hệ” [11, tr 319].
Newcome cho rằng tháu độ của một cá nhân đối với một khách thể nào đó là
“thiên hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của cá nhân ấy với khách thể
liên quan”. Đó là sự sẵn sàng phản ứng [11, tr319].
Trước đó nữa, các nhà nghiên cứu Thomas và Znaniecki đã chú ý tới sự thích
ứng của một nhóm khách thể nghiên cứu đối với sự thay đổi của môi trường xã hội,
thay đổi các giá trị được lựa chọn bởi nhóm khách thể ấy, mà đặc điểm chủ yaaes của
15
thay đổi này là vấn đề thái độ. Theo Thomas và Znaniecki, thái độ là trạng thái của cá
nhân đối với một giá trị [14, tr35].
Theo Lenin: “Thái độ là một bộ phận, lĩnh vực tình cảm phản ánh quan hệ của
cá nhân đối với hiện thực, nó được quyết định bởi thế giới quan của cá nhân cho nên
nó cũng phản ánh tồn tại xã hội chịu ảnh hưởng của ý thức giai cấp, của tâm lý xã
hội, của dư luận và tập đoàn xã hội. Nó thường không phải là những đáp ứng được
biểu lộ một cách minh thị hay trực tiếp mà là những ý nghĩ đang chuyển hóa thành
hành động.” [24, tr 20]
Kế thừa các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ), các tác giả Bùi Ngọc Oánh, Triệu
Xuân Quýnh, Nguyễn Hữu Nghĩa đã định nghĩa thái độ “là một thành tố quan trọng
tạo nên ý thức. Thái độ là những rung cảm, những cảm nghĩ có khả năng định hướng
hành động, hành vi tương ứng với đối tượng được nhận thức. Thái độ của cá nhân
phản ánh các mối quan hệ xã hội mà người đó gia nhập vào”. Các tác động để thực
hiện những hoạt động nhằm cải tạo thực hiện thực khách quan, phục vụ nhu cầu sống
còn của mình,con người không phải chỉ cần phản ánh thuộc tính khách quan của các
đối tượng bằng các hoạt động nhận thức, mà còn cần phản ánh mối quan hệ của các
đối tượng ấy với nhu cầu của mình. Mối quan hệ này quy định thái độ của con người
đối với đối tượng của quá trình phản ánh.Tùy thuộc vào đối tượng có ý nghĩa như thế
nào đối với nhu cầu của ta (thỏa mãn hay không thỏa mãn)mà ta có thái độ tương ứng
(tích cực hay tiêu cực) với đối tượng ấy” [22].
Một số tác giả nêu rõ thái độ thuộc lĩnh vực phản ánh cảm xúc, khác căn bản với
phản ánh nhận thức, các tác giả này dùng thuật ngữ “thái độ cảm xúc” khi nêu định
nghĩa về tình cảm. Chẳng hạn tác giả A.V.Daparôgiet đã viết: “Khi nhận thức hiện
thực xung quanh,con người không tỏ ra lạnh nhạt, bàng quan. Con người có một thái
độ nội tại nhất định đối với sự vật, hiện tượng và hành động nào đó. Tình cảm hay
xúc cảm là thái độ mà con người trực tiếp thể nghiệm đối với hiện thực xung quanh
và đối với bản thân” [7].
Qua một số những định nghĩa, những nội dung đề cập về thái độ nêu trên cho
thấy, dù được diễn giải theo nhiều phương cách khác nhau, nhưng vẫn có những điểm
16
chung về khái niệm thái độ mà các định nghĩa đều có đề cập đến. Đó là, thứ nhất, thái
độ là một dạng phản ứng bên trong (suy nghĩ, tình cảm,cảm nghĩ, ) và bên ngoài
(hành động, hành vi, sự thích ứng,…) của cơ thể; thứ hai, thái độ … khi có mối liên
quan giữa một đối tượng (một sự vật, hiện tượng,một con người, một nhóm người)
với sự thỏa mãn nhu cầu của chủ thể; thứ ba, thái độ có tính xã hội, phản ánh mối
quan hệ giữa chủ thể của thái độ và các thành phần khác trong xã hội (trong hoàn
cảnh, tình huống xã hội, trong sự trao đổi các giá trị, chuẩn mực xã hội,…). Do đó,
thái độ là đối tượng nghiên cứu của cả tâm lý học cá nhân và tâm lý học xã hội.
Cho đến ngày nay, thái độ vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu vì nội hàm của nó
rất rộng, khó xác định một cách đầy đủ trọn vẹn, cũng như khó đo lường một cách
chính xác tuyệt đối. Như vậy thái độ là một khái niệm được sử dụng thường xuyên
trong khoa học nói chung và khoa học tâm lý nói riêng. Chưa có một khái niệm thống
nhất mà dưới mỗi góc độ khác nhau người ta có thể hiểu vấn đề này khác nhau. Dưới
góc độ hiểu biết của mình chúng tôi cho rằng “Thái độ là hệ thống những suy nghĩ,
tình cảm, cách đánh giá của chủ thể đối với các tác động của thế giới khách quan.
Đó là sự đồng tình hay không đồng tình, ủng hộ hay phản đối, sự chấp thuận hay
không chấp thuận một dạng phản ứng nào đó của cá nhân hay nhóm xã hội.”
1.2.1.2. Đặc điểm của thái độ
a. Đặc điểm của thái độ
Đầu tiên thái độ là những rung cảm, xúc cảm đối với những đối tượng mới hay
là tình cảm đối với những đối tượng quen thuộc. Đó chính là mặt bên trong của thái
độ. Thái độ còn được biểu hiện ra bằng những ý định và hành vi, cử chỉ, đó chính là
mặt bên ngoài của thái độ. Mặt bên trong của thái độ không phải lúc nào cũng thể
hiện một cách trọn vẹn, thẳng thắn, nguyên xi mà có thể bị giấu kín nếu như cảm thấy
cần che giấu, khi đó chủ thể sẽ kiềm chế, đè nén và không biểu lộ thái độ của mình.
Thái độ mang tính chủ thể nhưng lại mang tính đối tượng khá rõ rệt. Đối với con
người, thái độ bao giờ cũng là thái độ đối với một đối tượng cụ thể nhất định. Thế
nhưng thái độ lại thể hiện rất rõ nét tính chủ thể vì với cùng một đối tượng nhưng mỗi
17
người lại có thái độ khác nhau, thậm chí ngay khi con người có thái độ giống nhau thì
cách thức và mức độ biểu hiện cũng khác nhau.
Thái độ mang tính cá nhân nhưng cũng bị chi phối bởi những yếu tố xã hội, dư
luận xã hội, phong tục tập quán…trước khi tỏ thái độ con người thường xem xét
những yếu tố xã hội chung quanh mình xem có cho phép hay không.
Mặt khác thái độ chính là một phần trong biểu hiện tình cảm. Thái độ có thể nói
là giai đoạn nảy sinh trước động cơ song chính thái độ cũng góp phần không nhỏ
trong việc hình thành động cơ và chính nó là giai đoạn định hướng cho động cơ đi
đến hành động.
Thái độ thường được phân chia thành hai hướng khác nhau. Thái độ tích cực –
thái độ tiêu cực, thái độ đúng đắn – thái độ không đúng đắn (thái độ sai lệch). Khi đề
cập đến thái độ người ta thường đề cập đến những thuật ngữ như: thích hay không
thích, tán thành hay không tán thành, e ngại hay tự tin…tất cả đều được hiểu là thái
độ của một chủ thể đối với một đối tượng nhất định, đó là một sự vật hiện tượng hoặc
một vấn đề hay một con người cụ thể nào đó.
b. Cấu trúc tâm lý của thái độ
* Quan niệm 3 thành phần trong thái độ
Mặc dù có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về thái độ, song phần lớn
các nhà tâm lý học đều nhất trí với quan điểm cấu trúc 3 thành phần của thái độ do
M. Smith – nhà tâm lý học Mỹ đưa ra năm 1942. Theo M. Smith, thái độ được cấu
thành từ thành phần nhận thức, thành phần xúc cảm tình cảm và thành phần hành
động của cá nhân với đối tượng. Trong đó:
– Thành phần nhận thức: là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con
người, nó bao gồm những quan điểm, sự hiểu biết của cá nhân với đối tượng.
– Thành phần xúc cảm – tình cảm: là kết quả của nhận thức, không phản ánh bản
thân sự vật hiện tượng mà là những biểu cảm, sự rung động, hứng thú của cá nhân đối
với đối tượng của thái độ. Trong cấu trúc thái độ, tình cảm thể hiện ở các cảm xúc của
cá nhân đối với đối tượng của thái độ.Tình cảm là thành phần vô cùng quan trọng
trong cấu trúc thái độ.Với tình cảm tích cực có thể kích thích chủ thể hành động tích
18
cực, từ đó hình thành nên thái độ tích cực và ngược lại tình cảm tiêu cực có thể kìm
hãm tính tích cực hoạt động của chủ thể.
– Thành phần hành vi: là sự thể hiện thái độ của cá nhân đối với đối tượng thông
qua xu hướng hành động và hành động thực tế. Thái độ và hành vi luôn có sự quy
định lẫn nhau, hành vi là một thành phần cấu thành nên thái độ, thái độ muốn biểu
hiện ra bên ngoài phải thông qua hành vi .Vì vậy, hành vi là hình thức biểu hiện cụ
thể nhất của thái độ.
Trong đời sống tâm lý của con người, nhận thức được coi là một trong ba mặt cơ
bản (nhận thức, thái độ và hành động). Quá trình nhận thức về đối tượng là quá trình
con người tìm tòi, khám phá những thuộc tính bề ngoài và cả những thuộc tính bản
chất, những quy luật của đối tượng. Khi một sự vật, hiện tượng tác động đến cá nhân,
để có thái độ nhất định đối với sự vật hiện tượng đó thì trước hết, cá nhân phải có sự
hiểu biết về đối tượng đó (cho dù hiểu biết đúng hay sai). Trong cấu trúc của thái độ,
nhận thức là “điều kiện cần” cho việc hình thành thái độ. Xúc cảm – tình cảm là thành
phần quan trọng, là động lực có thể kích thích hoặc kìm hãm tính tích cực hoạt động
của chủ thể. Hành vi là sự thể hiện ứng xử của chủ thể đối với đối tượng. Mặc dù
giữa hành vi và thái độ đôi khi cũng có những mâu thuẫn, nhưng nhìn chung, hành vi
vẫn là hình thức biểu hiện cụ thể nhất của thái độ.
Ba thành phần nêu trên trong cấu trúc của thái độ có quan hệ chặt chẽ với nhau,
sự thống nhất giữa chúng tạo nên một thái độ xác định của chủ thể. Đứng trước một
đối tượng nào đó, để có thái độ với đối tượng đó, con người phải tuân theo quy luật
sau: trước hết, con người phải nhận thức (có hiểu biết) về đối tượng; nhận thức đó sẽ là
cơ sở định hướng làm xuất hiện những xúc cảm, tình cảm với đối tượng (yêu – ghét,
thích – không thích…); cuối cùng, với nhận thức và tình cảm nhất định với đối tượng
mà con người sẽ có những hành động, hành vi cụ thể với đối tượng. Ta cũng cần hiểu,
mặc dù đều có mặt trong cấu trúc chung của thái độ, nhưng tỉ lệ các thành phần nêu
trên có sự khác nhau trong các loại thái độ. Tuỳ theo tình huống mà một thành phần
nào đó chiếm vị trí chủ đạo, chi phối thái độ của cá nhân. Ba thành phần nêu trên có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Cho nên có thể nói rằng: từ tính thống nhất của ý nghĩ, tình
cảm và hành động, chúng ta có thể thấy được một thái độ xác định.
19
1.2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành thái độ
– Thái độ được hình thành bởi các thông tin
Thông tin trên các phương tiện: báo, tạp chí, tivi, radio, trong đời sống hằng
ngày…đều có thể ảnh hưởng đến việc hình thành thái độ của con người. Như vậy khi
thông tin tác động vào chúng ta thì chúng ta thường có thái độ với những thông tin
đó. Hệ thống thông tin được các chủ thể tiếp nhận ở nhiều góc độ khác nhau, có
thông tin làm cho chủ thể nhận rõ thêm bản chất của vấn đề và sau đó chủ thể dễ
dàng bày tỏ thái độ…
– Thái độ được hình thành trong quá trình thỏa mãn nhu cầu
Con người thường hình thành thái độ tích cực với những gì có lợi và hình thành
thái độ tiêu cực đối với những gì có hại trong tiến trình thỏa mãn nhu cầu của mình.
Quá trình thỏa mãn nhu cầu là quá trình chủ thể nỗ lực bản thân, tìm kiếm các
phương pháp phù hợp để thỏa mãn các nhu cầu, sau đó cảm xúc sẽ xuất hiện và chủ
thể bày tỏ thái độ một cách cụ thể.
– Thái độ được hình thành qua giao tiếp nhóm
Mỗi cá nhân là thành viên của nhiều nhóm khác nhau, thái độ của một người
thường phản ánh giá trị, chuẩn mực, niềm tin của nhóm mà họ là thành viên. Thái độ
của các nhóm khác nhau là do mục đích, tiêu chuẩn của các nhóm khác nhau. Chẳng
hạn nhóm “học tập” khác với nhóm “hoạt náo viên”.
Giá trị mà cả nhóm theo đuổi sẽ có ảnh hưởng đến việc hình thành thái độ của
các thành viên trong nhóm đó. Chuẩn mực đó không xác định hành vi nào là đúng
hay sai, hành vi nào là tốt hay xấu mà còn xác định xem thái độ nào là đúng, thái độ
nào là sai. Thông qua việc thưởng phạt và áp lực nhóm, ép cá nhân phải tuân theo.
Các nhóm thường đưa ra quy chế thưởng phạt làm động cơ cho các thành viên. Ai có
thái độ, hành vi tốt, đúng thì sẽ được khên thưởng và ngược lại sẽ bị lên án, trách
phạt. Trong tâm lý học xã hội đề cao vai trò của nhóm, nhất là nhóm gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp…ví vai trò quan trọng trong việc hình thành ý thức cá nhân. Tuy nhiên
cá nhân tiếp nhận các thái độ trong nhóm một cách có lựa chọn, không tiếp nhận một
20
cách bị động, mức độ và cách thức tiếp nhận của mỗi thành viên trong nhóm là khác
nhau.
– Thái độ được hình thành qua kinh nghiệm sống
Kinh nghiệm trong cuộc sống sẽ hình thành nên thái độ. Người có nhiều kinh
nghiệm sẽ có thái đọ khác so với người có ít kinh nghiệm mặc dù họ cũng gặp vấn đề
giống nhau
– Nhân cách cá nhân và sự hình thành thái độ
Cá nhân có xu hướng tiếp nhận cá thái độ phù hợp với nhân cách của mình,
nhưng nhân cách của con người thì chưa hẳn là một hệ thống hoàn toàn thống nhất.
Chính vì thế mà chúng ta có thể tiếp nhận các thái độ mâu thuẫn nhau bởi sự giáo dục
khác nhau.
1.2.2. Giá trị và giá trị sống
1.2.2.1. Giá trị
Trong những khái niệm, phạm trù cơ bản có liên quan đến đời sống con người,
thực tiễn xã hội phải kể đến các khái niệm “giá trị”, “thang giá trị”, “giá trị sống”…
a. Khái niệm giá trị
Theo từ điển Tiếng Việt: Giá trị là cái làm cho một vật có ý nghĩa, có ích, nó
đáng quý về một mặt nào đó
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia, giá trị được coi là những cái mà ta thích, ta
cho là quan trọng, là đáng có. Từ đó, giá trị ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta.
Khái niệm giá trị được nhiều ngành khoa học nghiên cứu như Triết học, kinh tế
học, Xã hội học, Tâm lý học, Văn học… dưới nhiều bình diện, khía cạnh khác nhau
tùy theo sự hình thành, tồn tại, nội dung, cấu trúc cũng như ý nghĩa của nó đối với cá
nhân và xã hội.
Những hiểu biết đầu tiên về giá trị và giá trị học có từ thời xa xưa, gắn liền với
triết học. Có nhiều quan điểm khác nhau. Ở đây người viết đề cập theo quan điểm của
Triết học Mác-Lênin. Giá trị là những hiện tượng xã hội đặc thù, mọi giá trị đều có
nguồn gốc từ lao động sáng tạo của con người. Nói đến quan điểm giá trị bao giờ
21
cũng nói đến mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể. Các giá trị đều được nhận thức
và kiểm nghiệm bằng thực tiễn.
Trong kinh tế học, phạm trù giá trí gắn liền với giá trị hàng hóa, giá cả và sản
xuất hàng hóa và phía sau nó là sức lao động, giá trị lao động của người làm ra hàng
hóa. C. Mác viết: “Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động là một lao động
được nhân lên cấp số nhân hay là trong một khoảng thời gian như nhau, nó tạo ra một
giá trị cao hơn so với một lao động giá trị trung bình cùng loại” [7]
Dưới góc độ Xã hội học, giá trị được quan tâm ở nội dung, nguyên nhân, điều
kiện kinh tế – xã hội cụ thể trong quá trình hình thành hệ thống giá trị nhất định của
một xã hội.
Giá trị trong Đạo đức học luôn gắn liến với những khái niệm trung tâm như: cái
thiện, cái ác, công bằng, bình đẳng, bác ái. Bởi vì khái niệm giá trị thuộc phạm vi đời
sống đạo đức của con người, các quan hệ xã hội và quá trình hình thành các chuẩn
mực, quy tắc đạo đức của xã hội.
Dưới góc độ Tâm lý học, khái niệm giá trị được nghiên cứu nhằm mục đích tìm
hiểu hành vi, hoạt động của con người và dự báo sự phát triển của nhân cách, cụ thể ở
một số chuyên ngành sau:
Tâm lý học hoạt động xác định: Giá trị là cái được chủ thể đánh giá, thừa nhận
trên cơ sở mối quan hệ giữa sự vật, hiện tượng đó. Các nhà tâm lý học nghiên cứu
khái niệm giá trị nhằm mục đích tìm hiểu hành vi, hoạt động của con người và dự báo
phát triển nhân cách. Trong đó chuyên ngành tâm lý học nhân cách đề cập đến giá trị
như là một bộ phận cấu thành nên tâm lý – nhân cách con người.
Tâm lý học xã hội nghiên cứu giá trị trong cộng đồng, đồng thời giải thích vai
trò của chúng trong sự hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội như:
tâm lý dân tộc, nhu cầu, thị hiếu, tập quán, lối sống của các nhóm xã hội này.
Như vậy, giá trị, theo nghĩa chung nhất, chúng ta có thể hiểu đó là cái đã làm
cho một khách thể nào đó có ích, có nghĩa, đáng quý đối với chủ thể, được mọi người
thừa nhận.
22
Có thể kể đến một số quan niệm phổ biến về giá trị của các tác giả nước ngoài
như:
Tác giả J.H.Fichter cho rằng: “Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng
kính phục đối với cá nhân và xã hội đều có một giá trị”. [16, tr.8]
Tác giả V.P.Tugarinov (Liên Xô) lại cho rằng: “giá trị là những khách thể,
những hiện tượng và những thuộc tính của chúng mà tất cả đều cần thiết cho con
người (lợi ích, hứng thú) của một xã hội hay một giai cấp nào đó cũng như một cá
nhân riêng lẻ với tư cách là phương tiện thỏa mãn những nhu cầu và lợi ích của họ,
đồng thời cũng là những tư tưởng và ý định với tư cách là chuẩn mực, mục đích hay
lý tưởng”. [34, tr.56]
L.Dramaliev (Bungari) coi giá trị là: “một thành tố khách quan của xã hội. Nó là
một loại hiện tượng xã hội đặc biệt (một vật, một đối tượng, một liên hệ, một ý niệm),
thỏa mãn được những nhu cầu nhất định của con người. Giá trị là một phẩm chất
khách quan, một đặc tính, một khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã trở thành rõ rệt
trong quá trình quan hệ qua lại có tính chất xã hội giữa người với người trong hành vi
thực tế của họ. Với tính cách là một khách thể xã hội, giá trị không thể tách rời khỏi
những nhu cầu, những mong muốn, thái độ, những quan điểm và những hành động
của con người với tư cách là một chủ thể của các quan hệ xã hội”. [34, tr.57]
Nhà giáo dục học Nhật Bản- J.Makiguchi cho rằng “giá trị của sự vật là cái được
chủ thể thừa nhận, trên cơ sở mối quan hệ của sự vật đối với chúng ta là có tầm quan
trọng trong cuộc sống”[27, tr.108].
Theo tài liệu “Giáo dục giá trị” (Bộ văn hóa Thể thao Philippin), khái niệm giá
trị có thể hiểu: “Một vật có giá trị khi nó được thừa nhận là có ích và mong muốn có
được những thứ đó đã ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của con người. Không chỉ có
hàng hóa vật chất mà cả lý tưởng và những khái niệm đều có giá trị như: sự thật, công
lý, lương thiện”. [16, tr.8]
Một số tác giả Việt Nam như Trần Trọng Thủy, Trần Văn Giàu, Phạm Minh
Hạc, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Khái Vinh, Lê Đức Phúc… đều có những nghiên
cứu và đưa ra các quan niệm về giá trị.
23
Tác giả Nguyễn Đức Thạc cho rằng: giá trị là tính có nghĩa tích cực, tốt đẹp,
đáng quý, có ích của các đối tượng với các chủ thể. Chủ thể ở đây có thể là một nhóm
người, một giai tầng, một dân tộc hoặc một thời đại [25, tr.49].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Giá trị là tính có nghĩa tích cực, đáng quý, có ích
của các đối tượng với các chủ thể”. [10]
Tác giả Trần Trọng Thủy khi nghiên cứu về “Giá trị, định hướng giá trị và nhân
cách” cũng xem giá trị là một hiện tượng xã hội điển hình, biểu thị các sự vật, hiện
tượng, các thuộc tính và quan hệ của hiện thực, các tư tưởng, các chuẩn mực, mục
đích và lý tưởng, các hiện tượng của tự nhiên và xã hội được con người tạo ra nhưng
đều phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội và sự phát triển của cá nhân con người.
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn, giá trị của một sự vật hay hiện tượng đều được
thừa nhận một cách khách quan dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể và nhu cầu đối với
sự vật hiện tượng đó.[32]
Từ những hiểu biết và kinh nghiệm của mình Chúng tôi cho rằng: Giá trị là cái
cần thiết, quan trọng, có ý nghĩa đối với chủ thể (cá nhân hay nhóm)mà họ cố gắng
dành lấy khi tham gia vào các hoạt động xã hội. Giá trị có khả năng chi phối suy
nghĩ, thái độ và hành vi của con người.
b. Phân loại giá trị
Tùy thuộc vào mục đích tiếp cận mà các tác giả nêu lên các căn cứ phân loại
khác nhau. Tuy nhiên, tóm tắt lại các tác giả phân chia giá trị theo những cách như
sau:
Cách phân chia mà nhiều người biết nhất là căn cứ trên sự thỏa mãn nhu cầu vật
chất hay nhu cầu tinh thần của con người, giá trị được chia thành giá trị vật chất và
giá trị tinh thần. Giá trị vật chất như giá trị sử dụng, giá trị kinh tế. Giá trị tinh thần
như giá trị khoa học, chính trị, đạo đức, pháp luật, lối sống, tôn giáo…[26]
Dựa vào các giá trị chi phối hệ thống hành vi lớn của con người giá trị chủ yếu
gồm các giá trị tồn tại sinh học, các giá trị tính cách, các giá trị văn hóa và các giá trị
xã hội [32].