Tiểu Luận Kinh Tế Chính Trị
Đề tài: Cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ thời kì quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội
1
PHẦN I : MỞ ĐẦU
Đất nước ta bước vào thời kì quá độ lên CNXH khi mà nền sản xuất chưa
vận động theo con đường bình thường của nó. Lịch sử đã để lại cho chúng ta
một nền sản xuất nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lực
lượng sản xuất rất thấp kém. Nhưng ngày nay khi độc lập dân tộc gắn kiền
với CNXH là một xu thế tất yếu của lịch sử, khi giai cấp công nhân đã nắm
quyền lãnh đạo cách mạng thì kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ cũng là
lúc bắt đầu cuộc cách mạng XHCN. Cách mạnh XHCN ở nước ta là một quá
trình biến đổi cách mạng toàn điện, sâu sắc và triệt để. đó là một quá trình vừa
xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới từ gốc đến ngọn. Phải tạo ra cả cơ sở kinh
tế lẫn kiến trúc thượng tầng mới, tạo ra của cải đời sồng vật chất mới lẫn đời
sống tinh thần và văn hoá mới. Do đó, trong quá trình đi lên CNXH chúng ta
phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước.theo quan điểm của ban
chấp hành trung ương Đảng khoá VII đã khẳng định“Công nghiệp hoá-hiện đại
hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế –xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Quan điểm này đã
gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá đồng thời đã xác định vai trò khoa học-
công nghệ là then chốt đẩy mạnh công nghiệp hoá. Trong điều kiện giao lưu
kinh tế giữa các nước chưa được mở rộng, quá trình chuyển giao công nghệ giữa
các nước chưa phát triển mạnh mẽ phải”tự lực cánh sinh” thì đó chính là một
trình tự hợp lí để tiến hành công nghiệp hoá. Song hiện nay cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đang tác động một cách sâu rộng trên phạm vi toàn thế
giới khoảng thời gian để phát minh mới ra đời thay thế phát minh cũ ngày càng
được rút ngắn lại, xu hướng chuyển giao công nghệ giữa các nước ngày càng trở
thành đòi hỏi cấp bách, không chỉ đối với các nước lạc hậu, mà ngay cả đói với
2
các nước phát triển. Thực tế cho thấy có thể chuyển giao một cách có hiệu quả
cho các nước đi sau khi mà các nước đi sau đã có sự chuẩn bị kĩ càng để đón
nhận. Vấn đề đặt ra là các nước đi sau trong đó có nước ta cần phải làm ngững
gì đẻ iếp nhận một cách có hiệu quả nhất những thành tựu mà các nước đi trước
đã đạt được. Bài học thành công trong quá trình công nghiệp hoá của các nước
NIC đã chỉ ra rằng: việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa với
bên ngoài ngằm tiếp nhận một cách có chọn lọc những thành tựu của các nước
đi trước kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, đó chính là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất quyết định sự thành công
của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
3
CHƯƠNG I: CỞ SỞ LÝ LUẬN
1. Nội dung khoa học công nghệ
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học- công nghệ có nhiều nội dung phong
phú, trong đó có thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau:
– Cách mạng về phương pháp sản xuất: đó là tự động hoá. Ngoài phạm vi
tự động như trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng
rãi người máy thay thế con người trong quá trình vận hành sản xuất.
– Cách mạng về năng lượng: bên cạnh những năng lượng truyền thống mà
con người sử dụng trước kia như nhiệt điện, thuỷ điện thì ngày nay con người
càng tạo ra nhiều năng lượng mới và sử dụng chúng rộng rãi trong sản xuất như
năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời.
– Cách mạng về vật liệu mới : ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu tự
nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu tự nhiên, con người ngày càng
tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả cho các vật tự nhiên khi
mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng ngày càng cạn dần .
– Cách mạng về công nghệ sinh học, các thành tựu của cuộc cách mạng
này đang được áp dụng rông rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế,
hoá chất, bảo vệ môi trường sinh thái.
– Cách mạng về điện tử và tin học : đây là lĩnh vực hiện nay loài người
đang đặc biệt quan tâm trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử.
Như vậy, khoa học công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó
không chỉ là các phương tiện, thiết bị do con người sáng tạo ra mà còn là các bí
quyết biến các nguồn lực có sẵn thành sản phẩm. Với ý nghĩ đó khi mói tới công
nghệ thì sẽ cũng bao hàm cả kỹ thuật. đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khoa
học, kĩ thuật luôn nắn bó chặt chẽ với nhau : khoa học là tiền đề trực tiếp của
công nghệ và công nghệ lại là kết quả của khoa học.
4
2. Vai trò của khoa học công nghệ
Trong thời đại ngày nay, có lẽ không còn ai không nhận thức được rằng
khoa học và công nghệ có vai trò rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát
triển. Khoa học và công nghệ là cái không thể thiếu được trông đời sống kinh tế
– văn hoá của một quốc gia. Vai trò này của khoa học và công nghệ càng trở lên
đặc biệt quan trọng đối với nước ta đang trên con đường rút ngắn giai đoạn phát
triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại. Ngay từ khi bắt đầu tiến hành công
cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định khoa học và công nghệ là cái giữ vai
trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản
lý, bản đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn
minh, khoa học và công nghệ phải trở thành “quốc sánh hàng đầu”.
Nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh
CNH- HĐH. Nghị quyết Trung ương hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII đã xác định rõ :”CNH- HĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học
và công nghệ” “khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho
CNH- HĐH”. Chỉ bằng con đường CNH- HĐH, phát triển khoa học và công
nghệ mới có thể đưa nước ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh
văn minh. Việc đưa khoa học và công nghệ, trước hết là phổ cập những tri thức
khoa học và công nghê cần thiết vào sản xuất và đời sống xã hội là một nhu cầu
cấp thiết của xã hội ta hiện nay. Nghị quyết trung ương II cũng đã nhấn mạnh
phải thật sự coi “Sự phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng
của toàn dân, phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng. Bởi lẽ dù
chúng ta có tiến hành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, có đưa trang thiết
bị kỹ thuật tân tiến nhất, những quy trình công nghệ hiện đại nhất vào nước ta
thì cũng không có gì để có thể bảo đảm đẩy mạnh được CNH- HĐH. Nếu không
có được những con người am hiểu và sử dụng chúng. Do đó, xã hội hoá tri thức
khoa học và công nghệ là một trong những nhu cầu thiết thực và cấp bách nhất
để đẩy mạnh sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.
5
Phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình phát triển và nâng cao
trình độ công nghiệp. Việc nâng cao trình độ công nghệ được thực hiện trong
quá trình điện khí hoá, cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá và
sinh học hoá. Trong các ngành lĩnh vực kinh tế quốc dân, các thành phần kinh
tế, các vùng kinh tế của đát nước trong đó cần ưu tiên đưa ngành công nghệ hiện
đại thích hợp vào các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, các vùng lãnh
thổ mũi nhọn trọng điểm, đạt hiệu quả kinh tế cao, tích luỹ nhanh và lớn. Có như
vậy mới tạo khả năng thu hút và thúc đẩy CNH- HĐH các ngành, các lĩnh vực
và các thành phần kinh tế.
6
CHƯƠNGII: CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.Sự cần thiết phải phát triển KH- CN
Cách mạng KH- CN đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước phát triển,
tức là ở những nước đã trải qua thời kì cách mạng công nghệ, đã xác lập được
nền sản xuất cơ khí hoá đã có nền KH và CN tiên tiến. Tuy nhiên, nó không chỉ
hạn chế trong ranh giới của các nước phát triển mà ảnh hưởng của nó đang lan
ra tất cả các nước trên thế giới . Có thể nói cách mạng KH- CN là một hiện
tượng toàn cầu, hiện tượng quốc tế sớm hay muộn nó sẽ đến với tất cả dân tộc
và các quốc gia trên trái đất
Là một hiện tượng toàn cầu, cuộc mạng KH- CN mang trong bản thân nó
những qui luật chung, phổ biến, chúng tác động vào tất cả các loại hình cách
mạng KH- KT. Nhưng mặt khác, mỗi nước tiến hành cuộc cách mạng này trong
những điều kiện riêng của đất nước mình cho nên cách mạng KH- KT ở những
nước khác nhau cũng mang những màu sắc, những đặc điểm khác nhau. Do đó,
khi xem xét cuộc cách mạng KH- KT ở nước ta cần phải đặt nó trong bối cảnh
chung của cách mạng KH- KT trên thê giới.
Sau khi giành được độc lập về chính trị, nước ta có nguyện vọng sử dụng
những thành tựu của cuộc cách mạng KT- CN hiện đại, muốn tiến hành cuộc
cách mạng đó để phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật để đưa đất
nước ta khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Nguyện vọng đó là hoàn toàn
chính đáng. Tuy nhiên, việc tiến hành cách mạng KH- CN ở nước ta gặp phải
những khó khăn lớn, do nhiều nguyên nhân
Trước hết, nước ta còn ở tình trạng lạc hậu về mặt kinh tế, khoa học và
công nghệ. Nông nghiệp và công nghiệp chưa hết hợp thành một cơ cấu thống
nhất, sự mất cân đối trong các ngành kinh tế quốc dân trở nên trầm trọng
Về mặt văn hoá, khoa học và công nghệ thì số đông dân cư nước ta vẫn ở
tình trạng mù chữ, thiếu lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, thiếu
cán bộ văn hoá và kỹ thuật. Thêm vào đó, sự tăng dân số quá nhanh đã gây ra
7
những khó khăn cho việc bảo đảm lương thực, giải quyết công ăn việc làm cho
những người lao động
Ngoài những khó khăn trong nước, nước ta còn phải chịu những di sản
nặng nề do sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân để kại, đồng
thời các cường đế quốc lại đang thực hiện chính sách kìm hãm sự phát triển
khoa học và kỹ thuật nhằm duy trì tình trạng bất bình đẳng của họ trong sự phân
công lao động quốc tế
Nếu nước ta sau khi đã được giải phóng khỏi sự nô dịch của chủ nghĩa đế
quốc, lại chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc đứng giữa ngã ba
đường trong việc lựa chọn phương hương phát triển xã hội dù chúng ta có sự cố
gắng như thế nào đi nữa trong việc sử dụng những thành tựu KH- CN hiện đại
thì chúng ta cũng không thoát khỏi địa vị phụ thuộc vào các nước đế quốc về
mặt KH- CN và do đó phụ thuộc về mặt kinh tế, không thể khắc phục được
những mâu thuẫn xã hội do tiến bộ khoa học và kỹ thuật gây ra, không thể tiến
hành thành công cuộc cách mạng KH- CN
Do đó, điều kiện kiên quyết để tiến hành cách mạng KH- CN ở nước ta là
phải tiến hành cải tạo xã hội sâu sắc, chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa
thực dân mới và các thế lực phản động để đi lên CNXH.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, khoa học và công nghệ nước ta
bước đầu có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên cho đến nay, nền khoa học và
kỹ thuật nước ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển chưa đáp
ứng được yêu cầu của đất nước
Về trình độ kỹ thuật- công nghệ, so với các nước tiên tiến nhất trên thế
giới, chúng ta lạc hậu từ 50 đến 100 năm, so với các nước tiên tiến ở mức trung
bình ta lạc hậu từ 1 đến 2 thế hệ
Với thực trạng đó, việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
ở nước ta không chỉ được coi là tất yếu khách quan, mà còn là một đòi hỏi bức
xúc để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
8
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là đến năm 2020 về cơ bản
nước ta trở thành nước công nghiệp. Khác với các nước đi đàu, công nghiệp hoá
nước ta đòi hỏi phải thực hiện rút ngắn. chỉ có như thế, chúng ta mới có thể sớm
rút ngắn được khoảng cách và tiến tới đuổi kịp các nước phát triển. Công nghiệp
hoá phải gắn liền với hiện đại hoá
Cùng với đó, yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường cũng đòi hỏi
chúng ta phải phát triển khoa học và công nghệ. Để chuyển sang nền kinh tế thị
trường hiện đại từ điểm xuất phát thấp, nước ta không thể đi theo các bước tuần
tự như các nước đi trước đã làm, mà phải phát triển theo kiểu “nhảy vọt”,”rút
ngắn”. Đây vừa là cơ hội để tận dụng lợi thế của nước phát triển sau, vừa là
thách thức đòi hỏi phải vượt qua. Muốn phát triển nhanh kinh tế thị trường theo
cách thức như vậy, nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển khoa học- công nghệ.
Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ đối với nước ta không chỉ
bắt nguồn từ đòi hỏi bức xúc của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, về bản chất, là một kiểu định hướng tổ chức nền kinh tế- xã hội
vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên nguyên
tắc và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Định hướng này không chỉ đòi hỏi nền
kinh tế tăng trưởng ở mức cao mà còn đòi hỏi phải xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh.Ở đó, phát triển con người và phát triển xã hội bền
vững được coi là trung tâm. Đâu là con đường phát triển chưacó tiền lệ. Muốn
đạt tới đó, chúng ta phải có nỗ lực và sáng tạo rất cao, phải biết vận dụng những
thành tựu mới nhất của nhân loại, tránh những sai lầm mà các nước khác đã vấp
phải. Nếu không đủ trình độ trí tuệ, không đủ năng lực nội sinh thì khó có thể
thành công. Do vậy, đẩy mạnh phát triển khoa học và kỹ thuật càng trở nên rất
quan trọng và bức thiết.
2.Về hướng tác động của KH- CN
9
a. Tập trung nỗ lực tiến hành cải tạo, đồng bộ, hoá và hiện đại hoá có
chọn lọc các cơ sở sản xuất hiện có
Tuy cơ sở vật chất- kỹ thuật có của nước ta còn nhỏ bé, trình độ công
nghệ, kỹ thuật vào loại lạc hậu, hệ số sử dụng thiết bị và công suất còn thấp. Bởi
vậy, nguồn dự trữ còn khá lớn và dưới nhiều góc độ, đây thật sự đang là nguồn
vốn quý của đất nước và phải bắt đầu từ đây để đi lên
b. Chủ động sử dụng có chọn lọc một số hướng công nghệ tiên tiến phù
hợp với thế mạnh của đất nước nhằm chuẩn bị điều kiện phát triển các ngành
có hàm lượng công nghệ cao
Ở nước ta, cùng với việc tập trung nỗ lực KH- CN khai thác có hiệu quả
cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện có, cũng cần phải chăm lo, dành một số phần tiềm
lực dư lớn cho việc thử nghiệm, lựa chọn một sồ hướng công nghệ cao phù hợp
để một mặt, hỗ trợ cho việc giải quyết có hiệu quả hơn, mặt khác thúc đẩy việc
hình thành một số lĩnh vực sản xuất công nghệ cao với quy mô phù hợp để tạo ta
các sản phẩm thay thế nhập và tạo chỗ đứng trên thị trường quốc tế.
Trong số những hướng công nghệ cao, cần quan tâm đầy đủ tới khâu tin
học hoá một số lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Cần có quyết tâm trong việc
đầu tư phát triển một số lĩnh vực sản xuất gắn với các hương ưu tiên của chương
trình tổng hợp tiến bộ KH- CN. Đó là dịp tốt để VN tham gia vào phân công lao
động quốc tế về một số sản phẩm có hàm lượng khoa học cao
c. Thúc đẩy việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của các xí nghiệp
nhỏ, của khu vực tiểu thủ công nghệp cả ở thành thị và nông thôn.
Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng để có thể thực hiện có hiệu quả chiếm
lược này, việc nhanh chóng khắc phục sự lạc hậu về công nghệ, sự yêú kém về
năng lực quản lý, sự thiếu hụt về lực lượng lao động có kỹ thuật là yêu cầu bức
bách phải giải quyết .Bởi vậy việc giành một phần nỗ lực đủ mạnh hướng vào
việc giải quyết các nhu cầu khoa học và công nghệ phục vụ phát triển công
nghiệp nông thôn có tầm quan trọng đặc biệt
10
Những phân tích nêu trên đã tới gợi ý quan trọng là chiến lược phát triển
khoa học và kỹ thuật không thể không quan tâm đến việc nâng cao trình độ kỹ
thuật và công nghệ ,cải tiến .. và nên coi đây là một hướng có ý nghĩa chiến lược
cả trước mắt và lâu dài .
d.Kết hợp hữu cơ việc tập trung nỗ lực giải quyết các vấn đề trước mắt và
tiếp tục tăng cường tiềm lực khoa học và kỹ thuật nhằm đáp ứng những yêu
cầu mới của giai đoạn phát triển tiếp theo
3. Vai trò của KH- CN đối với một số lĩnh vực
a. Với sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông thôn và phát triển
nông thôn
Gần 20 năm qua sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đạt được
những thành tựu to lớn góp phần quan trọng ổn định và phát triển kinh tế xã hội
đưa nước ta bước sang giai đoạn mới đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước.Tuy nhiên cho đến nay với gần 80% dân số của cả nước sống ở nông
thôn, trong đó tỷ lệ đói nghèo vẫn còn trên 22%, có nơi như ở một số huyện
miền núi còn trên 42%(theo chuân ngheò mơí). Mặt khác cũng do nền kinh tế
nước ta mới bước đầu chuyển từ nền sản xuất theo cơ chế tập trung, quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh của nông sản, hàng hoá còn rất thấp so với nhiều nước
trong khu vực và thế giới. Điều đó làm cho thu nhập và tích luỹ của đại bộ phận
dân cư nông thôn còn bấp bênh, sức mua có khả năng thanh toán về tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng đều rất hạn chế, gây ảnh hưởng lớn đến sự chuyển dịch
cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời gây cản trở việc, phát triển công
nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn
So với các giải pháp khác, thì giải pháp về khoa học và công nghệ yêu cầu
vốn đầu tư không quá lớn mà đem lại hiệu quả cao. Theo đánh giá chung, trong
nông nghiệp ước tính 1/3 giá trị tăng của sản xuất lương thực thời gian vừa qua
là do người dân tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mới vào sản
xuất
11
Tuy nhiên, tiềm lực về KH- CN của nước ta chưa được phát huy đầy đủ
cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhiều vấn đề bức xúc của sản
xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đặt ra đối với các lực lượng KH- CN đến
nay chưa giải quyết được, trong đó đáng lưu ý hơn cả là :
– Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nội dung quan
trọng trong quá trình thực hiên CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, mà sự
chuyển đổi đó phụ thuộc vào việc tổ chức áp dụng thành tựu KH- CN vào sản
xuất và các chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất. Chỉ trên cơ sở có đủ giống
tốt và các tiến bộ kỹ thuật khác, kết hợp với việc phát triển các quan hệ thị
trường đúng hướng mới có thể chuyển cơ cấu sản xuất nông nghiệp từ thuần
nông, độc canh sang đa dạng hoá cây trồng. Hiện nay việc chuyển đổi kinh tế
nông thôn từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ mới chỉ xuất hiện ở một số
ven vùng có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, có trình độ dân trí cao, có khả năng tiếp thu
các tiến bộ kỹ thuật
-Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản hàng năm tuy
chiếm gần 40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhưng nhìn
chung, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá còn thấp
so với các nước trong khu vực và trên thế giới, khiến cho các sản phẩm làm ra
tiêu thụ khó khăn, ảnh hưởng bất lợi đến thu nhập của người sản xuất. KH-CN
chưa có sự tác động cần thiết và hiệu quả bản đảm tính ổn định, bền vững của
nông sản hàng hoá khi gặp phải rủi ro của thiên tai và thị trường
– Phát triển công nghệ chế biến là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình thực
hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhưng phát triển công nghiệp, chế
biến như thế nào lại là vấn đề bức xúc đang đòi hỏi nghiên cứu và làm rõ
– Gần đây, Nhà nước tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho nông nghiệp, nông thôn. Hiện có rất nhiều vấn đề về kỹ thuật để bảo
đảm hiệu quả vốn đầu tư của nhà nước chưa được giải quyết tốt. Do đó, nông
nghiệp, nông thôn đang rất cần có sự tác động của lực lượng KH- CN
12
Tình hình trên khẳng định vai trò của KH- CN trong quá trình thực hiện
CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay và đó cũng chính là
những yêu cầu bức xúc đặt ra đối với các nhà khoa học vì sự phát triển của nông
nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, để huy động được các lực lượng KH- CN phục vụ
nông nghiệp, nông thôn, chú ý các vấn đề về tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành
và các chính sách tác động, trong đó cốt lõi là giải quyết hợp lý lợi ích cho
người làm nghiên cứu, triển khai các thành tựu của KH- CN.
Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ, áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật phục vụ kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một việc làm hiệu quả, đã
khẳng định vai trò, động lực chủ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp và chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, cần tổ chức, vận động thành phong trào rộng lớn
đưa KH- CN về phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn nhằm tạo ra
bước chuyển biến rõ rệt về năng suất chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nông sản hàng hoá, chủ động hội nhập cới khu vực và quốc tế, góp phần chuyển
đổi nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thực hiện đa dạng hoá cây
trồng vật nuôi để có cơ sở lựa chọn, nhân giống các sản phẩm có ưu thế ở từng
vùng, từng địa phương, phát triển công nghiệp, công nghệ chế biến, ứng dụng
các công nghệ sau thu hoạch nhằm hạn chế tổn thất, duy trì chất lượng nông sản,
khai thác các tiềm năng chưa phát huy hết, tăng cường luận cứ khoa học để bảo
đảm hiệu quả đầu tư cho khu vực nông nghiệp và nông thôn.
b. Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất
Khoa học có nguồn gốc, bản chất, chức năng sứ mạng từ đời sống thực
tiễn của xã hội, con người. Nó không phải là bản thân công cụ lao động và sức
lao động, nhưng cũng không nằm ngoài thành tố quan trọng nhất là lực lượng
sản xuất. Nó không thay thế, nhưng nó có thể làm thay đổi mạnh mẽ, nhanh
chóng tính năng hiệu lực của công cụ lao động, sức lao động và do đó, phương
thức con người tác động đến giới tự nhiên theo chiều hướng ngày càng tăng
cường sức mạnh, vai trò và tự do của con người trước thiên nhiên. Tuy nhiên,
với tính cách là sản phẩm, giá trị đã được sáng tạo ra, đã có sẵn, thì khoa học
13
không còn là kết quả, mà lại dóng vai trò như một trong những nguyên nhân,
động lực bên trong, trực tiếp thúc đẩy mạnh nhất sự phát triển lực lượng sản
xuất
Trong điều kiện “ thông tin hoá “, “toàn cầu hoá” của đời sống xã hội và
kinh tế thế giới ngày nay, nhiều thành tựu của cuộc cách mạng KH- CN có thể
được chuyển giao tiếp nhận tương đối nhanh chóng, dễ dàng, tạo ra cơ hội khách
quan thuận lợi cho sự phát triển đột biến, nhảy vọt và bứt phá về kinh tế ở những
dân tộc, quốc gia, hay khu vực nhất định trong những thời điểm, thời kỳ hay giai
đoạn nhất định. Nhưng để tranh thủ tân dụng và phát huy được hết tiềm năng
của cơ hội bên ngoài này thì điều kiện tất yếu và tối thiểu là ở bên trong phải
chuẩn bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và bồi dưỡng nhân tố con người lao
động ở một nức độ tương ứng, thích đáng. Kinh nghiệm thế giới về việc giải
quyết mối quan hệ “ con người- tư kiệu sản xuất- khoa học” một cách cân đối,
hài hoà để tạo ra hiệu quả tổng hợp tối đa và tối ưu về kỹ thuật là khá toàn diện
và
phong phú
Việc xây dựng rõ vị trí tương quan vai trò và ảnh hưởng của KH- CN trong
hệ thống các thành tố lực lượng sản xuất như trên đã đồng thời làm sáng tỏ giới
hạn tác động của nó về mặt xã hội. Sự phát triển của khoa học không trực tiếp
dẫn tới sự thay đổi quan hệ sản xuất và chế độ sở hữu. Trái lại, vai trò “ cách
mạng hoá “ của khoa học đối với việc thúc đẩy sự tăng trưởng của lực lượng sản
xuất lại bị chế ước bởi một quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng xã hội
nhất định. Nói cách khác, tiềm năng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển của
khoa học là vô tận, nhưng mức độ, giới hạn hiện thực hoá tiềm năng này lại phụ
thuộc “ khuôn khổ “ của quan hệ sản xuất thống trị
Tuy nhiên, sự phát triển như vũ bão của cách mạng KH- CN hiện đại đang
diễn ra từng ngày, từng giờ ở khắp mọi nơi trên thế giới đã có tác dụng cụ thể.
Sức tiến công vũ bão của phong trào giải phong dân tộc, giai cấp tư sản đã chủ
14
động ra sức đẩy mạnh cuộc cách mạng KH- KT, sử dụng các thành quả của nó
để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế một cách thành công
Tuy không lạc quan đến mức vội vã và ngộ nhận mà cho rằng, cuộc cách
mạng KH- CN hiện đại sẽ tự động và trực tiếp đưa ngay đến một xã hội thực sự
là “ hậu TBCN “, nhưng chúng ta vẫn có thể ghi nhận những thành tựu lớn lao
của cuộc cách mạng này và có đủ cơ sở để tin tưởng rằng, những thành tựu ấy
trong hôm qua, hôm nay và ngày mai đều góp phần thiết thực thúc đẩy CNTB đi
nhanh hơn tới điểm kết thúc không thể tránh khỏi.
c. Khoa học – công nghệ đã nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp ở nước ta
Việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là dự đoán thiên tài
của C.Mác. Dựa trên cơ sở phân tích rõ vai trò của khoa học trong sự phát triển
của công nghiêp, ông đã kết luận : Việc biến khoa học thành lực lượng sản xuất
trực tiếp là một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Ngày nay dự đoán
ấy đang trở thành hiện thực trong nhiều nước công nghiệp phát triển
Khoa học là một hệ thống tri thức được tích luỹ trong quá trình lịch sử và
được thực tiễn kiểm nghiệm, phản ánh những quy kuật khách quan của thế giới
bên ngoài cũng như hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có năng
lực cải tạo thế giới
Như vậy, khoa học là” văn hoá biết”, còn sản xuất, kỹ thuật, công nghệ là
“ văn hóa làm “. Từ “biết” đến “ làm “ có một khoảng nhất định nhưng không hề
có bức tường nào ngăn cản tuyệt đối cả. Khoảng cách ấy có thể bị rút ngắn và
được rút ngắn đến đâu là tuỳ thuộc ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
của kỹ thuật, công nghệ và khoa học
Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, nhưng
đến lượt mình nó lại có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại hoạt động sản
xuất. Do đó con người hoàn toàn có khả năng biến khoa học thành lực lượng sản
xuất trực tiếp.
15
Trong thực tế, sự phát triển của khoa học đã giúp con người tăng cường
sức mạnh trong quá trình chinh phục tự nhiên, sử dụng có hiệu quả những sức
mạnh của nó. Nếu không có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, làm sao con
người có thể tạo ta năng lượng hạt nhân, phóng tàu vũ trụ lên thám hiểm các
hành tinh, hay sản xuất ra máy tính điện tử và người máy công nghiệp thay thế
nhiều hoạt động phức tạp của mình.
Khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới kỹ thuật và sản xuất còn rất
yếu, nhưng đã phát triển đến trình độ cao như ngày nay thì nó tác động mạnh mẽ
và trực tiếp tới sản xuất. Kỹ thuật và công nghệ là kết quả sự vận dụng những
hiểu biết, tri thức khoa học của con người để sáng tạo, cải biến các công cụ,
phương tiện phục vụ cho hoạt động sản xuất và các hoạt động khác của xã hội.
Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì dứt khoát phải gắn liền với
kỹ thuật và công nghệ. Song như thế chưa đủ. Khoa học còn phải được người lai
động tiếp thu vận dụng để nâng cao kỹ năng, kỹ xảo lao động, phát triển tư duy
kinh tế nhanh nhạy, trau dồi đạo đức, lối sống, v..v, mới có thể trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp và mạnh mẽ. Người lao động là chủ thể sử dụng các
phương tiện kỹ thuật. Do đó họ không thể sử dụng được các phương tiện hiện
đại để lao động tốt nếu có trình độ học vấn thấp và không được đào tạo, hay đào
tạo kém.
Có thể nói, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp vì mấy lẽ sau:
1. Nền sản xuất hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, ngày càng có tính chất
quốc tế cao, biến động mau lẹ, phức tạp đang đặt ra nhiều vần đề, mà thiếu khoa
học thì không thể giải quyết và phát triển nhanh chóng được. Đồng thời bản thân
nền khoa học hiện đại cũng đã phát tiển đến mức có đủ điều kiện để có thể giải
quyết được những vấn đề của sản xuất.
2.Ngày nay các máy móc kỹ thuật, công nghệ ngày càng hiện đại, tinh vi
và có hàm lượng trí tuệ cao, thị trường mở rộng, phong phú, phức tạp và đầu
biến động, hợp tác giao lưu nhưng cạnh tranh giữa các quốc gia cũng gay gắt.
Muốn sản xuất đạt chất lượng và hiệu quả cao, người lao dộng không thể chỉ
16
dừng lại ở những kinh nghiệm cảm tính, mà còn rất cần có nhiều tri thức khoa
học, kỹ thuật và kinh tế. Mặt khác, khoa học phải được con người vận dụng vào
hoạt đông thực tiễn sản xuất, hình thành nên những thao tác công nghệ, kỹ
năng,… hợp thành năng lực sáng tạo mới trở thành một lực lượng vật chất.
3. Kỹ thuật công nghệ hiện đại phải có khoa học định hướng, dẫn đường
và làm cơ sở lý thuyết mới có thể phát triển nhanh. Đồng thời các lý thuyết khoa
học phải được vật chất hóa thành các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại
mới tác động trực tiếp tới lực lượng sản xuất.
4.Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật- công nghệ
hiện đại, thời gian để một lý thuyết khoa học đi vào thực tế sản xuất, trực tiếp
tạo tra sản phẩm hàng hoá đang ngày càng được rút ngắn
4. Các nguồn lực để phát triển KH- CN
a. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực KH- CN
Nhân tố con người
Nhân tố con người, đã và đang là điều kiện quyết định trong sự nghiệp
phát triển KH- CN của nước ta. Thành công của chúng ta là ở chỗ đã tạo ta một
lực lượng cán bộ KH- CN ban đầu tương đối đông đảo. Mặt khác, chính lĩnh vực
này cũng là nơi đang đặt ta những vấn đề bức thiết, mà việc giải quyết chúng, về
thực chất, sẽ quyết định tính hiện thực của những bước tiếp theo
Đối với KH- CN vấn đề không chỉ là những nhà khoa học, các kỹ sư, kỹ
thuật viên với nghề nghiệp chính thức của họ là làm công tác KH- CN, mà trước
hết phải nói đến cả phong trào quần chúng nhân dân đang tham dự vào hoạt
đông công nghệ trong sản xuất xã hội. Bất cứ hoạt động gì trong thực tiễn đời
sống và sản xuất đều có quan hệ tới KH- CN.
Yếu tố quan trọng hàng đầu cho tiến bộ khoa và công nghệ là phải tạo ra
một mội trường xã hội thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển. Ở một
mức độ đáng kể, môi trường đó được tạo nên bởi nhận thức của con người ở mọi
tầng lớp xã hội về vai trò của khoa học và công nghệ
17
Thấy được ý nghĩa của môi trường khoa học và công nghệ dân chúng là
để từ đó cần chú trọng các biện pháp tác động về mọi mặt : giáo dục, đào tạo,
tuyên truyền, phổ biến, kích thích kinh tế và các biện pháp khác
Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học
Đào tạo là khâu đầu tiên của một chu trình hình thành và sử dụng nguồn
nhân lực quốc gia về mặt khoa học và công nghệ. Nói đến đào tạo đối với nguồn
nhân lực này trước hết phải kể đến toàn bộ hệ thống giáp dục các cấp, từ phổ
thông cơ sở, phổ thông trung học, giáo dục chuyên nghiệp đến đại học và trên
đại học.
Tuy nhiên, so với yêu cầu chuẩn bị cán bộ khoa học và công nghệ để đẩy
mạnh công nghệ hoá trong giai đoạn sắp tới thì đội ngũ cán bộ ấy vẫn thiếu về
số lượng và yếu về chất lượng. Không thể vì một số khó khăn trước mắt mà hạn
chế qui mô và tốc độ đào tạo. Con người luôn luôn là vốn quý nhất và đào tạo
nhân lực lao động khoa học là vấn đề chiến lược trọng yếu mà bất cứ nước nào
muốn phát triển thành công cũng đều phải hết sức quan tâm
Hệ thống giáo dục phổ thông, khâu đầu của đào tạo khoa học và công
nghệ của chúng ta hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Và hệ thống giáo dục
đại học và chuyên nghiệp còn nhỏ bé, chưa cân đối với các bậc học trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Về cơ bản, cách giáo dục của ta còn nặng về trang bị
kiến thức, nặng về lý thuyết, nhẹ về bồi dưỡng kỹ năng thực hành, ít chú trọng
phương pháp tự đào tạo trong hoạt động thực tiễn. Đó cũng là nhược điểm phổ
biến của hệ thống giáo dục của nhiển nước xã hội chủ nghĩa mà một bộ phận
quan trọng cán bộ khoa học và công nghệ của chúng ta đã được đào tạo qua .
Chúng ta không thể vừa lòng với tình trạng sử dụng cán bộ khoa học và
công nghệ không bình thường như hiện nay và càng không thể định con đường
phát triển của ngành đào tạo đại học,mà không tính đến bước phát mạnh mẽ của
nước ta sau này. Dù có những khó khăn tạm thời ngày hôm nay, chúng ta vẫn
phải ra sức mở rộng quy mô và tốc độ đào tạo nhân lực nhân lực khoa học và
18
công nghệ cho những thập kỷ sắp tới. Đào tạo con người, như kinh nghiệm cho
thấy không bao giờ là thừa đối với một nước đang phát triển như nước ta.
Vấn đề sử dụng cán bộ khoa học- công nghệ
Nếu người cán bộ được sử dụng tốt, trong quá trình làm việc sẽ diễn ra sự
hiện đại hóa,đổi mới kiến thức do đào tạo trước đó, sẽ không có sự hao mòn vô
hình và cán bộ khoa học, công nghệ đó sẽ trưởng thành, phát triển với đà tiến bộ
chung.
Bức tranh sẽ hoàn toàn ngược lại khi nhân viên được đào tạo ra không
được sử dụng kiến thức nghề nghiệp của mình một cách thoả đáng. Khối lượng
kiến thức ban đầu sẽ không có cơ hội trau dồi và hiện đại hoá, không được bổ
xung những nhân tố mới, giá trị sử dụng ngày càng kém đi. Nó sẽ bị sói mòn với
tốc độ cực kỳ nhanh chóng.
Từ đây phải thường xuyên đánh giá lại năng lực đã có, không thể coi năng
lượng khoa học- công nghệ là bất biến.Sử dụng là tiền đề và điều kiện tiên quyết
cho phát triển nhân lực khoa học- công nghệ. Tiềm lực cán bộ chỉ có thể phát
triển trong điều kiện được phát huy năng lực của mình một cách thoả đáng.
Không ít trường hợp sự đánh gía tiềm lực khoa học- công nghệ của đất
nước ta hiện nay tỏ ra lạc quan, khi chỉ nhìn vào số lượng cơ cấu, trình độ đào
tạo ban đầu của đội ngũ cán bộ. Chúng ta hầu như đã có đủ tất cả các ngành
nghề với số lượng khá đông cho một nền kinh tế như nước ta. Song nhiều lĩnh
vực chúng ta không thể huy động được lực lượng cần thiết, mặc dù, trên danh
nghĩa, chuyên ngành nào đó đã có một đội ngũ cán bộ được đào tạo không nhỏ.
Như vậy, năng lực thực tế kém xa năng lực trên danh nghĩa.
Như vậy nếu đào tạo không đi đôi với sử dụng và phát huy trình độ đã có
thì không làm tăng thêm tiềm lực khoa học- công nghệ của đất nước, trái lại còn
có thể giảm sút so với tích tụ ban đầu của nguồn nhân lực.
b. Bảo đảm nguồn vốn cho sự phát triển KH- CN
Bên cạnh nhân lực thì vốn là điều kiện quan trọng cho phát triển khoa
học- công nghệ. Muốn cho sự nhiệp công nghiệp hoá, hiện đai hoá được tiến
19
hành với tốc độ nhanh cần phải có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động
được nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất.
Vấn đề huy động vốn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá có ý
nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Song song với việc huy động các
nguồn vốn, vấn đề sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn cũng có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng. Yêu cầu bảo toàn vốn được thể hiện trước hết trong công tác tổ chức
tài chính, có nghĩa là phải lựa chọn các phương án tối ưu trong tạo nguồn tài
chính. Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và phát triển vốn trước hết xuất phát từ
yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, phải hoạch toán kinh tế kinh doanh,
xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải đảm
bảo tính hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và dản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền
vững, tất yếu phải bảo toàn và phát triển vốn, phải nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn
CHƯƠNG III : THỰC TRẠNG KH- CN VIỆT NAM
1. Thành công
KH- CN đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ
môi trường. Đã áp dụng các công nghệ và phương pháp nghiên cứu tiên tiến:
viễn thám, địa vật lý… vào công tác điều tra, thăm dò tài nguyên thiên nhiên.
Nhiều kết quả nghiên cứu môi trường được đánh giá cao : nghiên cứu chính
sánh và biện pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái và xử lý ô
nhiễm nước, không khí ở các khu công nghiệp tập trung, các thành phố lớn…
các biện pháp trồng rừng, chống suy thái đất, cải tạo đất…
KH- CN đã chú ý phát triển các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ
cao. Nhiều thành tựu toán học, cơ học, vất lý của ta… được đánh giá cả ở nước
ngoài. Công nghệ thông tin đã phát triển và mở rộng ứng dụng trong hệ thống
ngân hàng, quản lý hành chính, sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, công nghệ chế
20
tạo vật hiệu mới, công nghệ sinh học, tự động hoá… đã từng bước được quan
tâm. Trong nông nghiệp. Nhờ áp dụng những tiến bộ KH- CN về giống cây
trồng, quy trình kỹ thuật thâm canh và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chúng ta đã
tuyển chọn, lai tạo hàng chục giống lúa mới, phù hợp các vùng sinh thái khác
nhau, tạo mức tăng trưởng quan trọng. Nghiên cứu và tạo nhiều loại giống gia
súc, gia cầm, có giá trị kinh tế cao, thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Hơn 20 năm
qua, năng suất lúa bình quân đã tăng hơn 2 lần. Tổng sản lượng lương thực 2004
đạt hơn 39,12 triệu tấn. Nhiều loại phân vi sinh, thuốc trừ sâu vi sinh, chất kích
thích tăng trưởng thực vật … đã được sử dụng vào sản xuất, bảo vệ, phát triển
các loại cây lương thực. Cơ cấu cây trồng đã được thay đổi cơ bản. Trước năm
1989, từ chỗ còn thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo
đéng thứ 2 thế giới sau Thái Lan.
Về thuỷ sản nhờ áp dụng kỹ thuật mới, nhiều năm nay năng suất cao.
Tháng 5 năm 2006 sản lượng khai thác thuỷ sản ở Việt Nam đạt 166500 tấn đưa
tổng sản lượng khai thác 5 tháng đầu năm 2006 ước đạt 799.500. Trong đó sản
lượng nuôi trồng tháng 5 năm 2006 đạt 135.000 tấn. Theo ước tính của Bộ Thuỷ
sản, giá trị kim ngạch xuất khẩu tháng 5 năm 2006 đạt 250 triệu USD, nâng giá
trị kim ngạch xuất khẩu 5 tháng. Đặc biệt kỹ thuật nuôi tôm đã được ứg dụng
khắp nơi, tạo công ăn việc làm cho 350000 ngư dân ven biển góp phần cải thiện
và tăng kim ngạch xuất khẩu các ngành thuỷ sản.Việc nuôi trồng thuỷ sản đã có
sự đầu tư khoa học thích đáng trong việc tận dụng mặt nước ao, hồ, nước biển
mà sản lượng khai thác,nuôi trồng ,xuất khẩu… tăng đáng kể.
Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến được áp dụng, tạo nhiều sản
phẩm chất lượng cao : hàng may mặc, thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy,
điện tử… Công nghiệp tăng trưởng bình quân khoảng 23% năm 2004 đạt 2,1 tỷ
21
USD, công nghiệp viễn thông đạt 200 triệu USD, máy tính 1 triệu USD, điện tử
730 triệu USD, công nghệ phần mềm 170 triệu USD.
Trong lĩnh vực năng lượng, nhiều công trình, nghiên cứu KH- CN đã tập
trung vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng. Đổi mới
CN xây dựng các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phương pháp
giảm tổn thất năng lượng trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ thống năng
lượng đã phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn xã ở khu vực nông thôn, hơn
50% hộ gia đình đã có điện sử dụng.
Trong giao thông vận tải, KH- CN đã góp phần quan trọng vào việc nâng
cấp và phát triển mạng lưới, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường sông… đã
xây dựng một số công trình quan trọng bằng việc áp dụng các CN mới : đóng
tàu biển trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất,
thắng thầu nhiều công trình giao thông ở Lào, Campuchia… với việc áp dụng
CN mới trong gia cố nền móng và thi công mặt đường.
Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại
bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang… đủ mạnh để
hoà nhập mạng thông tin quốc tế và khu vực. Viễn thông nước ta hiện được xếp
vào một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên cạnh
mạng lưới hữu tuyến điện phát triển rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa
dạng, các hệ thống thông tin di động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển
mạnh, được các tổ chức kinh tế, cơ quan trong và ngoài nước sử dụng. Thị
trường tin học nước ta những năm qua, có tốc độ tăng trưởng trung bình hằng
năm khoảng 40-50%. Hiện các cơ quan Đảng, chính phủ đang sử dụng hàng vạn
chiếc máy vi tính, trong đó lưu giữ nhiều thông tin, số liệu bí mật quan trọng.
Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia. Trên đà ấy, việc sử dụng
máy vi tính ở nước ta bắt đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang hình
thức sử dụng mạng cục bộ và mạng diện rộng.
Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn dịch
học, cắt giảm, tỷ lệ mắc các chứng bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà,
22
bại liệt, sởi… Kết hợp y học truyển thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều mặt
hàng thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa
bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật Bản…
Đến nay nước ta đã có đội ngũ cán bộ KH- CN hơn 800.000 người trình độ
đại hoc, 8.775 phó tiến sĩ- tiến sĩ, gần 3.000 giáo sư- phó giáo sư, hơn 45.000
cán bộ nghiên cứu triển khai thuộc hơn 300 viện nghiên cứu- trung tâm và hơn
20.000 nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy trong 105 trường đại học,
cao đẳng, hơn 80 cơ sở đào tạo sau đại học. Đây thực sự là một vốn quý cho sự
nghiệp CNH, HĐH, được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau .
2. Hạn chế
Đầu tư cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp
Việt Nam chưa có chính sách khoa học dông nghệ nhất quán thể hiện
bằng hệ thống pháp luật như các quốc gia khác. Thời gian qua Đảng và Nhà
nước đã có nhiều cố gắng tạo nguồn tài chính để đầu tư cho khoa học và công
nghệ nhưng chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển. Theo số liệu thống kê từ
năm 1965 đến nay, mức đầu tư tài chính từ ngân sách nhà nước dành cho hoạt
đông nghiên cứu và triển khai chiếm từ 0,2% đến 0,82% thu nhập quốc dân.
Trong 10 năm đổi mới, nước ta đạt được những thành tựu kinh tế đáng mừng,
tổng kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được nâng lên dần, nhưng do
giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị thực tế của vốn đầu tư không tăng. Theo số
liệu của Bộ KH- CN và môi trường thì đầu tư tài chính cho kha học công nghệ
chưa vượt quá 1% ngân sách tiêu dùng hằng năm. Chi phí bình quân hằng năm
cho một cán bộ khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước khoảng 1.000 USD,
rất thấp so với mức bình quân của thế giới hiện là 55.324 USD và kếm các nước
trong khu vực châu Á . Mức đầu tư thấp nhưng lại phân tán và không ít trường
hợp sử dụng lãng phí. Tuy Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, nghị
quyết sáng suốt, nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ và coi trọng nó
không kém gì các quốc gia khác trên thế giới, nhưng mức đầu tư cho khoa học
vẫn rất thấp. Có 2 khả năng lý giải tình hình trên. Thứ nhất, nếu huy động gấp
23
đôi vốn cho nghiên cứu khoa học và công nghệ thì việc nghiên cứu khoa học có
mang lại hiệu quả thiết thực hay không trong khi trình độ quản lý khoa học hiện
tại còn yếu kém. Thứ hai, ngân sách nhà nước trong nhiều năm thâm hụt, phải
bảo đảm chi cho nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu tư kinh phí cho
khoa học nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của người lãnh đạo và các cơ
quan quản lý của Nhà nước. Rốt cục quy định trong các văn bản và chỉ thị của
Đảng dành 2% ngân sách hằng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ vẫn
không thực hiện được.
Với mức đầu tư như vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu,
phòng thí nghiệm và cụng cụ thí nghiệm thiếu… cơ quan khoa học và công nghệ
chỉ có thể hoạt động cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà
không thể tạo ra được thành quả khoa học có tầm chiến lược. Nếu không có các
chính sách điều chỉnh, các cơ quan nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ rơi vào
tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ cán bộ nghiên cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những
công việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết.
Lực lượng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu
Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ chủ yếu thuộc trung
ương cho thấy : trong số 22.313 cán bộ công nhân viên thì số người có trình độ
trên đại học là 2.509 người, cao đẳng và đại học 11.447 người và dưới cao đẳng
là 8.357
Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ chỉ có 15,1% là nữ,
cũng trong số các cán bộ có trình độ học vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các chức
vụ lãnh đạo.
So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành còn thiếu lực lượng lao động có
trình độ khoa học- kỹ thuật. Trước tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn đầu tư
nước ngoài, công ty tư nhân đã thu hút số lượng đáng kể lao động có trình độ
chuyên môn cao từ các cơ quan khoa học công nghệ của nhà nước. Ở tất cả các
đối tượng lao động, số trường hợp ra đi nhiều hơn số trường hợp đến, đặc biệt
với số cán bộ khoa học có học vị cao, số ra đi vượt hẳn số đến.
24
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình
quân chung là 57,2 tuổi trong đó giáo sư là 59,5 tuổi và phó giáp sư là 56,4 tuổi.
Số cán bộ cán học vị, học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ
56 trở lên là 65,7%, riêng giáo sư chiếm tới 77,4% và phó giáo sư chiếm 62%.
Khi phân chia theo lứa tuổi các cán bộ khoa học công nghệ có học hàm thì phần
đông giáo sư có tuổi trên 60 và phó giáo sư có tuổi từ 56 đến 60. Khi một bộ
phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không có khả năng làm
việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị bồi dưỡng đào tạo.
Hẫng hụt đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tương
lai rất gần.
Sự phân bố lực lượng lao động khoa học không hợp lý
Có thể nói sự phân bố lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành, các
khu vực giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho
quá trình phát triển, càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các
vùng, các ngành.
Một điều mà nhiều người nhìn thấy rất rõ là trong nhiều năm, đặc biệt sau
khi chuyển sang kinh tế thị trường thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và
dường như đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả của nó
sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm trọng. Khoa học công nghệ là
một hệ thống, cũng như một nền kinh tế nếu không có hạ tầng cơ sở tốt thì
không thể phát triển được. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những ngành ứng
dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ đưa khoa học đến chỗ
bế tắc và không có đủ năng lực tiếp thu làm chủ các lĩnh vực khoa học công
nghệ mới.
Những bất cập giữa KH- CN và hoạt động kinh tế ở VN
Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động
kinh tế là cơ sở quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của một quốc gia. Tuy
nhiên, ở VN hiện nay giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế
lại bộc lộ những bất cập rõ rệt