11196_Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Cạn

luận văn tốt nghiệp

§¹i häc th¸i nguyªn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
——————————-

NguyÔn §×nh V¨n

Thùc tr¹ng vµ mét sè gi¶i ph¸p
ph¸t triÓn kinh tÕ trang tr¹i
ë tØnh B¾c K¹n

Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ n«ng nghiÖp
M· sè: 60 – 31 – 10

LuËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ

Người hướng dẫn khoa học: T.S §ç Quang Quý

Th¸i Nguyªn – 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trích dẫn trong quá trình nghiên
cứu đều được chỉ rõ nguồn gốc.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Đình Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


iii
LỜI CẢM ƠN!
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
các cơ quan, các cấp lãnh đạo và các cá nhân. Tôi xin chân thành cảm ơn sâu
sắc và kính trọng tới tất cả các tập thể, các cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ
tôi trong qúa trình học tập và nghiên cứu.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sỹ Đỗ Quang Quý
là thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường đại học Kinh tế và
QTKD, Ban chủ nhiệm Khoa Đào tạo sau đại học trường Đại học Kinh tế và
QTKD Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi có cơ hội được tiếp cận và khẳng
định bước đầu trong công việc nghiên cứu khoa học của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các giáo sư, tiến sỹ và cán bộ
Khoa Sau đại học Trường Đại học Kinh tế và QTKD những người đã trang bị
cho tôi những kiến thức quý báu và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã
để lại những tài liệu nghiên cứu có giá trị, liên quan đến lĩnh vực mà luận văn
của tôi đề cập và sử dụng làm tiền đề nghiên cứu luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của lãnh đạo, các chuyên gia của Sở
Nông nghiệp và PTNT Bắc Kạn, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Kạn, Cục
Thống kê tỉnh Bắc Kạn và các đồng nghiệp, lãnh đạo chính quyền các địa
phuơng và các chủ trang trại đã giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình làm luận văn.
Tôi xin cảm ơn những người thân trong gia định đã giúp tôi lúc khó khăn,
vất vả để hoàn thành luận văn. Tôi xin cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp gần xa
đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để giúp tôi hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008

Nguyễn Đình Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


iv
DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT

STT
Chữ viết tắt
Nguyên nghĩa
1
TBCN
Tư bản chủ nghĩa
2
PGS-TS
Phó Giáo sư – Tiến sỹ
3
TT
Trang trại
4
KTTT
Kinh tế trang trại
5
CNH
Công nghiệp hoá
6
HĐH
Hiện đại hoá
7
CSDL
Cơ sở dữ liệu
8
SPSS
Statiscal Package for Social Sciences
9
GTSX
Giá trị sản xuất
10
SXKD
Sản xuất kinh doanh
11
UBND
Uỷ ban nhân dân
12
KH &CN
Khoa học và công nghệ
13
PTNT
Phát triển nông thôn
14
HTX
Hợp tác xã
15
DĐĐT
Dồn điền đổi thửa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


v
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………………………..1
2. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………………… . ..2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………………. ……3
4. Ý nghĩa khoa học của luận văn và đóng góp của luận văn………….. .
……..4
5. Bố cục của luận văn………………………………………………………………. .
……..4
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU …………………………………. 5
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu……………………………………………………. .. 5
1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại……………………… ………………… .5
1.1.2. Kinh nghiệm trên thế giới và Việt nam về phát triển KTTT.
……. 23
1.1.3. Lịch sử hình thành và tồn tại trang trại ở Việt Nam và Bắc Kạn . 26
1.1.4. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta từ khi đổi mới
theo nền kinh tế thị trường ……………………………………………… 31
1.1.5. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn ………… 37
1.2. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………
…….38
1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết ……………………………38
1.2.2. Phuơng pháp nghiên cứu …………………………………………………. 38
1.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu …………………………………………………….42
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
TỈNH BẮC KẠN.. …. …………………………… 43
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu …………………………………………………. 43
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên….. ……………………………………………………….43
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Bắc Kạn giai đoạn
2001-2007 …………………………………………………………………… 54
1.1.3. Phân tích SWOT về chiến lược phát triển của Bắc Kạn …………. 68

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


vi
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại Bắc Kạn những năm gần đây …… 70
2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại thời gian qua ………………. 70
2.3. Phân tích, đánh giá………………………………………………………………… … 73
2.3.1. Đặc điểm và phương hướng sản xuất của các trang trại tỉnh Bắc Kạn….73
2.3.2. Tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh của các trang trại. ………… 74
2.3.3. Vấn đề trong phát triển của các trang trại hiện có…
……………….. 85
2.3.4. Nguyên nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế trang trại ở Bắc Kạn …. 86
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI TỈNH BẮC KẠN THỜI GIAN TỚI. ………….. 89
3.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại……………………………………….
.. 89
3.1.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ Công nghiệp
hóa – Hiện đại hoá ở Việt nam……………………………… ………………89
3.1.2. Quan điểm riêng đối với tỉnh Bắc Kạn…..
……………………………..94
3.2. Những định hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn………..
…96
3.2.1. Căn cứ để định hướng…….. ………………………………………………..96
3.2.2. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn.. ………. 96
3.3. Mục tiêu phát triển kinh tế trang trại………………………………………
..
…..99
3.3.1. Mục tiêu tổng quát………. …………………………………………………..99
3.3.2. Mục tiêu cụ thể…………….. …………………………………………………99
3.4. Giải pháp thực hiện………………………………………………………………. …100
3.4.1. Giải pháp chung cho toàn bộ các trang trại.. ………………………..100
3.4.2. Giải pháp cho nhóm trang trại……… …………………………………..109
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……………………………………………………….111
Kết luận ……………………………………………………………………………….111
Kiến nghị…………………………………………………………………………………. .112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
…………………………………………113
PHỤ LỤC ………………………………………………………………………………….116

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trang trại là một loại hình sản xuất nông nghiệp được hình thành tương
đối sớm trên thế giới, tuỳ từng thời kỳ mà có những hình thức, tên gọi khác
nhau nhưng đều có đặc điểm chung là sản xuất hàng hoá tự chủ với quy mô
lớn. Phát triển kinh tế trang trại là xu hướng tất yếu trong sản xuất nông
nghiệp, nông thôn hiện nay. Ngày nay, trang trại là loại hình tổ chức sản xuất
phổ biến trong nền nông nghiệp của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Ở nước ta, trang trại đã hình thành và trải qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau của sự phát triển. Tuy nhiên, trang trại gia đình chỉ phát triển từ đầu thập
niên 1990 sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Luật đất đai ra đời
năm 1993, giao quyền sử dụng đất sản xuất ổn định và lâu dài cho hộ gia đình
nông dân.
Từ khi có chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng, kinh tế
hộ nông dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp
phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của các hộ
nông dân đã hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ
chuyên môn cao đóng góp ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Mới
hình thành và phát triển nhưng kinh tế trang trại đã khơi dậy tiềm năng đất
đai, lao động, vốn trong dân cư để đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện bộ mặt
nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế trang trại đã nảy sinh nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải giải quyết kịp thời liên quan đến nhận thức,
cơ chế chính sách của Nhà nước: về đất đai, lao động, vốn đầu tư, tư cách pháp
nhân, quyền lợi và nghĩa vụ của chủ trang trại trước pháp luật.v.v… nhằm củng
cố và phát triển loại hình này một cách tích cực, ổn định và bền vững.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


2
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các cấp độ khác nhau về kinh tế
trang trại ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu đã nêu ra và đều mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn của kinh tế trang trại để tìm ra hướng đi, đề xuất những giải pháp nhằm
tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để phát huy vai trò của kinh tế trang trại
trong nền nông nghiệp của nước ta hiện nay.
Tuy vậy, vì sản xuất nông nghiệp được diễn ra trên không gian rộng lớn,
mỗi vùng, thậm chí mỗi tiểu vùng cũng có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên
và kinh tế – xã hội, nên các trang trại ở mỗi vùng cũng có những đặc điểm
khác nhau. Bắc Kạn là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc bộ, có
tiềm năng thế mạnh về đất đai đồi rừng, nhưng kinh tế trang trại Bắc Kạn còn
rất nhỏ bé cả về số lượng và chất lượng, chưa có đóng góp nhiều cho kinh tế
của tỉnh mà loại hình này có nhiều cơ hội phát triển.
Để xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế
trang trại là hướng đi đúng đắn, cần được quan tâm giúp đỡ bằng những chính
sách hợp lý, góp phần khai thác một cách có hiệu quả và bền vững tiềm năng
về đất đai ở Bắc Kạn. Việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về kinh tế
trang trại trong tỉnh, từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế
trang trại trên địa bàn tỉnh có một ý nghĩa rất quan trọng.
Xuất phát từ thực tế địa phương, với kinh nghiệm công tác trong ngành
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của tác giả thời gian qua, đề tài: “Thực
trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn” đã
được chọn để nghiên cứu.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm
giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển, góp phần xây dựng một nền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


3
sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao, hiệu quả
và bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
– Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại.
– Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại nhằm phát hiện ra các yếu
tố trở ngại và những tiềm năng để phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn.
– Phân tích hoạt động kinh tế trong trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm ra
được những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến kết quả sản
xuất và hiệu quả kinh tế của trang trại.
– Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại
trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
– Hoạt động kinh tế của các trang trại cũng như ảnh hưởng của nó đến sự
phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
– Đối tượng khảo sát: 100% số lượng trang trại hiện có tại thời điểm điều
tra ở tỉnh Bắc Kạn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.3.1. Nội dung
– Số lượng, cơ cấu, loại hình, phương hướng sản xuất của các trang trại ở
tỉnh Bắc Kạn.
– Tình hình sử dụng đất đai, lao động, vốn, thu nhập, bố trí sản xuất, bố
trí cây trồng của các trang trại.
– Phân tích một số chỉ tiêu đánh gía kết quả, hiệu quả kinh tế của các
trang trại.
3.3.2. Phạm vi về không gian: Toàn bộ tỉnh Bắc Kạn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


4
3.3.3. Phạm vi thời gian
– Số liệu lịch sử: 7 năm từ 2001-2007.
– Số liệu hiện trạng năm 2006 (tiến hành điều tra năm 2007).
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
– Tổng hợp và phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho
phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn.
– Tìm ra và đánh giá tác động của những yếu tố nội hàm và ngoại hàm
ảnh hưởng đến kết qủa sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế các trang trại
ở vùng nghiên cứu.
– Đề xuất hệ thống quan điểm, phương hướng và mục tiêu để phát triển
kinh tế trang trại thời gian tới.
– Khuyến nghị những giải pháp chủ yếu để tiếp tục thúc đẩy kinh tế trang
trại phát triển.
5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại thời gian tới

Nội dung cụ thể các chƣơng nhƣ sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại
1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển trang trại
a) Quan niệm về trang trại
Lịch sử phát triển của nền nông nghiệp thế giới luôn tồn tại hai hình thức
tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung và sản xuất phân tán [26].
Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung trên quy mô diện tích
đất đủ lớn mang tính độc lập đã có từ rất lâu đời. Ngay từ thời đế quốc La mã
đã tồn tại hình thức sản xuất tập trung trên diện tích lớn, lực lượng của yếu là
tù binh và nô lệ. Thời phong kiến ở một số nước châu Âu có hình thức lãnh
địa phong kiến và các trang viên. Ở Trung quốc thời nhà Hán đã có các hoàng
trang, điền trang, đồn điền. Ở Việt nam hình thức sản xuất tập trung đã có từ
thời phong kiến phương Bắc đô hộ.
Về mặt sở hữu thì trang trại hội tụ đủ mọi hình thức sở hữu.
Để biểu đạt loại hình kinh tế này, các nước đều có ngôn từ dùng để chỉ
các hình thức tổ chức sản xuất tập trung (Farm, Farm stedd, Farm house
(Anh); Ferme (Pháp); Fepma (Nga)…) khi chuyển sang tiếng Việt dịch là
trang trại hay nông trại [25]; [19].
– Theo quan điểm của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp
quốc (FAO) và Ngân hàng thế giới (WB):
“Nông trại (Farm) của các nước châu Á gió mùa dùng để chỉ một khu đất
canh tác nông nghiệp”.
– Theo PGS -TS Lê Trọng: “Trang trại là cơ sở, là doanh nghiệp kinh
doanh nông nghiệp của một hoặc một số nhóm nhà kinh doanh” [17].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


6
Qua đó “Trang trại” là thuật ngữ dùng để mô tả, chỉ và gắn liền với
hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trên một diện tích đủ lớn, với quy
mô hộ gia đình là chủ yếu, trong điều kiện sản xuất hàng hoá của nền kinh
tế thị trường.
b) Phân loại trang trại
* Phân loại theo nguồn gốc hình thành: Có 3 con đường chính hình
thành trang trại
– Trang trại được hình thành từ khu đất từ thời phong kiến: Đây là các
trang trại hình thành từ các khu đất thuộc sở hữu tư nhân của tầng lớp quý tộc,
địa chủ.
– Trang trại phát triển từ kinh tế hộ gia đình: Quá trình sản xuất đã diễn
ra sự phân hoá giữa các hộ. Các hộ sản xuất thuận lợi sẽ phát triển cao hơn về
quy mô và kết quả sản xuất mà hình thành các trang trại [22].
– Trang trại hình thành theo kiểu xí nghiệp TBCN: Các nhà tư bản đầu tư
vốn vào sản xuất nông lâm nghiệp, họ bỏ tiền mua máy móc thiết bị, thuê đất
đai và thuê lao động kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa hình thành các
trang trại.
Hiện nay trang trại gia đình là loại hình trang trại phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới. Trang trại theo kiểu xí nghiệp tư bản còn tồn tại nhưng
giới hạn trong một số ngành có giá trị cao như chăn nuôi gia súc, đại gia súc
theo huớng xuất khẩu.
* Phân loại trang trại theo hình thức quản lý:
– Trang trại gia đình: Là loại trang trại độc lập tự sản xuất kinh doanh. Mỗi
gia đình có tư cách pháp nhân do một người trong gia đình làm chủ điều hành.
– Trang trại liên doanh: Do vài trang trại hợp nhất để tăng nguồn lực tạo
sức cạnh tranh và sự ưu đãi của nhà nước (ở Mỹ số lượng trang trại này chiếm
10% số lượng và 16% diện tích).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


7
– Trang trại hợp doanh theo cổ phần: Trang trại loại này được tổ chức
theo nguyên tắc công ty cổ phần (ở Mỹ trang trại loại này chiếm 2,7% và
13,7% diện tích đất đai [7].
– Trang trại uỷ thác: Trang trại mà người chủ uỷ quyền cho người nhà, bạn
bè quản lý điều hành sản xuất (Đài loan thường có loại trang trại này) [15].
* Phân loại trang trại theo phương hướng sản xuất:
– Trang trại kinh doanh tổng hợp: Trang trại này thường kết hợp sản xuất
kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp ngành nghề và dịch vụ.
– Trang trại chuyên môn hoá: Phương hướng sản xuất chỉ phát triển một
ngành hoặc một sản phẩm như sản xuất ngũ cốc, chăn nuôi gia súc.
* Phân loại theo nguồn thu nhập:
– Nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp: Xu thế trang trại loại này đang
giảm dần (năm 1985 Nhật Bản có 15% số trang trại thuộc loại này).
– Trang trại có thu nhập thêm từ bên ngoài trang trại, loại này thường
kinh doanh tổng hợp và xu thế ngày càng tăng.
* Các phương thức điều hành sản xuất:
– Chủ trang trại vừa điều hành vừa trực tiếp tham gia sản xuất: Loại trang
trại này chủ hộ thường là nông dân, hiện nay hình thức này là phổ biến.
– Chủ trang trại và gia đình không ở trang trại nhưng vẫn điều hành sản
xuất: Hình thức này không nhiều nhưng đang có xu hướng phát triển ở các
nước công nghiệp phát triển.
– Chủ trang trại nhỏ có ít ruộng đất, không điều hành sản xuất mà uỷ quyền
cho người thân quản lý trang trại của mình theo từng vụ hay nhiều năm.
* Phân loại theo tiến trình hình thành và phát triển:
Sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp đi từ bậc
thấp lên bậc cao, từ nền sản xuất tự túc, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá
mà hình thành các trang trại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


8
– Hộ nông dân nhỏ: Quy mô sản xuất nhỏ, ruộng đất ít, sản xuất bằng
công cụ thô sơ, mục đích đảm bảo thức ăn cho cuộc sống gia đình.
– Trang trại truyền thống: Đất đai được khai khẩn thêm về diện tích, bắt
đầu có sự tích tụ đất đai, lao động chủ yếu là lao động của gia đình. Sản phẩm
sản xuất ra phần lớn dùng để tiêu dùng.
– Trang trại sản xuất trồng trọt hoặc chăn nuôi nhỏ: Quy mô diện tích
được tích tụ lớn hơn, sản xuất được phân định ra với vài loại cây trồng, vật
nuôi chủ yếu, sản xuất phần lớn là thủ công, một phần máy móc.
– Trang trại sản xuất đa dạng hoá: Sản xuất thâm canh có tưới nước, lao
động kết hợp thủ công và máy móc, sản phẩm đa dạng hoá nhằm đảm bảo thu
nhập bền vững, chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hóa.
– Trang trại chuyên môn hoá: Sử dụng lao động gia đình và thuê ngoài,
sản xuất thâm canh đạt hiệu quả cao chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hoá.
– Trang trại tự động hoá: Đang phát triển ở các nước phát triển trên thế
giới trong ngành chăn nuôi, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu.
1.1.1.2. Khái niệm về kinh tế trang trại
Hệ thống lại lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại, nhiều nhà nghiên cứu
kinh tế Việt nam và thế giới đã đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại như sau:
– Theo một số học giả phương Tây:
“Hình thức kinh tế trang trại ở các nước này dùng để chỉ một lĩnh vực tổ
chức sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá lớn ở nông nghiệp nông thôn để
phân biệt với hình thức tiểu nông tự túc, tự cấp”.
– Theo PGS – TS Lê Trọng: “Kinh tế trang trại (hay kinh tế nông lâm
ngư trại…) là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội,
dựa trên cơ sở hợp tác và phân công lao động xã hội. Bao gồm một số người
lao động nhất định được chủ trang trại tổ chức, trang bị những tư liệu sản xuất
nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh, phù hợp với yêu cầu của nền kinh
tế thị trường và được nhà nước bảo hộ” [17].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


9
– Theo ông Trần Tác, Phó Vụ trưởng – Vụ Kinh tế Trung ương Đảng:
“Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn trong
nông, lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau ở nông thôn. Có
sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, có
phương pháp tạo ra tỷ suất sinh lời cao hơn bình thường trên đồng vốn bỏ ra,
có trình độ đưa các thành tựu khoa học, công nghệ mới kết tinh trong hàng
hoá, tạo ra sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế
xã hội cao”.
– Theo Phó Giáo sư Đào Công Tiên – trường Đại học Kinh tế thuộc Đại
học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh: “Kinh tế trang trại là một loại hình tổ
chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, phổ biến được hình thành và phát
triển trên nền tảng kinh tế hộ và về cơ bản giữ bản chất kinh tế hộ. Quá trình
hình thành và phát triển kinh tế trang trại là quá trình nâng cao năng lực sản
xuất dựa trên cơ sở tích tụ tập trung vốn và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó tạo
ra nhiều sản phẩm hàng hoá với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao”.
Tóm lại: Theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về Kinh
tế trang trại của Chính phủ, kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất
hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm
mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu
thụ nông, lâm, thủy sản. Mặt khác, theo quy định tại Thông tư liên tịch số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23.6.2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát
triển nông thôn có hai nhóm đối tượng có thể tham gia đầu tư sản xuất theo
mô hình trang trại, đó là hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực
lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại hộ thành thị (gọi chung là hộ gia đình) và
cá nhân. Từ đó, hình thành nên hai loại hình kinh doanh là trang trại gia đình
và trang trại cá nhân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


10
Trong phạm vi luận văn này tác giả có giới hạn việc nghiên cứu, chỉ tập
trung vào loại hình trang trại gia đình trong hệ thống các loại hình trang trại
đang hoạt động trong cơ chế thị trường ở nước ta. Để làm được điều đó, một
trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là “nhận dạng” một cách đầy
đủ, rõ ràng về loại hình kinh doanh mới này để từ đó có những biện pháp
quản lý phát triển phù hợp.
1.1.1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế trang trại
Quan điểm của các nhà kinh điển về tính tất yếu tồn tại kinh tế hộ gia
đình nông dân và kinh tế trang trại.
* Tính tất yếu khách quan của tồn tại và phát triển kinh tế hộ nông dân
Không phải bây giờ các nhà kinh tế mới bàn đến vai trò của kinh tế hộ
nông dân đối với sự phát triển nông nghiệp mà ngay từ cuối thế kỷ XIX Mác,
Ăng-ghen đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế hộ nông dân. Lúc đầu
nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước Anh, Mác đã tiên
đoán với quá trình tách người nông dân khỏi ruộng đất một cách ồ ạt thì giai
cấp nông dân bị thủ tiêu và nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản
xuất như trong công nghiệp. Nghĩa là trong nông nghiệp sẽ hình thành các
“Đại điền trang” Tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê. Quá trình đó
sẽ tách người nông dân ra khỏi tư liệu sản xuất, mà trước hết là ruộng đất.
Sau này kinh nghiệm lịch sử của những nước công nghiệp phát triển đã
làm chuyển biến nhận thức của Mác và ông phải công nhận là những tiên
đoán khái quát ban đầu của mình trước kia về thực tiễn đã không được, không
thiết lập ngay cả ở nước Anh siêu công nghiệp. Bất chấp xu hướng ban đầu
theo kiểu “dọn sạch mặt đất”. Ở nước Anh công nghiệp phát triển, song nông
trại gia đình trên thực tế không sử dụng lao động làm thuê vẫn ngày càng phát
triển và càng tỏ rõ sức sống cũng như hiệu quả của nó.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


11
Chính vì thế khi viết quyển III của bộ Tư bản chủ nghĩa, Mác đã kết
luận: “Ngay ở nước Anh với nền công nghiệp phát triển hình thức sản xuất
nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn
mà là các trang trại gia đình không có lao động làm thuê”.
Ở những nước còn giữ hình thức chia đất thành khoảnh nhỏ giá lúa mì rẻ
hơn ở những nước có phương thức sản xuất Tư bản” [2]. Mác đã khẳng định
do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nên “hệ thống Tư bản chủ nghĩa mâu
thuẫn với nghề nông hợp lý hay là nghề nông hợp lý không phù hợp (trái
ngược) với hệ thống Tư bản chủ nghĩa (mặc dù hệ thống này có hỗ trợ cho sự
phát triển kỹ thuật của nông nghiệp) và đòi hỏi phải có hoặc là bàn tay của
người tiểu nông sống bằng lao động của mình, hoặc là sự kiểm soát của
những người sản xuất có liên kết với nhau” [24].
Sau Mác, Ăng-ghen, C. Cauxlay là người kế tục và có những cấu hiến
lớn trong việc truyền bá và phát triển Chủ nghĩa Mác. Trong đó cống hiến
xuất sắc của C. Cauxlay là những công trình nghiên cứu của ông về vấn đề
nông nghiệp. Theo C. Cauxlay nông nghiệp phát triển không cùng một kiểu
với công nghiệp mà theo những đặc thù của nó. C. Cauxlay cho rằng sự khác
nhau quan trọng nhất giữa công nghiệp và nông nghiệp là ở chỗ, trong nông
nghiệp sản xuất thường gắn liền với kinh tế gia đình, lao động trong nông
nghiệp khác với lao động trong công nghiệp. Sản xuất lớn trong nông nghiệp
không phải luôn luôn có ưu thế tuyệt đối so với sản xuất nhỏ trong mọi điều
kiện. Ông đã rất đúng khi cho rằng một doanh nghiệp lớn của nông dân nếu
đem so sánh với một doanh nghiệp nhỏ của nông dân khác trong cùng một khu
vực, cùng một loại cây trồng thì rõ ràng một doanh nghiệp lớn “ưu việt hơn,
nếu không phải về mặt kỹ thuật, thì ít ra cũng về mặt kinh tế”. Cauxlay đã đi
sâu vào nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến sức cạnh tranh đủ mạnh của
sản xuất nhỏ để chống lại ưu thế của sản xuất lớn trong nông nghiệp. Đó là “sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


12
chuyên cần hơn và sự chăm chỉ cần mẫn hơn của người lao động khi anh làm
cho chính bản thân anh ta (đây là điểm khác căn bản với lao động làm thuê)
thấp hơn cả nhu cầu của chính bản thân công nhân nông nghiệp nữa”.
A.V. Trai-a-nốp nhà nông học nổi tiếng của thế giới trong nhiều năm
nghiên cứu phong trào hợp tác xã ở nhiều nước: Italia, Bỉ, Anh, Đức và cả ở
Mỹ la-tinh) để tìm cách vận dụng vào nước Nga Xô-viết đã khẳng định “Hợp
tác xã nông nghiệp là sự bổ sung cho kinh tế nông dân, sau đó phục vụ cho
nó, và vì thế mà thiếu kinh tế hộ nông dân thì hợp tác xã sẽ không có ý nghĩa
gì cả? Ông còn cho rằng: HTX chỉ xã hội hoá một phần sản xuất và quá trình
này có thể thực hiện không phá vỡ kinh tế hộ nông dân, nghĩa là các hộ nông
dân chỉ hợp tác với nhau phần sản phẩm sản xuất mà làm ăn tập thể có ưu thế
hơn làm ăn của từng hộ riêng lẻ.
V.I. Lê-nin đã kế thừa và phát triển về kinh tế hộ nông dân của C. Mác,
Ăng-ghen và tiếp thu những hạt nhân hợp lý của C. Cauxlay và A.V. Trai-a-nốp.
Lê-nin cho rằng nhân vật chính trong sản xuất nông nghiệp phải là “một chủ
trại tự do trên mảnh đất tự do”, nghĩa là mảnh đất đã dọn sạch khỏi những tàn
tích trung cổ. Đó là kiểu Mỹ” [13].
* Quá trình chuyển từ kinh tế hộ nông dân thành kinh tế trang trại
Các trang trại gia đình được hình thành từ cơ sở của các hộ tiểu nông,
sau khi phá vỡ cái vỏ bọc tự túc, tự cấp vươn lên sản xuất hàng hoá. Về bản
chất kinh tế trang trại là kinh tế sản xuất hàng hoá khác với nền kinh tế tự cấp
tự túc, Mác đã phân biệt người chủ trang trại với người tiểu nông: “Người chủ
trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra, còn người tiểu nông thì
dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt”.
Trong quá trình phát triển kinh tế hộ sẽ vận động theo quy luật là mở
rộng sản xuất hàng hoá, tất yếu sẽ diễn ra quá trình phân hoá giữa các hộ gia
đình. Các hộ sản xuất thành công sẽ trở lên giàu có, những hộ sản xuất không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


13
thành công hoặc rủi ro trong kinh doanh sẽ trở lên nghèo. Quá trình này
thường xuyên lặp đi lặp lại sẽ tạo nên sự ngăn cách ngày càng sâu về thu nhập
giữa các tầng lớp dân cư [20].
Trong nền kinh tế thị trường các hộ nông dân chịu sự chi phối của các
quy luật của nền kinh tế thị trường. Những hộ nông dân làm ăn có lãi sẽ mở
rộng quy mô sản xuất, mua thêm đất đai, máy móc, tư liệu sản xuất nên quy
mô càng lớn hơn và thành các hộ giàu trong nông thôn [20].
Ngoài ra dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nên
lao động thủ công dần dần được thay thế bằng lao động cơ giới, hộ nông dân
thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ chuyển thành hộ sản xuất hàng hoá.
Sự điều tiết của nền kinh tế thị trường, sự tác động của khoa học kỹ
thuật, sự phát triển của lực lượng sản xuất làm quá trình phân hoá diễn ra
ngày càng nhanh hơn, các hộ giàu sẽ phát triển thành kinh tế trang trại.
Quá trình biến đổi từ hộ nông dân thành kinh tế trang trại là quá trình tự
phát hợp quy luật phát triển của xã hội.
* Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế hộ và kinh tế trang trại
Ở Việt Nam, từ năm 1986 đến nay nhờ đường lối đổi mới của Đảng và
chính sách khuyến khích của Nhà nước, hộ nông dân được thừa nhận là đơn
vị kinh tế tự chủ đã tạo ra động lực mới khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động,
tiền vốn và kinh nghiệm sản xuất, quản lý của hàng chục triệu hộ nông dân.
Nhờ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta đã có một bước chuyển biến
tương đối toàn diện, mô hình trang trại ra đời và phát triển khá phổ biến ở tất
cả các vùng của đất nước.
Từ kinh nghiệm của các nước và thực tế phát triển của mô hình trang trại
trong thời gian qua cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong tương lai loại hình
phổ biến và chủ yếu nhất vẫn là trang trại gia đình của hộ nông dân. Về vấn
đề này, Nghị quyết 06 NQ/TƯ ngày 10.11.1998 của Bộ Chính trị Trung ương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


14
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “ở nông thôn hiện nay đang phát triển mô
hình trang trại nông nghiệp, phổ biến là các trang trại gia đình, thực chất là
kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn
của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả…”. Đảng và Nhà
nước cũng đã có những chủ trương, chính sách và bước đầu cũng đã tạo dựng
được những cơ sở pháp lý cần thiết tạo điều kiện để các trang trại gia đình
hình thành và phát triển. Tuy nhiên, khung pháp luật về loại hình này còn ở
mức độ rất ban đầu, cần phải được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Bên cạnh
đó, dưới góc độ pháp lý, còn có nhiều vấn đề lý luận đặt ra, cần được nghiên
cứu, lý giải để tạo cơ sở lý luận vững chắc cho các quyết tâm chính trị và
pháp lý.
1.1.1.4. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Căn cứ vào các quy định tại Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02.02.2000
của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng như thực trạng hình
thành và phát triển của trang trại gia đình thời gian vừa qua, có thể thấy trang
trại gia đình ở Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản sau [16]:
Thứ nhất: Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế trong lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp.
– Trang trại gia đình là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật
chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông, lâm, thủy sản, đồng thời quá trình
kinh tế trong trang trại gia đình là quá trình khép kín với các khâu của quá
trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng.
– Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế có một cơ cấu thống nhất, đó
là dựa trên cơ sở hộ gia đình bao gồm chủ hộ và các thành viên khác trong gia
đình. Chủ trang trại (thường là chủ hộ) là người đại diện cho trang trại gia
đình trong các quan hệ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của trang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


15
trại. Chủ trang trại là người có kiến thức, có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu
thị trường và trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh tại trang trại. Đây là
những tố chất rất cần thiết cho một nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường và về cơ bản chúng không có ở người chủ hộ nông dân sản xuất tự
cung tự cấp.
– Tài sản và vốn sản xuất kinh doanh của trang trại gia đình thuộc quyền
sở hữu hoặc sử dụng (đối với đất đai) chung của các thành viên trong hộ gia
đình. Bằng công sức, tài sản và vốn chung các thành viên của hộ gia đình tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp dưới hình
thức trang trại gia đình. Đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất
kinh doanh bằng những tài sản chung đó.
– Xuất phát từ bản chất kinh tế của trang trại, nên hoạt động sản xuất
kinh doanh của trang trại gia đình luôn gắn liền với một vị trí diện tích đất đai
nhất định. Thực tế cho thấy, đây vừa là địa điểm sản xuất kinh doanh đồng
thời cũng là trụ sở giao dịch của trang trại gia đình trong các quan hệ nhằm
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, để thuận lợi hơn trong
việc tiếp cận thị trường, không ít trang trại gia đình đã mở thêm các địa điểm
giao dịch gần các trung tâm thương mại lớn nhằm tiếp thị và tiêu thụ sản
phẩm hàng hoá của mình.
– Theo pháp luật hiện nay, trang trại gia đình bước đầu cũng đã được quy
định cho một số quyền và nghĩa vụ trong sản xuất kinh doanh ở một số lĩnh
vực như: đất đai, thuế, đầu tư, tín dụng, lao động, khoa học, công nghệ và môi
trường, bảo hộ, v.v… Trên cơ sở những quyền và nghĩa vụ này, trang trại gia
đình hoàn toàn tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa chọn
phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tổ chức
sản xuất, đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm,…
– Hiện nay, theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3.2.2000 về đăng ký
kinh doanh, trang trại gia đình đang phải đăng ký kinh doanh dưới danh nghĩa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


16
hộ kinh doanh cá thể. Vấn đề đăng ký kinh doanh cho trang trại gia đình hiện
vẫn chưa được đề cập đến trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, đây là một
việc làm hết sức cần thiết để thể hiện sự chính thức thừa nhận và bảo hộ của
Nhà nước đối với trang trại gia đình, đây còn là cơ sở để một hộ là trang trại
gia đình được hưởng các chính sách ưu tiên và làm nghĩa vụ đối với Nhà
nước. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế
trang trại đã xác định đây là một trong những vấn đề bất cập, cần phải được
giải quyết kịp thời.
Thứ hai: Mục đích chủ yếu của trang trại gia đình là kinh doanh nông
sản phẩm hàng hoá theo nhu cầu thị trường.
Đây là đặc điểm quan trọng nhất của trang trại gia đình. Mục tiêu của
trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thủy sản để bán, khác hẳn với kinh tế
hộ tự cấp tực túc là chính. Trang trại gia đình là một hình thức tổ chức sản
xuất nông lâm ngư nghiệp được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ tự chủ trong
cơ chế thị trường mang tính chất sản xuất hàng hoá rõ rệt. Vì vậy, đặc trưng
cơ bản của trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá. Kinh
nghiệm các nước trên thế giới cho thấy tiêu chí giá trị nông sản hàng hoá và
tỷ suất hàng hoá bán ra trong năm luôn luôn được sử dụng làm thước đo chủ
yếu của trang trại. Ở Việt Nam, thực tiễn sản xuất của các trang trại gia đình
trong những năm vừa qua cho thấy, trang trại nào cũng lấy sản xuất hàng hoá
là hướng chính và tỷ suất hàng hoá của các trang trại trại phổ biến từ 70 –
80% đối với những trang trại đã đi vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực
nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Theo một kết quả điều tra năm 2001
cho thấy: ở nước ta trong năm 2000, giá trị hàng hoá của các trang trại trong
cả nước đạt 4.965,9 tỷ đồng, bình quân một trang trại đạt 81,7 triệu đồng, tỷ
suất hàng hoá là 92,6%. Đặc trưng sản xuất hàng hoá cho phép phân biệt rõ
ràng ranh giới giữa trang trại gia đình với kinh tế hộ nông dân, sản xuất tự cấp
tự túc và với hộ phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


17
Thứ ba: Trong trang trại gia đình, các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng
đất và tiền vốn được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển
sản xuất hàng hoá.
Trong nông nghiệp cũng như trong các ngành sản xuất vật chất khác, sản
xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập
trung với quy mô nào đó. Do đó, ở các trang trại gia đình sản xuất hàng hoá
chỉ có thể được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất,… được tập
trung tới quy mô đủ lớn. Đặc điểm này được quy định bởi chính đặc điểm về
mục đích sản xuất của trang trại. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK, ngày 23/6/2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát
triển Nông thôn và Tổng cục thống kê, sự tập trung các yếu tố sản xuất của
trang trại gia đình được biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu, đó
là: Quy mô diện tích ruộng đất của trang trại (nếu là trang trại chăn nuôi thì là
số lượng gia súc, gia cầm,…) và quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh
của trang trại.
Thực tế cho thấy, các trang trại gia đình có quy mô lớn hơn rất nhiều so
với kinh tế hộ gia đình nông dân. Theo số liệu điều tra năm 1999 của Trường
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội cho thấy: bình quân một trang trại gia đình
có số vốn là 291,43 triệu đồng, trong đó 91,03% là vốn tự có, quy mô đất đai
bình quân của một trang trại gia đình là 6,338 ha, trong khi đó bình quân đất
đai sản xuất nông nghiệp của một hộ gia đình chỉ là 0,68 ha.
Thứ tư: Lao động trong các trang trại gia đình chủ yếu là dựa trên các
thành viên trong hộ, ngoài ra có thuê mướn lao động.
Lực lượng lao động trong trang trại chủ yếu là chủ trang trại và các thành
viên trong gia đình, đây là những người có quan hệ huyết thống, gần gũi như:
Cha mẹ, vợ chồng, anh em. Lao động được tổ chức gọn nhẹ, đơn giản, quản
lý điều hành linh hoạt, dễ dàng, hiệu quả lao động cao. Ngoài ra, để phục vụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


18
cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, trang trại gia đình còn phải thuê mướn lao
động bên ngoài nhất là vào thời vụ gieo trồng, thu hoạch. Quy mô thuê muớn
lao động trong trang trại tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh của trang
trại. Có hai hình thức thuê mướn lao động trong các trang trại gia đình, đó là :
thuê lao động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ. Theo thống kê của
Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, bình quân 1 trang trại sử dụng 6 lao
động (quy ra thường xuyên), lao động trong gia đình chiếm 45%; hầu hết
trang trại đều có sử dụng lao động thuê ngoài, số lượng lao động thuê ngoài
trong các trang trại chiếm khoảng 55% tổng số lao động trong các trang trại,
trong đó chủ yếu là lao động thời vụ (khoảng 70%). Trang trại chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản do tính chất sản xuất khá ổn định nên sử dụng lao động
thời vụ ít hơn (từ 10 – 20%).
Thứ năm: Cách thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh trong trang
trại gia đình ngày càng mang tính khoa học, chuyên nghiệp.
Trong kinh tế hộ gia đình nông dân do tính chất sản xuất đơn giản và
quy mô sản xuất nhỏ với mục đích tự cung tự cấp là chính do vậy việc điều
hành sản xuất của chủ hộ vẫn còn mang nặng tính gia trưởng, người chủ hộ
chỉ cần có kinh nghiệm sản xuất và cần cù lao động theo kinh nghiệm cha
truyền con nối. Nhưng đối với trang trại gia đình, với mục đích chính là sản
xuất hàng hoá và bị các yếu tố lợi nhuận, giá cả, cạnh tranh chi phối ngày
càng nhiều thì cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn phù hợp nữa. Sản
xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch
ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật sản xuất, áp dụng các công nghệ
và quy trình sản xuất thâm canh, kế hoạch tài chính, hạch toán giá thành, lợi
nhuận, phân tích kinh doanh… Do vậy việc quản lý, điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh của trang trại đòi hỏi phải dựa trên cơ sở những kiến thức
khoa học và ngày càng mang tính chuyên nghiệp, đi vào chiều sâu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trung Tâm Học Liệu Thái Nguyên


19
Như vậy, mặc dù cũng dựa trên cơ sở hộ gia đình, nhưng trang trại gia
đình có sự khác biệt rất lớn so với hộ gia đình thể hiện ở mục đích, quy mô và
trình độ sản xuất. Trang trại gia đình đã và đang ngày càng thể hiện rõ tính
chất của một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn ở nước ta. Từ những đặc điểm nêu trên, theo chúng tôi, dưới góc
độ pháp lý khái niệm về trang trại gia đình với tư cách là một chủ thể kinh
doanh độc lập trong nền kinh tế thị trường có thể hiểu như sau: “Trang trại
gia đình là một đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp, dựa trên cơ sở hộ gia đình, có mục đích chủ yếu là kinh doanh nông
sản hàng hoá, trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung
đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ, tự chủ trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh”.
Khái niệm này vừa thể hiện được bản chất về mặt kinh tế của trang trại
nhưng đồng thời cũng thể hiện được những đặc trưng của loại hình trang trại
gia đình, là cở sở để phân biệt trang trại gia đình với các loại hình kinh doanh
khác đang tồn tại trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay.
1.1.1.5. Tiêu chí nhận dạng
Một hộ sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản được xác định là trang trại
theo qui định tại Thông tư số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000
liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê; Thông
tư số 74/2003/TT – BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (sửa đổi, bổ sung Mục III của Thông tư liên tịch số 69/2000/ TTLT/BNN-
TCTK) phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ
bình quân 1 năm, hoặc về quy mô sản xuất của trang trại sau đây:
1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm:
– Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng
trở lên;

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *