Tiểu luận
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ ĐẠI ĐOÀN KẾT NGÀY NAY
KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN
PHẦN I:PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN II:NỘI DUNG
1.Nguồn gốc hình thành tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
2.Những phương pháp của Hồ Chí Minh về “Đại đoàn kết dân tộc và vấn đề đoàn kết ngày nay”.
3.Nghiên cứu vấn đề đại đoàn kết dân tộc ngày nay.
4.Nghiên cứu tư tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh ngày nay.Để ngọn lửa yêu nước và đại đoàn kết dân tộc sáng mãi.
PHẦN III:KẾT LUẬN.
PHẦN MỞ ĐẦU
Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản do chính Người sáng lập trong hơn 75 năm đã qua cho phép chúng ta có thể khẳng định rằng: Trong một quốc gia dân tộc, bao giờ cũng có các giai cấp, tầng lớp xã hội, các tộc người, các tôn giáo khác nhau, song bao giờ cũng có lợi ích chung và cao cả của cả dân tộc. Dân tộc Việt Nam dù có nhiều giai cấp xã hội, tộc người và tôn giáo khác nhau, song người Việt Nam đều là con Hồng, cháu Lạc có lịch sử hình thành dân tộc lâu đời, có một cội nguồn văn hóa chung, có chủ nghĩa dân tộc truyền thống vững bền, có lợi ích cao cả là độc lập, tự do.
Trong tác phẩm “Nên học sử ta”, viết vào đầu năm 1942, Bác đã viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào nhân dân ta đoàn kết muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi…”. Ngay từ năm 1941, trong bài “Kính cáo đồng bào”, Bác viết: “Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: toàn dân đoàn kết. Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại. Cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm…”. Cách mạng Tháng Tám là một kết quả rực rỡ của tư tưởng đó
Không chỉ có sĩ, nông, công, thương, binh, mà cả vua quan triều Nguyễn cũng ngả theo cách mạng. Nhờ đó kẻ xâm lược mất đi chỗ dựa ban đầu. Kẻ thù trong nước bị tê liệt. Còn những người có tâm huyết với nước với dân thì được thu phục và tận tụy đến cùng với cách mạng và kháng chiến.
Ngày nay, nước ta không còn những kẻ xâm lược. Nhưng kẻ thù vẫn còn. Một trong những kẻ thù đó là sự nghèo nàn, lạc hậu. Lạc hậu thì sẽ tụt hậu. Tụt hậu thì khó thoát khỏi vòng lệ thuộc. Tất cả những ai có thể góp một phần vào việc chống kẻ thù đó đều nên và có thể có mặt trong hàng ngũ của chúng ta.
Muốn thế, cần ngồi lại với nhau. Bằng thiện chí, bằng tấm lòng chân thật, hãy cùng nhau xem lại một cách sòng phẳng những chỗ hay, chỗ dở, chỗ nào đã khắc phục được rồi, chỗ nào còn phải hoàn thiện tiếp…
Trong tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nét đặc sắc, nổi bật là cách thức, phương pháp mà Người thực hiện để vận động, tập hợp, quy tụ, đoàn kết mọi người. Phương pháp đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn tinh hoa văn hoá ứng xử từ cổ, kim, Đông, Tây với sự đậm đà, sâu sắc truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam. Điều đó hội tụ trong con người Hồ Chí Minh tạo nên phong cách, lối ứng xử đậm chất văn hoá, nhân văn, nhân đạo cách mạng để thu phục, cảm hoá, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
Phương pháp đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh linh động, phát triển, thích ứng với sự vận động, biến đổi của thực tiễn khách quan và phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Có thể khái quát phương pháp đó trên những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tôn trọng, thương yêu, tin tưởng đồng bào; dùng những lời lẽ chân thành giản dị để thuyết phục, cảm hoá quần chúng.
Thứ hai, khoan dung, độ lượng, vị tha, hướng mọi người vào mục đích chung cao cả.
Thứ ba, quan tâm, chăm lo tới những lợi ích thiết thực của nhân dân; chú trọng nêu gương để thực hành đoàn kết.
Tầm quan trọng của Đại đoàn kết thì ai cũng thấy rõ nhưng trong tình hình ngày nay thì đây là một vấn đề rất quan tâm của Đảng và nhà nước ta để chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc.
Chính vì lý do này nên tôi chọn đề tài “Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề Đại đoàn kết dân tộc ngày nay”.
PHẦN II:NỘI DUNG
1.Nguồn gốc hình thành tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
– Việt Nam là một quốc gia dân tộc đã hình thành sớm trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhân dân Việt Nam có ý thức sâu bền về quyền tự chủ quốc gia dân tộc. Quá trình dựng nước và giữ nước đã tạo dựng và phát triển cho dân tộc Việt Nam một nền văn hóa tư tưởng rực rỡ, trong đó chủ nghĩa dân tộc, ý chí độc lập và khát vọng tự do là truyền thống của lịch sử. Đó là nền tảng văn hóa tư tưởng của sự hội tụ và đoàn kết dân tộc, là động lực vĩ đại và duy nhất của nhân dân Việt Nam trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-Độc lập, tự do và tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh là chìa khóa để mở đường hội tụ thắng lợi của chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Để thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, trước hết phải có cương lĩnh đúng đắn phù hợp với thực tiễn của đất nước qua các thời kỳ cách mạng khác nhau. Ngay từ ngày đầu mới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã soạn thảo “Cương lĩnh chính trị” đầu tiên của Đảng, được hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 thông qua, trong đó đã nêu cao khẩu hiệu “Việt Nam độc lập”, Việt Nam tự do và chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, uyển chuyển.
– Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 75 năm qua trước hết là thắng lợi của Cương lĩnh, chiến lược đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, là thắng lợi của tư tưởng cách mạng cao cả và vĩ đại của Hồ Chí Minh – tư tưởng độc lập, tự do.
– Khối quần chúng đông đảo chỉ trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu cao cả, được tổ chức lại thành một khối vững chắc trên cơ sở của Mặt trận dân tộc thống nhất, được hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện trong tiến trình cách mạng.
– Năm 1941, cùng với chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng, Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh giữa lúc nhân dân Việt Nam đang sống quằn quại trong cảnh nước sôi, lửa nóng, lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, ai cũng muốn độc lập, tự do.
-Thành lập Mặt trận Việt Minh là một điển hình sáng tạo của Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước của dân tộc, do dântộcvàvìdântộc.
– Tiếp đến trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc 1945 – 1954, mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục được củng cố và mở rộng. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam đã ra đời, thực hiện sự đoàn kết quốc dân để làm cho nước Việt Nam được độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường. Hội ra đời tạo điều kiện mới để đoàn kết và tranh thủ những ai có thể tranh thủ được nhằm thống nhất lực lượng quốc gia dân tộc, chống chia rẽ.
-Trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, Hồ Chí Minh đã giương cao ngọn cờ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và chiến lược đại đoàn kết dân tộc để đẩy mạnh cuộc cách mạng ở miền Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra đời, kế tục sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc của Mặt trận Liên Việt.
-Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã được thành lập nhằm tạo điều kiện để mở rộng khối đoàn kết dân tộc dưới ngọn cờ của Mặt trận. Đầu năm 1968, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình miền Nam Việt Nam ra đời. Đây là một tổ chức thích hợp để thu hút các tầng lớp trung gian và thượng lưu ở thành thị miền Nam vào khối đại đoàn kết dân tộc chống Mỹ cứu nước.
-Trải qua hơn 20 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thắng lợi hoàn toàn. Non sông đã thu về một mối. Năm 1976, các tổ chức Mặt trận trong cả nước đã được thống nhất lại thành một mặt trận chung lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện sứ mạng đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau xây dựng lại đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, làm cho Việt Nam thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
-Hồ Chí Minh đã thực thi thắng lợi chiến lược đại đoàn kết dân tộc do Đảng Cộng sản là người lãnh đạo duy nhất chính vì Người đã thành công trong việc sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng đạo đức và văn minh, một “Đảng hiện thân cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, một đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam”.
-Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
3.Những phương pháp của Hồ Chí Minh về “Đại đoàn kết dân tộc và vấn đề đoàn kết ngày nay”.
Phương pháp đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh linh động, phát triển, thích ứng với sự vận động, biến đổi của thực tiễn khách quan và phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
Có thể khái quát phương pháp đó trên những nội dung cơ bản sau đây:
a.Thứ nhất, tôn trọng, thương yêu, tin tưởng đồng bào; dùng những lời lẽ chân thành giản dị để thuyết phục, cảm hoá quần chúng.
-Thấm nhuần truyền thống, đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự tôn trọng, thương yêu mọi người. Theo Người cách mạng là việc của toàn thể dân chúng chứ không phải là việc riêng của một hoặc hai người. Song, để cảm hoá, thuyết phục được quần chúng nhân dân đi theo cách mạng thì trước hết phải tin tưởng, tôn trọng, thương yêu nhân dân. Không có lòng thương người, tôn trọng con người thì khó có thể thực hành đại đoàn kết. Khi nói chuyện với đoàn đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang ngày 23/11/1945, Người căn dặn: “Tôi nhờ anh chị em về nói lại với đồng bào trên ấy biết rằng, đồng bào Kinh và Chính phủ rất thương mến đồng bào Mán, Thổ, coi như anh chị em trong một nhà”1. Trong bức thư gửi đồng bào các tỉnh vùng Đông Bắc ngày 20/3/1946, Người bày tỏ sự chân thành: “Tuy hiện nay tôi ở Hà Nội, xa cách với đồng bào nhưng không bao giờ tôi quên các đồng bào. Tôi luôn nhớ đến lòng yêu mến và sự giúp đỡ của các đồng bào trong những tháng ngày tôiởThượngDu”
-Đối với đồng bào theo các tôn giáo, Hồ Chí Minh cũng luôn tôn trọng, tin tưởng và quan tâm chân thành. Trong thư gửi linh mục và đồng bào công giáo Việt Nam ngày 23/12/1945, Người viết: “Cách một nghìn chín trăm bốn mươi nhăm năm trước, cũng ngày hôm nay, một vị thánh nhân là đức chúa Jêsu ra đời. Suốt đời hi sinh phấn đấu cho tự do, cho dân chủ, từ ngày giáng sinh đến nay đã gần 2000 năm, nhưng tinh thần thân ái của Ngài chẳng những không phai nhạt mà toả ra đã khắp, thấm vào đã sâu”
-Cùng với sự tôn trọng,thương yêu nhân dân, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng thực hiện đoàn kết. Với vốn sống, kinh nghiệm thực tiễn phong phú và sự hiểu biết sâu sắc đối tượng cần đoàn kết, Hồ Chí Minh luôn sử dụng những ngôn từ đơn giản, mộc mạc, mang đậm hình ảnh trực quan để tuyên truyền. Trong bài thơ “Hòn đá”, in trên báo “Độc lập” ngày 21/4/1942, Người đã dùng hình ảnh: “Hòn đá to, hòn đá nặng” để ví với nhiệm vụ cách mạng rất nặng nề, gian khổ, ít người tham gia thì không giải quyết được, nhưng nếu “Biết đồng sức, biết đồng lòng” thì “Việc gì khó, làm cũng xong”.. Khi nói chuyện với đồng bào tỉnh Yên Bái, ngày 25/9/1958, Người nói: “Ví dụ, 10 dân tộc ở tỉnh nhà như 10 ngón tay. Nếu xoè 10 ngón tay mà bẻ từng ngón như thế có dễ bẻ không? Nếu nắm chặt cả 10 ngón tay thì có bẻ được không? Nếu kẻ thù nào chia rẽ thì phải làm thế nào? Thì phải đập vào đầu chúng nó. Đó là điểm thứ nhất tại sao phải đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc”4. Sự tôn trọng, thương yêu, tin tưởng đồng bào và nghệ thuật trong cách tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân của Hồ Chí Minh đã quy tụ, cảm hoá, đoàn kết được mọi đối tượng khác nhau đi theo Đảng để làm cách mạng.
b.Thứ hai, khoan dung, độ lượng,vị tha,hướng mọi người vào mục đích chungcaocả.
-Đức khoan dung, sự độ lượng và lòng vị tha là những đức tính, phẩm chất trong con người Hồ Chí Minh và đây cũng là cách để Người thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Theo Hồ Chí Minh làm người phải biết khoan dung, độ lượng bởi “Không ai hoàn toàn tránh khỏi sai lầm”, phải biết chấp nhận và tha thứ những khuyết điểm, sai lầm của người khác. Người quan niệm, trong mỗi người đều có phần thiện và ác, nhưng “cái ác” trong mỗi người cũng không phải là thứ bất biến. Người cho rằng: Một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm. Quá khứ, hiện tại và tương lai của mỗi người không phải luôn giống nhau. Người cũng chỉ rõ những trở ngại, cản trở sự đoàn kết dân tộc là sự nhìn nhận, đánh giá phiến diện, thành kiến với con người, thấy cái tốt ở người thì ít, mà thấy cái xấu, khuyết điểm ở họ thì nhiều. Với tấm lòng bao dung, độ lượng, Người chỉ rõ: “Đối với những người có thói hư, tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp đỡ họ bằng cách làm cho phần thiện trong con người nẩy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”
-Với những người phạm sai lầm, khuyết điểm Hồ Chí minh cũng lấy sự khoan dung, độ lượng để cảm hoá, giáo dục. Người cho rằng: đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Ngay cả với những nguỵ binh, hàng binh, vì lý do nào đó mà lầm đường theo giặc, Hồ Chí Minh cũng rộng lòng tha thứ, khoan hồng. Người chỉ rõ: “Nguỵ binh cũng là con dân nước Việt, nhưng dại mà đi lầm đường, cho nên Tôi và hính phủ sẵn sàng tha thứ những người sớm biết lỗi mà quay về với đại gia đình kháng chiến”.
– Với lòng độ lượng, khoan dung của Hồ Chí Minh và chính phủ ta, nhiều nguỵ binh đã quay trở về với cách mạng, nhận rõ sai lầm của mình, tự giác cải tà, quy chính, nguyện đi theo kháng chiến. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Đối với kẻ lầm đường, lạc lối lòng Hồ Chủ Tịch còn rộng hơn biển cả… Cụ Hồ nói rằng người Việt Nam ai cũng yêu nước, muốn nước độc lập, thống nhất, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”7. Sự khoan dung, độ lượng là một đức tính và nó cũng là một giá trị văn hoá đã đưa nhân cách Hồ Chí Minh đến độ hoàn hảo, khiến cho Người bình thường, giản dị mà vĩ đại. Bằng cách đó, Người đã lôi kéo, cứu vớt và đem lại cuộc sống cho bao mảnh đời lầm lạc; thu phục, quy tụ được những thành phần, lực lượng, đối tượng khác nhau trong xã hội tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi.
– Đoàn kết đồng thời có nghĩa là phải khoan dung. Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương xóa bỏ mọi hận thù và chia rẽ do chế độ cũ để lại, sẵn sàng thu dụng những người có tài, có năng lực, có tâm huyết, mà không kể đến quá khứ. Bác đã tuyên bố: “Chính phủ không để tâm moi ra những tội cũ để đem ra làm án mới làm gì”.
c.Thứ ba, quan tâm, chăm lo tới những lợi ích thiết thực của nhân dân; chú trọng nêu gươngđể thực hành đoàn kết.
-Để đoàn kết, tập hợp được quần chúng nhân dân và các thành phần, lực lượng trong xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm lo, đáp ứng những lợi ích thực cho mọi người và coi đây là cách thiết thực, hiệu quả để thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Sau khi nước ta giành được độc lập, phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Người đã nói:”Chúng ta tranh được độc lập, tự do rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
– Cùng với sự quan tâm, chăm lo tới những nhu cầu vật chất tối thiểu như ăn, mặc, ở, đi lại của đồng bào, Hồ Chí Minh còn chú ý nâng cao đời sống văn hoá của các tầng lớp nhân dân. Với đồng bào theo các tôn giáo, Hồ Chí Minh chủ trương chăm lo chu đáo cả “phần xác” lẫn “phần hồn” của đồng bào và cố gắng làm cho đồng bào theo các tôn giáo luôn có “Phần xác no ấm, phần hồn thong dong”, “Sống phúc âm trong lòng dân tộc”, vừa “tốt đời” vừa “đẹp đạo”. Đối với các nhân sĩ, trí thức yêu nước, những người có công với cách mạng, những người có hoàn cảnh khó khăn luôn được Người đặc biệt quan tâm. Khi nghe tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng hy sinh, với sự thương cảm và quan tâm sâu sắc, Người đã viết thư thăm hỏi, động viên, chia sẻ với lời lẽ tự đáy lòng: “Tôi được báo cáo rằng: con trai Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì tôi như đứt một đoạn ruột”.
– Chỉ bằng mấy dòng thư cho thấy tấm lòng và sự quan tâm của lãnh tụ với những số phận con người. Chính điều đó đã cảm hoá, thu phục được những đối tượng, thành phần, lực lượng khác nhau, làm cho họ sẵn sàng hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Có nhiều người tuy chưa biết rõ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, nhưng trước nhân cách và phương pháp đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ bỏ vinh hoa phú quý trước mắt để đi theo tiếng gọi của Người, trở về với dân tộc, đem tài sức của mình phụng sự sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Cùng với sự quan tâm, đáp ứng những lợi ích thiết thực của mọi người, Hồ Chí Minh còn chú trọng tới phương pháp nêu gương để thực hành đoàn kết. Theo Người, mọi cán bộ, đảng viên, bộ đội, thanh niên phải đoàn kết chặt chẽ để làm gương cho quần chúng nhân dân; cấp trên phải đoàn kết để làm gương cho cấp dưới; các bậc phụ huynh, các cụ phụ lão cũng phải giữ gìn đoàn kết để noi gương choconcháu…
3.Thực hiện tư tưởng Đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội Đảng lần thứ II đầu năm 1951, vấn đề đại đoàn kết được đặt ra và nhìn nhận trong những hoàn cảnh khác. Đã có không ít ý kiến xung quanh vấn đề này. Bác kết luận: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc VN”. Lời giải thích đó của Bác đã có sức thuyết phục mạnh mẽ trong đại hội Đảng. Tiếc rằng một số năm sau đó, tư tưởng đại đoàn kết đã bị coi nhẹ, quan điểm giai cấp đã được vận dụng một cách máy móc, một chiều.Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế. Tư tưởng thành phần chủ nghĩa đã dẫn tới hai kết quả: làm mất đi nhiều tài năng của một bộ phận đáng kể trong dân tộc, đồng thời đưa một cách gượng ép những nhân tố tuy rất cơ bản về chính trị nhưng lại không đủ chất lượng trong quản lý và xây dựng.
Bước vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tư tưởng đại đoàn kết của Bác lại một lần nữa bừng lên như một sức mạnh vĩ đại của cả dân tộc. Nhiều thành phần khác nhau trong xã hội miền Nam, kể cả các nhân sĩ, các nhà tư sản, thậm chí cả những sĩ quan cao cấp trong quân đội chính quyền Sài Gòn, cũng đã hình thành nhiều tổ chức, nhiều khuynh hướng khác nhau chống lại chế độ độc tài tay sai của Mỹ (Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu). Có một số là thành viên bí mật của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam VN và mặt trận Sài Gòn – Gia định. Do đó, chính quyền tay sai đã bị cô lập càng bị cô lập hơn, đã suy yếu càng suy yếu hơn. Lực lượng cách mạng đã lớn mạnh càng lớn mạnh hơn.
Trên lĩnh vực quốc tế, tinh thần đoàn kết cũng đã đạt được nhiều kết quả thật ngoạn mục. Phong trào phản chiến ở Mỹ, ở Pháp và phong trào phản đối chiến tranh xâm lược VN ở nhiều nước trên thế giới, đã làm cho kẻ thù xâm lược VN càng ngày càng bị cô lập. Trong các nước xã hội chủ nghĩa, tư tưởng đoàn kết quốc tế của Bác Hồ đã làm cho những người bạn lớn của chúng ta dù còn mếch lòng với nhau nhưng vẫn luôn luôn nhất trí ủng hộ sự nghiệp kháng chiến của chúng ta.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, rất nhiều vận hội đã mở ra cho cả nước:
– Đất nước đã được hòa bình, thống nhất. Giang sơn đã trở về một mối. Lòng người cũng qui về một mối.
– Toàn dân vui mừng được yên ổn làm ăn, kiến tạo lại đất nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển chung của cả dân tộc.
– Một đội ngũ đông đảo công thương gia và trí thức miền Nam, có những khả năng và kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực khác nhau, là một vốn quí, có thể đóng góp vào việc xây dựng một nước VN hòa bình, giàu mạnh.
– Hầu hết quân đội, sĩ quan và những viên chức trong chính quyền cũ cũng đều mong mỏi được sống trong hòa bình, hòa hợp, có cơ hội làm lại một cuộc sống yên ổn.
– Trên bình diện quốc tế, cả những nước đã từng đem quân tham gia vào cuộc chiến ở VN cũng thấy cần xóa đi những ám ảnh của quá khứ và bày tỏ thiện chí với VN. Kể cả trong chính quyền Mỹ cũng thấy có những dấu hiệu muốn sớm đi tới bình thường hóa quan hệ với VN, như một cách để làm dịu vết thương nhức nhối của cuộc chiến…
Rất tiếc là ý thức đoàn kết dân tộc lại một lần nữa bị phần nào xao nhãng bởi bệnh chủ quan và say sưa vì chiến thắng, bởi những cách nhìn hẹp hòi, biệt phái, bởi chuyện phân biệt thắng – thua, bởi những kỳ thị ta – ngụy…
Tiếp đó, cuộc cải tạo công thương nghiệp tư nhân ở miền Nam và việc hợp tác hóa nông nghiệp một cách rập khuôn, mà sau này Đại hội Đảng lần thứ VI đã rút kinh nghiệm, là vừa đụng chạm tới cả những người đã từng có công đóng góp cho cách mạng, vừa triệt tiêu đi một nguồn lực kinh tế rất quan trọng.
Kinh tế khó khăn, đời sống bế tắc, cộng với những phương thức quản lý xã hội quá cứng nhắc và tình trạng kỳ thị thành phần… đã làm cho cả một số người yêu nước, muốn đóng góp cho đất nước cũng đành dứt áo ra đi.
Những tổn thất kể trên ít nhiều đã trực tiếp liên quan đến nhiệm vụ của tôi, một người lãnh đạo thành phố mang tên Bác. Tôi đã chứng kiến nhiều nhà trí thức, nhà công thương trước khi rời quê hương vẫn trăn trở cân nhắc, rồi cũng phải “liều mình nhắm mắt đưa chân”. Mặc dầu trong phạm vi khả năng và quyền hạn của mình, Thành ủy chúng tôi cũng đã chân tình giúp đỡ và động viên nhiều anh chị em, nhưng tôi vẫn thấy lúc bấy giờ Thành ủy vẫn có nhiều bất lực và có phần trách nhiệm về tình hình đó.
Trên bình diện quốc tế, một số chủ trương cứng rắn quá mức cần thiết đã làm cho Việt Nam lâm vào tình cảnh thêm thù bớt bạn mà thật ra không phải là hoàn toàn không tránh được.
Kết quả là Việt Nam bỏ lỡ rất nhiều vận hội. Tiếp đó là những năm tháng đầy khó khăn, với những khủng hoảng kéo dài. Đó chính là một bài học lớn của lịch sử.
4.Nghiên cứu tư tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh ngày nay.Để ngọn lửa yêu nước và đại đoàn kết dân tộc sáng mãi.
Từ ngày Đảng ta có chủ trương đổi mới, tư tưởng hòa hợp dân tộc lại được phục hưng và ứng nghiệm với nhiều kết quả khả quan. Quan điểm kinh tế nhiều thành phần, quan điểm kinh tế mở, tư tưởng VN làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, khép lại quá khứ, hướng về tương lai… đã giúp cho nước ta khai thác được cả nội lực và ngoại lực để vượt khỏi khủng hoảng, liên tiếp thu được những thành quả về mọi mặt.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Namchủtrương:
1- Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần, mọi giới, mọi lứa tuổi, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay định cư ở nước ngoài.
2- Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời tôn trọng những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tươnglai.
3- Củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và độingũtríthức.
4- Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội v.v… ở tất cả các cấp các ngành.
Ngày nay chúng ta đã có một nước VN độc lập, thống nhất và đang trên đường tiến tới thực hiện lý tưởng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chúng ta đã từng bước nâng cao uy tín quốc tế. Do đó, chúng ta càng có sức cảm hóa nhiều hơn. Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra thù hận. Nếu dùng cách cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn.
Nếu cứ còn chia rẽ do hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản thân, cho đất nước, cho hình ảnh VN trên trường quốc tế?
Nhìn ra thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài nguyên con người. Nếu qui tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng có thể được qui tụ. Con người mà không qui tụ thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng.
Trong thế giới ngày nay, nguồn lực hàng đầu là trí thức. Nói như thế không có nghĩa là đề cao những con người trí thức cụ thể, mà nói đến một điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển: Trong cuộc đua tranh để phát triển, không thể chỉ dựa vào nhiệt tình và ý chí, mà phải dựa vào kiến thức, học vấn, sự nhận thức các qui luật của thiên nhiên và của xã hội. Theo kinh nghiệm lịch sử của thế giới và bản thân nước ta, nhất là qua những kinh nghiệm của Bác Hồ, thấy rằng trí thức tận tụy hay không là tùy thuộc vào chúng ta có tin dùng trí thức hay không, có giao cho họ đảm nhiệm những trọng trách mà họ xứng đáng được đảm nhiệm hay không. Điều đó không tùy thuộc vào bản thân trí thức, mà vào lãnh đạo: có đủ khả năng thu phục nhân tâm và nhân tài hay không. Thu hút được nhân tài cũng là một tài năng.
Nhân kỷ niệm 55 năm chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, chúng ta hãy cùng nhau nhớ lại không khí hào hùng và sôi nổi của những ngày tháng đó. Ngọn lửa tạo nên không khí đó chính là tinh thần yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, mà người thắp nên ngọn lửa đó chính là Bác Hồ. Khi đó, tất cả mọi người VN đều như một. Khi đó, yêu nước là cách tốt nhất để yêu mình.
Để ngọn lửa đó còn sáng mãi, chúng ta hãy cùng ôn lại mấy bài học lớn của Bác:
– Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam cùng mọi thành quả của nền văn hóa Việt Nam không phải là của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam.
– Đã thế thì mọi người Việt Nam đều có trách nhiệm và có quyền được đóng góp vào việc tô điểm cho giang sơn đó, làm giàu thêm và đẹp thêm cho nền văn hóa đó.
– Lại vì thế nên phải làm sao để cho mọi người Việt Nam đều được sống với giang sơn gấm vóc này, được hưởng mọi giá trị vật chất và tinh thần của nền văn hóa này.
Nếu thực hiện tốt những tư tưởng đó, với kỷ niệm 64 năm quốc khánh, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng dòng chữ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công” trên quảng trường Ba Đình sẽ không chỉ là một khẩu hiệu bằng sắt, bằng gỗ, bằng vải màu…, mà sẽ là sức mạnh giúp chúng ta vượt qua bao thách thức trước mắt. Từ tinh thần của Ba Đình ngày ấy, nó sẽ trở lại với dân tộc, nó sẽ đem lại cả sức sống, niềm tin, niềm vui, nghĩa tình và hạnh phúc cho hàng triệu và hàng triệu người Việt Nam chúng ta.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu vấn đề đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy, phương pháp đại đoàn kết dân tộc của Người thực sự là khoa học, là nghệ thuật của sự cảm hoá, thu phục lòng người. Đó là nghệ thuật khơi dậy và nhân lên những điều tốt đẹp, nhân bản trong mỗi con người; tập hợp, tổ chức, cố kết mọi người, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng. Trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, phương pháp đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là kinh nghiệm quý giá, định hướng và chỉ đạo việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Cùng với những chính sách thông thoáng – sản phẩm của tưu duy mới về kinh tế, là các hình thức, biện pháp xã hội hóa các hoạt động và chính sách xã hội như: xóa đói, gim nghèo, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, cứu giúp đồng bào những vùng bị bão lụt, thiên tai v.v… đã góp phần củng cố niềm tin của đại bộ phận nhân dân đối với Đảng, với chế độ, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Đoàn kết là bài học luôn mới trong mọi thời, là kim chỉ nam để hành động và thành công. Trong xu thế mới hiện nay chúng ta mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng mở cửa để thu hút chất xám Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới. Những người trẻ chúng tôi mong muốn Chính phủ tạo ra môi trường thuận lợi với những qui định cụ thể trong việc sử dụng nguồn lực con người. Hiện nay ở nhiều nơi, nhiều cơ quan vẫn còn tình trạng sử dụng lao động “con ông cháu cha”, quen biết.
Vì thế đã bỏ qua rất nhiều người có tâm huyết, có khả năng làm tốt công việc hơn những người quen biết. Những người trẻ sinh sau chiến tranh, tôi nghĩ họ không thể vì chiến tranh, vì những sai lầm của ông, của bố họ trước đây mà bị đẩy ra khỏi “cuộc chạy” đưa đất nước tiến lên. Bài học đoàn kết trong thời đại ngày nay, theo tôi, là bài học không phân biệt đối xử, không kỳ thị, moi móc quá khứ, bài học của lòng bao dung. Có như thế nguồn lực con người trong cuộc chiến chống nghèo nàn, lạc hậu của đất nước mới dồi dào.