TIỂU LUẬN:
Thực trạng và phương hướng phát
triển Kinh tế thị trường ở Việt Nam
Lời mở đầu
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình đều là sản
phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Song hiện nay,
mô hình kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế phổ biến và có hiệu quả nhất trong việc
phát triển kinh tế của hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Mô hình này không chỉ được
áp dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà còn được áp dụng ở các nước đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa. Nó được vận dụng ở các nước phát triển và cả ở các nước đang phát triển.
Việt Nam cũng mới sử dụng mô hình kinh tế này được khoảng hơn 15 năm nay. Đã có rất
nhiều thành tựu mà chúng ta đạt được nhưng như có những khó khăn, những vấn đề gặp
phải cần được giải quyết trong quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới cũng không
ít. Và Điều này rất đáng được chúng ta quan tâm.
Đó cũng là lí do khiến em muốn chọn đề tài “Thực trạng và phương hướng phát triển
KTTT ở Việt Nam” để nghiên cứu và làm tiểu luận với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về thực
trạng KTTT ở nước ta hiện nay và qua đó đưa ra được phương hướng phát triển phù hợp
cho nền kinh tế nước nhà.
do hiểu hiết còn hạn chế và thời gian nghiên cứu đề tài có hạn nên bài tiểu luận kinh tế
chính trị này của em chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Ví thế em rất mong
nhận được sự góp ý của thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin cảm ơn thầy giáo ….. và hệ thống thông tin thư viện trường Đại học
kinh tế quốc dân đã giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.
nội dung
i. Lý luận chung về kttt
1. Khái niệm về KTTT
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá trong đó từ sản
xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường. Nói một cách khác kinh tế thị trường phát triển
trong đó mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá .
Ưu thế và hạn chế của kinh tế thị trường .
* Ưu thế .
Thúcđẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho phân công lao động phát
triển, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, hình thành các mối quan hệ kinh tế và sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất tạo tiền đề cho sự hợp tác lao
động phát triển .
Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất .
* Hạn chế của kinh tế thị trường .
Kinh tế thị trường có những khuyết tật như tình trạng khủng hoảng , thất nghiệp bất bình
đẳng , huỷ hoại môi trường ….
2. Các quy luật của kinh tế thị trường
2.1. Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. ở đâu có sản xuất và trao
đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật chi phối cơ chế thị trường và chi phối các quy luật kinh tế khác,
các quy luật kinh tế khác là biểu hiện yêu cầu của quy luật giá trị mà thôi
Quy luật giá trị quyết định giá cả hàng hoá, dịch vụ, mà giá cả là tín hiệu nhạy bén nhất của
cơ chế thị trường
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở
của việc hao phí lao động xã hội cần thiết:
Trong sản xuất nó đòi hỏi người sản xuất
luôn luôn có ý thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao
phí lao động xã hội cần thiết
Trong lĩnh vực sản xuất :Đối với việc sản xuất một thứ hàng hóa riêng biệt thì yêu cầu của
quy luật giá trị được biểu hiện ở chỗ: hàng hoá của người sản xuất muốn bán được trên thị
trường, muốn được xã hội thừa nhận thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt phải phù hợp
với thời gian lao động xã hội cần thiết. Đối với một loại hàng hoá thì yêu cầu quy luật giá trị
thể hiện là tổng giá trị của hàng hóa phải phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của
xã hội
Trong lĩnh vực trao đổi : Việc trao đổi phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá. Quy luật
giá trị biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua sự vận động của giá cả xung quanh giá trị.
Giá cả phụ thuộc vào giá trị, giá trị là cơ sở của giá cả, những hàng hoá có hao phí lao động
lớn thì giá trị của nó lớn dẫn đến giá cả cao và ngược lại. Đối với mỗi hàng hoá thì giá cả
hàng hoá có thể bằng hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá trị nhưng đối với toàn bộ hàng hóa của
xã hội thì chúng ta luôn luôn có tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị
Tác dụng của quy luật giá trị: quy luật giá trị tự phát điều tiết việc sản xuất và lưu thông
hàng hóa thông qua sự biến động của cung – cầu thể hiện qua giá cả trên thị trường
2.2. Quy luật cung cầu
Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hoá được sản xuất và đưa ra thị trường để thực
hiện (để bán). cung do sản xuất quyết định, nó không đồng nhất với sản xuất
Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã hội. Do đó, cầu không đồng
nhất với tiêu dùng, vì nó không phải là nhu cầu tự nhiên, nhu cầu bất kì theo nguyện vọng
tiêu dùng chủ quan của con người, mà phụ thuộc vào khả năng thanh toán
Cung – Cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau trên thị
trường, ở đâu có thị trường thì ở đó có quy luật cung – cầu tồn tại và hoạt động một cách
khách quan. Cung – cầu tác động lẫn nhau:
Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, chất lượng và
chủng loại cung về hàng hoá. những hàng hoá nào được tiêu thụ thì mới được tái sản xuất.
Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng,
chủng loại hàng hoá, hình thức, quy cách và giá cả của nó
Cung – cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Đây là sự tác động phức tạp
theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau
Quy luật cung – cầu tác động khách quan và rất quan trọng. Nếu nhận thức được chúng thì
chúng ta vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều hướng có lợi
cho quá trình tái sản xuất xã hội. Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung – cầu thông qua
các chính sách, các biện pháp kinh tế như: giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế,
thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng. Để tác động vào các hoạt động kinh tế theo quy luật cung –
cầu, duy trì những tỷ lệ cân đối cung – cầu một cách lành mạnh và hợp lý
2.3. Quy luật canh tranh
Cạnh tranh là sự tác động lẫn nhau giữa các nhóm người, giữa người mua và người bán hay
giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Hai nhóm này tác động lẫn nhau với tư cách là một
thể thống nhất, một hợp lực. ở đây cá nhân chỉ tác động với tư cách là một bộ phận, một lực
lượng xã hội, là một nguyên tử của một khối. Chính dưới hình thái đó mà cạnh tranh đã
vạch rõ cái tính chất xã hội của sản xuất và tiêu dùng
Bên canh tranh yếu hơn cả cũng đồng thời là cái bên mà ở đó mỗi cá nhân đều hoạt động
một cách độc lập với đông đảo những người cạnh tranh với mình và thường thường là trực
tiếp chống lại những người đó. Chính vì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa một người cạnh tranh
cá biệt với những người khác lại càng thêm rõ ràng. Trái lại bên mạnh hơn bao giờ cũng
đương đầu với đối phương với tư cách là một chỉnh thể ít nhiều thống nhất
Người mua làm cho giá thị trường càng thấp, càng tốt. Mỗi người chỉ quan tâm đến đồng
nghiệp trong chừng mực thấy đi với họ có lợi hơn việc chống lại họ
Khi một bên yếu hơn bên kia thì hành động chung sẽ chấm dứt, mỗi người sẽ tự lực xoay sở
lấy. Nếu một bên chiếm ưu thế thì mỗi người bên đó đều sẽ được lợi, tất cả diễn ra như là họ
cùng nhau thực hiện độc quyền chung vậy
Cạnh tranh như một tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh có tác dụng san bằng các
giá cả mấp mô để có giá cả trung bình, giá trị thị trường và giá cả sản xuất đều hình thành từ
cạnh tranh trong nội bộ ngành và giữa các ngành
Tóm lại: Trong cơ chế thị trường, quy luật cạnh tranh như một công cụ, phương tiện gây áp
lực cực mạnh thực hiện yêu cầu của quy luật giá trị, cạnh tranh trong một cơ chế vận động
chứ không phải cạnh tranh nói chung
2.4. Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định lượng tiền cần cho lưu thông. Lượng tiền cần
cho lưu thông chính bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hoá với tốc độ lưu thông tư bản
Trong thực tế: lượng tiền cần cho lưu thông bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hóa trừ đi tổng
tiền khấu trừ, trừ đi tổng giá cả bán chịu cộng với tổng tiền thanh toán với tốc độ lưu thông
tư bản
Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau:
Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá quyết định
Tiền đại diện cho người mua, hàng đại diện cho người bán. Lưu thông tiền tệ có quan hệ
chặt chẽ với tiền – hàng, mua – bán, giá cả – tiền tệ
Kinh tế hàng hoá trên một ý nghĩa nhất định có thể gọi là kinh tế tiền tệ, quyết định cơ chế
lưu thông tiền tệ
Mặt khác cơ chế lưu thông tiền tệ còn phụ thuộc vào cơ chế xuất nhập khẩu, cơ chế quản lý
kim loại quý, cơ chế kinh doanh tiền của ngân hàng
Nếu quy luật canh tranh, quy luật cung – cầu làm giá hàng hoá vận động, san bằng thì quy
luật lưu thông tiền tệ giữa mối liên hệ cân bằng giữa hàng và tiền
Ngoài ra còn một số loại quy luật khác như: quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm,
quy luật khủng hoảng kinh tế , quy luật tâm lý… cũng ảnh hưởng đến cơ chế thị trường
3. Các bước phát triển kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường phát triển qua 3 bước: Từ kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá giản
đơn; từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường tự do; từ kinh tế thị trường tự do
sang kinh tế hỗn hợp.
3.1. Từ kinh tế tự nhiên phát triển sang kinh tế hàng hoá giản đơn.
Trong nền kinh tế tự nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị
kinh tế thuần nhất hợp thành(các gia đình nông dân gia trưởng, các công xã nông nông thôn,
các lãnh địa phong kiến) và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm đủ mọi công việc đẻ tạo ra sản phẩm
cuối cùng.
Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu; nông nghiệp là ngành
sản xuất cơ bản, công cụ kỹ thuật canh tác lạc hậu dựa vào chân tay là chủ yếu chỉ có một số
trang trại của địa chủ hoặc phường hội mới có hiệp tác lao động giản đơn. Đây chính là mô
hình kinh tế đóng kín, không có sự giao lưu sản phẩm với bên ngoài, nó tồn tại suốt một thời
kỳ dài cho đến chế độ phong kiến.
Bước đi chủ yếu của sản xuất tự cung, tự cấp là tiến lên sản xuất hàng hoá giản đơn. Điều
kiện cho quá trình chuyển hoá này là sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Phân công xã hội là
cơ sở của kinh tế hàng hoá.
Những người sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều kiện tự nhiên khác nhau, có
khả năng và ưu thế trong sản xuất ra những sản phẩm khác nhau đạt hiệu quả cao hơn. Ngay
trong một vùng, một địa phương những người sản xuất cũng có những khả năng, điều kiện
và kinh nghiệm sản xuất khác nhau. Mỗi người chỉ tập trung sản xuất những sản phẩm nào
mà mình có ưu thế, đem sản phẩm của mình trao đổi lấy những sản phẩm cần thiết cho sản
xuất và đời sống của mình, họ trở thành những người sản xuất hàng hoá cùng trao đổi mua
bán hàng hoá với nhau, trên cơ sở đó thị trường, tiền tệ cũng ra đời và phát triển.
Sản xuất hàng hoá ra đời lúc đầu dưới hình thức sản xuất nhỏ, giản đơn nhưng là một bước
tiến trong lịch sử phát triển xã hội. Sản xuất hàng hoá giản đơn là sản xuất dựa trên chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất trong điều kiện kỹ thuật thủ công lạc hậu. Khi trình độ lực lượng
sản xuất phát triển cao hơn, sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển sang sản xuất hàng hoá quy
mô lớn hơn. Quá trình đó diễn ra trong thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến lên xã hội tư
bản.
3.2.Từ kinh tế hàng hoá giản đơn lên kinh tế thị trường tự do.
Nền kinh tế thị trường tự do ra đời từ từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn nhưng có những đặc
điểm cơ bản khác với nền kinh tế hàng hoá giản đơn. ở đây người sản xuất trực tiếp là công
nhân làm thuê, không phải là người sở hữu tư liệu sản xuất mà tư liệu sản xuất là của nhà tư
bản. Sản phẩm lao động do những công nhân làm ra thuộc về nhà tư bản.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tác động của qui luật giá trị dẫn tới sự phát triển tự
phát của lực lượng sản xuất. Do tác động tự phát đó, do sự biến động của giá cả, cạnh tranh
đã làm phân hoá những người sản xuất hàng hoá và trong giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định làm nảy sinh chủ nghĩa tư bản. Kinh tế hàng hoá giản đơn đẻ ra chủ nghĩa tư bản, sản
xuất hàng hoá trong thời kỳ này cạnh tranh gay gắt. Trong điều kiện sản xuất qui mô lớn,
các nguồn lực tự nhiên ngày càng khan khiếm buộc người sản xuất phải không ngừng cải
tiến đổi mơí kỹ thuật, công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, sử
dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất. Đây là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nền sản xuất
hàng hoá.
3.3.Từ kinh tế thị trường tự do sang kinh tế hỗn hợp
Xuất phát của quan điểm “kinh tế hỗn hợp” có từ cuối những năm của thế kỷ XIX. Sau khi
thời kỳ chiến tranh, nó được các nhà kinh tế học Mỹ, như A.Hasen, tiếp tục nghiên cứu. Tư
tưởng này được phát triển trong “kinh tế học” của P.A.Samuelson.
Nếu các nhà kinh tế học Cổ điển và Cổ điển mới say sưa với “bàn tay vô hình” và “cân
bằng tổng quát”, trường phái Keynes và Keynes mới say sưa với “bàn tay nhà nước”, thì
P.A.Samuelson chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay”, là cơ chế thị
trường và nhà nước. Ông cho rằng diều hành một nền kinh tế không có chính phủ hoặc thị
trường thì cũng như vỗ tay bằng một bàn tay”.
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó, cá nhân người tiêu dùng và các
nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ
chức kinh tế là: cái gì? Như thế nào? Và cho ai? Cơ chế thị trường “không phải là một sự
hỗn hợp mà là trật tự kinh tế”. Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp
một cách không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị trường. Nó
là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác
nhau, không có bộ não trung tâm, nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay
không thể giải nổi. Không ai thiết kế ra nó. Nó tự nhiên, và cũng như xã hội loài người, nó
đang thay đổi.
Thị trường là một quá trình mà trong đó, người bán một thứ hàng hoá tác động qua lại lẫn
nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá. Như vậy, nói đến thị trường và cơ chế thị
trường là phải nói tới hành hoá, người bán và người mua, giá cả hàng hoá. Hàng hoá bao
gồm tiêu dùng, dịch vụ và yếu tố sản xuất như lao động, đất đai, tư bản. Từ đó hình thành
nên thị trường hàng tiêu dùng và thị trường các yếu tố sản xuất. Trong hệ thống thị trường,
mỗi hàng hoá, mỗi loại dịch vụ đều có giá cả của nó. Giá cả mang lại thu nhập cho hàng hoá
mang đi bán. Và mỗi người lại dùng thu nhập đó để mua hàng mình cần. Nếu một loại hàng
hoá nào đó có nhiều người mua, thì người bán sẽ tăng giá lên để phân phối một lượng cung
hạn chế. Giá lên cao sẽ thúc đẩy người sản xuất làm ra nhiều hàng hoá hơn. Khi có nhiều
hàng hoá, người bán muốn mua nhanh để giải quyết hàng của mình nên hạ giá xuống. Khi
hạ giá, số người mua hàng đó tăng lên. Do đó, người bán lại tăng giá lên. Như vậy, trong cơ
chế thị trường có một hệ thống tự tạo ra sự cân đối giữa giá cả và sản xuất. “Giá cả là
phương tiện tín hiệu của xã hội”. Nó chỉ cho người sản xuất biết sản xuất cái gì và như thế
nào và cũng thông qua đó thực hiện phân phối cho ai.
Nói đến cơ chế thị trường là ta phải nói đến cung – cầu hàng hoá, đó là sự khái quát của hai
lực lượng người bán và người mua trên thị trường. Sự biến động của giá cả đã làm cho trạng
thái cân bằng cung – cầu thường xuyên biến đổi và đó cũng chính là nội dung của quy luật
cung – cầu hàng hoá.
Nền kinh tế thị trường chịu sự điều khiển của hai ông vua: Người tiêu dùng và kỹ thuật.
Người tiêu dùng thống trị thị trường, vì họ là người bỏ tiền ra để mua hàng hoá do doanh
nghiệp sản xuất. Song, kỹ thuật hạn chế người tiêu dùng vì nền sản xuất bằng tiền của người
mua, không thể quyết định vấn đề phải sản xuất hàng gì. Như vậy, nhu cầu phải chịu theo
cung ứng của người kinh doanh. Vì người sản xuất phải định giá hàng của mình theo chi phí
sản xuất. Nên họ sẵn sàng chuyển sang lĩnh vực nhiều lợi nhuận hơn. Như vậy thị trường
chịu sự chi phối của cả chi phí kinh doanh, lẫn các quyết định cung-cầu của người tiêu dùng
quy định. ở đây, thị trường đóng vai trò môi giới trung gian hoà giải sở thích người tiêu
dùng và hạn chế kỹ thuật.
Cũng trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động của người kinh
doanh. Lợi nhuận đưa các nhà doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất hàng hoá mà người
tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ qua các khu vực ít có người tiêu dùng. Lợi nhuận đưa các nhà
doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất hiệu quả nhất. Như vậy, hệ thống thị
trường luôn phải là một hệ thống hỗn hợp để giải quyết tốt nhất ba vấn đề có bản của nền
kinh tế.
ii. thực trạng của nền KTTT ở nước ta hiện nay
1.Thành tựu đạt được.
Gần 20 năm bước vào công cuộc đổi mới nền kinh tế đang được cấu trúc lại, hình
thành các hình thức sở hữu và kinh doanh đa dạng, năng động hơn nhiều so với trước. Các
đơn vị kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là chủ thể của thị trường, có quyền độc lập
tự chủ kinh doanh, tự chịu lãi lỗ.
Kinh tế thoát khỏi khủng hoảng triền miên hàng chục năm và bước đầu thời kì phát
triển toàn diện và tăng trưởng liên tục. Tốc độ tăng GDP bìng quân 1 năm của thời kì 1996-
2000 đạt 7% so với 3,9% thời kì 1986-1990. Lạm phát giảm từ 374,6%năm 1986 xuống
còn 67,4%năm 1990; 12,7% năm 1995; 0,1% năm 1999; và 0% năm 2000. Sản xuất công
nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ trên 2 con số. Bình quân thời kì 1991-1995 tăng
13,7%, thời kì 1996-2000 trên 13,2%. Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công
nghiệp như điện, than, vải, thép, xi măng…,tăng nhanh trong những năm đổi mới, đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân và xuất khẩu. Riêng ngành công nghiệp
khai thác dầu khí, xuất hiện trong thời kì đổi mới với sản lượng 40 ngàn tấn dầu thô năm
1986 đã tăng lên 15 triệu tấn năm 2000 với giá trị xuất khẩu 3,3 tỉ USD. Không chỉ tăng
trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối thế kỉ XX đã xuất hiện xu hướng đa
ngành, đa sản phẩm và đa thành phần, trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ
đạo
Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừngvà thuỷ sản.
Thành tựu nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc an toàn lương thực quốc gia, biến Việt
Nam tự nước thiếu lương thực trước năm 1986 thành nước xuất khẩu thư 2 thế giới. Tính
chung 12 năm qua đã xuất 30,5 triệu tấn gạo, bình quân 2,54 triệu tấn/năm nhưng giá cả
lương thực trong nước vẫn ổn định, kể cả nhũng năm thiên tai lớn như 1999, 2000. Năm
2000sản lượng cà phê xuất khẩu đã đạt 660 nghìn tấn, gấp 2,7 lần năm 1995 và đứng thứ 2
thế giới sau Bra-xin. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,4 tỉUSD, gấp 2,5 lần năm 1995. Hàng
thuỷ sản Việt Nam hiện đã được công nhận trong danh sách nhóm I của các nước xuất khẩu
thuỷ sản vào thị trường EU. Hoạt động đầu tư nước ngoài bắt đầu từ năm 1988 với 37 dự án
và 371 triệu USD, đén nay cả nước có hơn 3000 dư án với hơn 700 doanh nghiệp thuộc 62
nước và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăngkí trên 36 tỉ USD, vốn thực hiện 17 tỉ USD. Khu
vực này đã nộp ngân sách hơn 1,52 tỉ USD, tạo ra hơn 21,6 tỉ USD hàng hoá xuất nhập
khẩu và giải quyết việc làm cho 32 vạn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp.
Cùng với đó đời sống nhân dân được nâng lên cả về vật chất và tinh thần. Thu nhập của dân
cư tăng bình quân 10% trong 15 năm đổi mới. Bộ mặt đất nước thay đỏi ngày càng văn
minh, hiện đại.
2. Những tồn tại khó khăn
Thị trường nước ta hình thành chưa đồng bộ hoàn thiện còn nhiều bất cập. Thị trường
chứng khoán còn mới phôi thai, qua hơn một năm hoạt động với hàng hoá quá nghèo nàn,
có lẽ còn lâu mới trở thành phong vũ biểu cho nền kinh tế như ở các nước phát triển. Thị
trường bất động sản, thị trường lao động và nhiều thị trường khác chưa phát triển. Sự cạnh
tranh trên thị trường còn nhiều yếu tố bất bình đẳng. Vì vậy, sự phân phối và sử dụng
nguồn lực như đất đai, lao động, nguồn vốn còn kém hiệu quả.
Sự tăng trưởng của nền kinh tế chưa thật ổn định và vững chắc. Sự tăng trưởng này chủ
yếu theo đầu tư vốn và lao động.Chưa tạo lập được một hệ thống thị trường đầy đủ theo yêu
cầu của cơ chế thị trường, thị trường hàng hoá và dịch vụ tuy có hoạt động sôi nổi nhưng
chỉ tập trung ở thành phố, đô thị lớn và một số tỉnh biên giới, về cơ bản là tự phát, lộn xộn
rất không bình thường, thị trương nông thôn không được quan trọng. măt khác nó cũng
chưa với tới bàn tay vô hình tới những vùng miền núi, trung du – nơi có tiềm năng lớn về
tài nguyên khoáng sản. Trong khu vực kinh tế nhà nước, thị trường lao động chỉ tồn tại ở
trình độ thấp, còn có 1/3 trong số hơn 6000 doanh nghiệp nhà nước làm ăn chưa có lãi hoặc
thua lỗ.Tình trạng kinh doanh phi pháp rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng, buôn lậu, làm
hàng giả ngày càng gia tăng phá hoại sản xuất nội địa gây thiệt hại cho lợi ích người tiêu
dùng và gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Trình độ lực lượng sản xuất ngày càng thấp
kém có nguy cơ tụt hậu so với nhiều nước. Mặt khác kết cấu hạ tầng trong kinh tế còn quá
kém, việc phát triển nguồn lực con người nhăm tạo ra lực lượng lao động có kĩ thuật, năng
suất-cơ sở quan trọng nhất cho sự cất cánh của nền kinh tế còn quá hạn hẹp. Sự phân hoá
giàu nghèo trong xã hội đang diễn ra khá nhanh và có xu hướng ngày càng gia tăng.
ii. phương hướng phát triển
Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện chuyển đổi
nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải chấp
nhận những qui luật của nền kinh tế thị trường trong đó có qui luật cạnh tranh. Việt Nam đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh những
thành tựu đó nền kinh tế nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách thức to lớn. Một
trong những khó khăn thách thức đó là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn yếu
kém dân đến tình trạng độc quyền là rất phổ biến.
Các giải pháp duy trì cạnh tranh và chống độc quyền.
Từ thực trạng độc quyền ở Việt Nam ta thấy rằng: còn nhiều tồn tại cần tháo gỡ.
Từ thực trạng cho thấy cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có nhiều tồn tại, nguyên nhân của các tồn tại đó là do:
– Hệ thống những quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến cạnh trạnh và
độc quyền chưa hoàn chỉnh, ý thức chấp hành pháp luật của mọi người và của các doanh
nghiệp chưa nghiêm minh, nên những hành vi cạnh tranh không hợp thức còn tồn tại khá
phổ biến.
– Quan điểm về vai trò của cạnh tranh và độc quyền chưa nhất quán nên nội dung một số
quy định pháp lý liên quan đến môi trường cạnh tranh còn mâu thuẫn với nhau.
– Thủ tục hành chính chưa được cải thiện, đơn giản hoá kịp thời nên còn gây nhiều phiền hà
cho các nhà đầu tư và cũng tạo ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh, làm tăng chi phí giao
dịch, giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở trong nước so với các nước khác.
– Hệ thống thông tin còn yếu kém, chưa kịp thời cân xứng thiếu minh bạch đã gây ra sự bất
bình đẳng trong các cơ hội kinh doanh, ảnh hưởng không tốt đến môi trường cạnh tranh.
– Quá trình cải cách hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra còn chậm. Còn nhiều
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không có hiệu quả nhưng vẫn bao cấp, duy trì, bảo hộ…
Trong thời gian tới trước yêu cầu duy trì phát triển kinh tế với nhịp độ cao và của quá trình
hội nhập thì việc cải thiện môi trường cạnh tranh là yêu cầu cấp bách để tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, thực hiện quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong điều kiện tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế thế giới. Để duy
trì cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền chúng ta cần phải thực hiện một số biện
pháp sau:
Thứ nhất: tiếp tục đổi mới nhận thức về cạnh tranh, phải thống nhất quan điểm đánh giá vai
trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Phải coi cạnh tranh trong nền kinh tế pháp luật hợp
thức là động lực của sự phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Xác định một cách rõ ràng và hợp lý vai trò của Nhà nước cũng như vai trò chủ đạo của các
doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế, hạn chế bớt những doanh nghiệp Nhà nước độc
quyền kinh doanh. Thúc đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, đẩy nhanh
quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước cần
phải được giảm dần, các rào cản đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cần
được tháo gỡ dần nhằm giảm giá thành sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh chung của toàn bộ
nền kinh tế, tăng tính hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài, đồng thời giảm gánh nặng cho
ngân sách quốc gia.
Việc đổi mới nhận thức cần được thể hiện trong toàn bộ hệ thống quản lý Nhà nước, trong
các chương trình và chiến lược cải cách hành chính, trong tổ chức, phong cách làm việc
hành vi ứng xử của các cơ quan công quyền.
Muốn như vậy thì trước tiên cần phải đưa nội dung về cạnh tranh và độc quyền vào chương
trình giáo dục của các trường đại học thuộc khối kinh tế và kinh doanh. Để có được đội ngũ
cán bộ, các nhà kinh tế sau khi ra trường có một tầm hiểu biết về cạnh tranh và độc quyền.
Đào tạo các khoá ngắn hạn cho các doanh nghiệp và công chức Nhà nước để nâng cao, trau
dồi kiến thức về cạnh tranh và độc quyền. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng
tuyên truyền về cạnh tranh và độc quyền. Để từ đó có một chính sách cạnh tranh phù hợp và
việc thực hiện các chính sách cạnh tranh này dễ dàng hơn.
Thứ hai: cải tổ pháp luật về cạnh tranh để cho cơ chế cạnh tranh được vận hành một cách
trôi chảy, hạn chế những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Nới lỏng các
điều kiện ra nhập và rút lui khỏi thị trường để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia sản
xuất kinh doanh. Như vậy việc hình thành nên khung pháp lý chung cho các loại hình kinh
doanh thuộc các khu vực kinh tế khác nhau là điều cần thiết. Việc cải tổ pháp luật về cạnh
tranh cần phải sửa đổi từ quy trình ban hành pháp luật:
Xây dựng luật: để đảm bảo tính chất khách quan về lâu dài cần chuyển việc dự thảo luật từ
cơ quan lập pháp sang cho cơ quan hành pháp. Trước mắt, việc soạn thảo luật cần được tổ
chức một cách dân chủ với sự tham gia của cơ quan có liên quan.
Xây dựng văn bản dưới luật: phải đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh và sự tham gia rộng rãi
của những người chịu ảnh hưởng của quy định.
Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý kinh doanh cần xoá bỏ những quy định hiện
hành không phù hợp với nền kinh tế thị trường, với những cam kết quốc tế nhằm mở rộng
quyền kinh doanh, quyền chủ động cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Bổ xung những luật và văn bản dưới luật còn thiếu, chưa hướng dẫn thi hành. Trong tâm
xem xét là các lĩnh vực pháp luật về cạnh tranh độc quyền. Sửa đổi những điều khoản của
bộ luật dân sự có liên quan đến quan hệ giữa luật Việt Nam và luật nước ngoài.
Để thực hiện được những việc như trên thì trong quá trình sửa đổi luật, bổ sung và ban hành
pháp luật có liên quan đến cạnh tranh và độc quyền thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các
bộ, ngành và chính quyền địa phương với sự tham gia của các doanh nghiệp, các chuyên gia
nghiên cứu kinh tế và người tiêu dùng. Việc tham gia đồng bộ giữa các bên khi ban hành
sửa đổi luật sẽ đưa ra được các quy định phù hợp với tình hình thực tế về cạnh tranh và độc
quyền hơn.
Thứ ba: xây dựng một cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát các hành vi liên quan đến
cạnh tranh và độc quyền. Rà soát lại và hạn chế bớt số lượng các lĩnh vực độc quyền, kiểm
soát giám sát độc quyền chặt chẽ hơn. Nhà nước cần giám sát chặt chẽ hơn các hành vi lạm
dụng của các doanh nghiệp lớn. Cần phải đổi mới chế độ chứng từ, kế toán kiểm toán để tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát tài chính của các doanh nghiệp.
Thứ tư: cải thiện môi trường thông tin và pháp luật theo hướng minh bạch và kịp thời hơn,
đồng thời nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Cụ thể:
– Việc thành lập doanh nghiệp mới: việc quyết định thành lập các doanh nghiệp Nhà nước
cần được chuyển sang cho các cơ quan quyền lực đại biểu của nhân dân. Việc tăng cường
kiểm tra giám sát từ các cơ quan này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động tích
cực và có hiệu quả hơn, tiết kiệm được các nguồn lực của Nhà nước .
Thành lập, bổ sung đầy đủ, chi tiết và cập nhật hàng năm những ngành nghề mà doanh
nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoải không được đăng ký kinh doanh.
Ngoài các mục này các doanh nghiệp được thành lập theo chế độ đăng ký với một cơ quan
đăng ký thống nhất trong quốc gia. Cơ quan đăng ký kinh doanh đồng thời chịu trách nhiệm
cả về việc điều chỉnh nội dung giấy đăng ký kinh doanh và việc mở văn phòng đại diện, chi
nhánh trong nước và nước ngoài theo chế độ doanh nghiệp chủ động đăng ký. Xoá bỏ các
điều kiện cấp phép về nội địa hoá, tỉ lệ xuất khẩu, tự cân đối ngoại tệ.
Các cơ quan cấp phép hiện hành sẽ chuyển chức năng cấp phép, thẩm định sang chức năng
xúc tiến và cung cấp dịch vụ đầu tư.
– Đất đai: chuyển các thủ tục hành chính xin chuyển đổi mục đích và quyền sử dụng về một
cơ quan giải quyết. Điều này sẽ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc cho các doanh nghiệp
khi xin thuê đất quy hoạch và xây dựng khu công nghiệp.
– Về vốn: mở rộng khả năng vay vốn từ các nguồn ưu đãi để đầu tư phát triển khả năng tự
huy động vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp nước ngoài thông qua
các kênh phát hành trái phiếu và chứng khoán.
Trên cơ sở nguyên tắc cạnh tranh, chỉ áp dụng việc giới hạn mua cổ phần của những doanh
nghiệp lớn có khả năng chi phối thị trường, tạo nên độc quyền, còn đối với những người
quản lý, người ngoài doanh nghiệp, người nước ngoài nên khuyến khích để tăng nguồn vốn
của doanh nghiệp, tạo điều kiện đổi mới máy móc, đầu tư trang thiết bị nâng cao năng suất
lao động.
– Về lao động: các loại quy định về thang bảng lương, lương thực tế , trợn cấp, chế độ
thưởng, lương tối thiểu, thuế thu nhập, các hình thức tuyển dụng lao động cần phải có sự
thống nhất dựa trên khung pháp lý chung của Nhà nước và có sự đóng góp ý kiến của công
đoàn.
– Tiếp cận thị trường.
+ Quyền xuất nhập khẩu: mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong nước.
+ Xây dựng và ban hành các thủ tục, điều kiện cấp phép nhập khẩu, có nhiều loại thuế thay
thế hợp lý tương đương đối với các mặt hàng để khi thực hiện không gây các cản trở cho
việc trao đổi hàng hoá, thương mại.
+ Ban hành danh mục cấp và xuất nhập khẩu có điều kiện, ngoài những mặt hàng này nên
khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường hoạt động trao đổi thương mại làm tăng luồng
chu chuyển hàng hoá trong và ngoài nước.
Hạn ngạch là biện pháp hạn chế thương mại cần xoá bỏ. Việc xoá bỏ hạn ngạch cần được
giải quyết cùng với việc chỉ định đầu mối, bán ngoại tệ và Nhà nước quy định giá. Việc
phân bổ hạn ngạch cần phải dựa vào những mặt hàng cụ thể, thay thế chế độ giá tính thuế tối
thiểu bằng giá ghi trên hợp đồng, xoá bỏ chế độ phụ thu.
Triển khai cải cách các thủ tục hải quan theo hướng đơn giản hoá và phù hợp với tiêu chuẩn
quốc tế, thống nhất thủ tục trong cả nước.
– Về thuế quan: miễn giảm thuế tối đa đối với mọi mặt hàng xuất khẩu, kể cả hàng hoá và
dịch vụ xuất khẩu tại chỗ.
Về thuế nhập khẩu: xoá bỏ cách đánh thuế đựa trên mục đích sử dụng, giảm số thuế và mức
thuế. giảm thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản
xuất trong nước tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
– Về chuyển giao công nghệ: cần tăng ngân sách cho các ngành nghiên cứu khoa học công
nghệ, có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ làm nghiên cứu khoa học, trọng dụng
nhân tài, được cung cấp phổ biến thông tin, phát biểu ý kiến khách quan dưới góc độ nghiên
cứu khoa học. Hạn chế việc chảy máu chất xám, khuyến khích thu hút các nhà khoa học
nước ngoài vào trong nước nghiên cứu khoa học.
Khuyến khích tư nhân đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ sản xuất.
Sửa đổi chế độ hoạch toán, kế toán nhằm khuyến khích khấu hao nhanh để đổi mới công
nghệ, phát triển thành lập các trung tâm nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với
việc chuyển giao công nghệ. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất
lượng phù hợp với quốc tế, sử dụng kinh nghiệm quản lý của quốc tế để áp dụng cho các
doanh nghiệp.
Đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh, cấp phép lao động, thuê chuyên gia nước ngoài và
người Việt Nam ở nước ngoài làm việc cho các tổ chức, cơ quan Việt Nam.
– Giảm chi phí đầu vào:
Cải tiến thủ tục và trình tự thu thuế, hạn chế tình trạng thu thuế ngoài thẩm quyền của các
bộ ngành và địa phương.
Giảm mức thuế, bao gồm thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thu nhập cá nhân thu nhập
doanh nghiệp, tương đương với các nước trong khu vực. Xem xét lại mức đóng góp bảo
hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và công đoàn phí. Từ đó giảm chi phí đầu vào cho các doanh
nghiệp.
Thứ năm: cơ cấu lại và kiểm soát độc quyền kể cả độc quyền tự nhiên.
Cần xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh, chỉ duy trì độc quyền ở một số ngành quan trọng
phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế như: sản xuất và truyền tải điện năng, khai thác dầu
khí, bưu chính viễn thông, xây dựng cơ sở hạ tầng… kiểm soát chặt chẽ các doanh nghiệp
độc quyền thuộc Nhà nước.
Việc xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh có thể thực hiện theo hai hướng
.
Hướng thứ nhất: cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh bằng cách xây dựng
điều kiện cấp phép cho các loại hình dịch vụ phù hợp với thời hạn nêu trong cam kết quốc
tế. Cần tạo điều kiện khuyến khích cạnh tranh giữa các doanh nghiệp khi tham gia hoạt
động. Các doanh nghiệp mới có thể đến từ một lĩnh vực kinh doanh khác có liên quan. Các
doanh nghiệp này có thể sử dụng chung cơ sở hạ tầng với doanh nghiệp đang sử dụng hoặc
sẵn có của mình.
Hướng thứ hai: chia tách các doanh nghiệp đang chiếm vị trí chủ đạo trong lĩnh vực thành
các đơn vị nhỏ độc lập, đồng thời chia tách các doanh nghiệp không trực tiếp gắn với cung
cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng khỏi doanh nghiệp chủ đạo. Việc chia tách này cần đảm bảo các
doanh nghiệp độc lập với nhau không phụ thuộc vào nhau hay vào doanh nghiệp chủ đạo.
Như vậy sẽ làm tăng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau mà không bị hạn chế
lĩnh vực và địa bàn kinh doanh.
Trong trường hợp có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh vực thì sự tham gia
trực tiếp của Nhà nước vào sự hoạt động của các doanh nghiệp là không cần thiết. Trường
hợp này Nhà nước chỉ cần ban hành một số quy định hướng dẫn hoạt động và hạn chế cạnh
tranh không lành mạnh vào để cho các doanh nghiệp tự điều chỉnh hoạt động của mình dựa
vào thị trường.
Trường hợp vẫn phải duy trì độc quyền một số ngành chủ đạo thì Nhà nước cần ban hành
những quy định pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các công ty này. Xây dựng các luật
đặc thù cho từng lĩnh vực như: luật viễn thông, luật điện lực… Để kiểm soát độc quyền của
các doanh nghiệp này và tránh tình trạng lạm dụng ưu thế để chi phối thị trường mà vẫn
đảm bảo quyền tự chủ của các doanh nghiệp. Trong các tổng công ty độc quyền cần phải
tách bộ phận xây dựng hoạch định chính sách với bộ phận kiểm tra, giám sát thực hiện
chính sách để có một chính sách kinh doanh có hiệu quả, khách quan.
Thứ sáu: Nhà nước cần phải có luật cạnh tranh với mục đích đảm bảo và duy trì môi trường
cạnh tranh. Nội dung luật cạnh tranh cần được thường xuyên nghiên cứu, thay đổi cho phù
hợp với những biến động của môi trường cạnh tranh trong nước cũng như những yếu tố liên
quan đến nước ngoài.
Thứ bảy: cần thành lập các hiệp hội người tiêu dùng với những hoạt động chủ yếu là cung
cấp thông tin phục vụ người tiêu dùng và kịp thời phát hiện những hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trên thị trường. Các hiệp hội này sẽ là đối trọng của các doanh nghiệp khống chế
thị trường. Kinh nghiệm các nước cho thấy hoạt động bảo vệ lợi ích người tiêu dùng hỗ trợ
rất tốt cho việc duy trì tốt môi trường cạnh tranh lành mạnh. Bảo vệ lợi ích người tiêu dùng
và cạnh tranh là 2 vấn đề liên quan mật thiết đến nhau.
Bảo vệ người tiêu dùng và kinh nghiệm quốc tế: