VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LIÊN
TẠO ĐỘNG LỰC LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU RAU QUẢ
LUẬN VĂN THẠC SĨ: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Hà Nội, 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LIÊN
TẠO ĐỘNG LỰC LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ NGHIÊN
CỨU TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU RAU QUẢ
Ngành : Quản trị kinh doanh
Mã số : 8.34.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ: QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN XUÂN TRUNG
Hà Nội, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Liên xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu
của cá nhân tôi và chưa công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào. Các số liệu
cũng như nội dung được trình bày trong luận văn là hợp lệ và tuân thủ các quy định
về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu này của mình.
Tác giả
Nguyễn Thị Liên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………………………………………………
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TẠO ĐỘNG LỰC LÀM VIỆC
CHO CÁN BỘ NGHIÊN CỨU TRONG CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC
………………….
6
1.1. Cơ sở lý luận về động lực làm việc trong các tổ chức khoa học
…………………………..
6
1.2. Cơ sở lý luận về tạo động lực làm việc trong các tổ chức khoa học.
…………………….
9
1.5. Kinh nghiệm tạo động lực lao động của một số tổ chức ……………………………………
26
Chương 2: THỰC TRẠNG TẠO ĐỘNG LỰC LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ NGHIÊN
CỨU TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU RAU QUẢ…………………………………………………………
31
2.1. Tổng quan về Viện Nghiên cứu Rau quả …………………………………………………………
31
2.2. Thực trạng tạo động lực lao động cho các bộ nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Rau
quả ………………………………………………………………………………………………………………………
38
2.3. Đánh giá thực trạng tạo động lực lao động cho cán bộ nghiên cứu tại Viện Nghiên
cứu Rau quả …………………………………………………………………………………………………………
55
Chương 3: GIẢI PHÁP TẠO ĐỘNG LỰC LAO ĐỘNG CHO CÁN BỘ NGHIÊN
CỨU TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU RAU QUẢ…………………………………………………………
59
3.1. Chiến lược phát triển và quan điểm tạo động lực lao động tại Viện Nghiên cứu Rau
quả ………………………………………………………………………………………………………………………
59
3.2. Một số giải pháp tạo động lực lao động tại Viện Nghiên cứu Rau quả
……………….
62
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………………………………
72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………….
74
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Quy mô và cơ cấu lao động xét theo giới tính
……………………………………
37
Bảng 2.2: Cơ cấu lao động xét theo độ tuổi
……………………………………………………..
37
Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn nhân lực theo trình độ học vấn ……………………………………
38
Bảng 2.4: Thứ tự nhu cầu của người lao động trong Viện Nghiên cứu Rau quả …..
39
Bảng 2.5: Mức độ hài lòng của người lao động tại Viện Nghiên cứu Rau quả đối
với công tác xác định nhiệm vụ và bố trí nhân sự ……………………………..
41
Bảng 2.6: Mức độ hài lòng của người lao động tại Viện Nghiên cứu Rau quả đối
với tiền lương
……………………………………………………………………………….
43
Bảng 2.7: Mức độ hài lòng của người lao động tại Viện Nghiên cứu Rau quả đối
với công tác khen thưởng và phúc lợi ……………………………………………..
46
Bảng 2.8: Mức độ hài lòng của người lao động tại Viện Nghiên cứu Rau quả đối
với công tác tuyển dụng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực …………..
49
Bảng 2.9: Mức độ hài lòng của người lao động tại Viện Nghiên cứu Rau quả đối
với công tác xây dựng môi trường và điều kiện làm việc …………………..
51
Bảng 2.10: Mức độ hài lòng của người lao động tại Viện Nghiên cứu Rau quả đối
với công tác đánh giá thực hiện công việc ……………………………………….
53
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của Viện Nghiên cứu Rau quả hiện nay: ………………
35
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực là nhân tố trung tâm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
sự tồn tại và phát triển của tất cả các tổ chức, nhất là trong môi trường đầy thách
thức và nhiều biến động của xu thế hội nhập và cạnh tranh quốc tế ngày nay. Nguồn
nhân lực với tiềm năng tri thức chính là nguồn vốn hàng đầu để giành lợi thế cạnh
tranh của các tổ chức. Nguồn vốn cần được đầu tư thì mới có thể sinh lời, nguồn
vốn con người cũng vậy. Đầu tư cho vốn con người hoàn toàn khác đầu tư cho
những nguồn vốn khác vì con người có suy nghĩ, trái tim, tâm lý, tình cảm, yêu
thương, giận hờn…Vì vậy muốn đầu tư cho vốn con người có hiệu quả cao thì
người lãnh đạo của tổ chức cần quan tâm đến công tác quản trị nhân lực nói chung
và công tác tạo động lực cho người lao động nói riêng. Vì vậy vai trò của nhà quản
trị ở đây vô cùng quan trọng, chỉ có người lãnh đạo với kiến thức và kỹ năng cần
thiết mới biết cách tác động vào người lao động để phát huy được tinh thần, khả
năng và sức sáng tạo của họ.
Ngày nay Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển với những
thách thức và cơ hội mới. Đó là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa
trong hoàn cảnh lao động nông nghiệp vẫn chiếm phần lớn tổng lao động và dân
cư nông thôn vẫn chiếm đa số dân số, tốc độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
thôn chậm. Đây cũng là giai đoạn nước ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
trong điều kiện khả năng cạnh tranh của các ngành nông nghiệp còn yếu và năng
lực tiếp cận thị trường rất hạn chế. Trong bối cảnh hiện nay, công tác nghiên cứu
khoa học được ưu tiên quan trọng của Việt Nam và đổi mới chính sách và chiến
lược vẫn là giải pháp quyết định. Trong khi đó hoạt động nghiên cứu khoa học
công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nước ta còn chưa đáp ứng kịp
thời mọi yêu cầu của thực tế đặt ra.
Viện Nghiên cứu Rau quả (thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam)
với nguồn nhân lực đặc thù – lao động trí óc đó là các cán bộ nghiên cứu khoa học
về 3 đối tượng cây ăn quả, cây rau và cây hoa. Vì vậy để cán bộ nghiên cứu cho ra
đời những đề tài nghiên cứu khoa học phục vụ sự nghiệp phát triển nông nghiệp có
2
chất lượng cao, giá trị sử dụng phục vụ lợi ích của xã hội thì việc tạo động lực làm việc
cho cán bộ nghiên cứu khoa học trong Viện là không thể thiếu.Mặt khác hiện nay các
tổ chức nghiên cứu khoa học nói chung, Viện Nghiên cứu Rau quả nói riêng đang thực
hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nên có rất nhiều vấn đề đặt ra, nếu việc sử
dụng đội ngũ cán bộ nhân viên không phù hợp, không có những không phát huy được,
tinh thần tự chủ của họ, thì không những không phát huy được tài năng, trí tuệ của họ
mà còn có thể để xảy ra tình trạng “ chảy máu chất xám”
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tạo động lực cho người lao
động và nhận thấy còn tồn tại nhiều bất cập trong vấn đề này nên tôi đã chọn đề tài
“Tạo động lực làm việc cho cán bộ nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu rau quả” làm
đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1 Nghiên cứu ngoài nước
Công trình‘‘Những tác động của quy chế khen thưởng và đánh giá trong
động lực lao động và sự hài lòng”, là nghiên cứu của Nadeem Shiraz và Majed
Rashid thuộc Học viện Interdisciplinary Business Research, Pakistan. Đề tài nghiên
cứu vai trò của cơ hội thăng tiến, phong cách lãnh đạo để tạo động lực và sự hài
lòng cho nhân viên. Kết quả chỉ ra mối quan hệ và sự khác nhau giữa động lực làm
việc và sự hài lòng.
2.2 Nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về tạo động lực làm việc cho người lao
động với những đối tượng khác nhau. Tiêu biểu như “ Tạo động lực cho lao động
quản lý trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội đến năm 2020”đề tài nghiên
cứu luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Vũ Thị Uyên. Đề tài đã nêu tổng quan lý luận
về tạo động lực lao động. Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng tạo động lực cho
người lao động quản lý trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội, đã đưa ra mặt
tích cực cũng như mặt hạn chế của các doanh nghiệp và đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện tạo động lực lao động.
Đề tài nghiên cứu của Ban Tuyên giáo, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam
do Trương Thanh Cần làm chủ nhiệm với tiêu đề “Nâng cao đời sống văn hóa tinh
thần của công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất”, đã phản ánh
3
thực trạng đời sống văn hóa tinh thần của công nhân lao động trên các khía cạnh
như nhận thức, ý thức tham gia các hoạt động văn hóa ở khu công nghiệp.
Tác giả Nguyễn Thị Phương Lan với đề tài “Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống
công cụ tạo động lực cho công chức ở các cơ quan hành chính nhà nước”, đã nghiên
cứu hoạt động tạo động lực ở các cơ quan hành chính nhà nước, cải cách hành chính
nhà nước từ năm 2001 trở lại đây. Nghiên cứu đã chỉ ra phải tiếp cận hệ thống, nhìn
nhận những công cụ tạo động lực cho công chức hành chính Nhà nước như là một hệ
thống và nên sử dụng chúng có hệ thống thì động lực làm việc của công chức ở các
cơ quan hành chính Nhà nước mới được cải thiện. Như vậy sẽ giải quyết được việc
thiếu gắn bó với khu vực công. Đó là nguyên nhân hiệu quả công việc thấp. Tình
trạng tham nhũng, quan liêu và các biểu hiện tiêu cực đã và đang là nguyên nhân
khiến cho nền công vụ còn yếu đồng nghĩa với việc chưa đáp ứng được yêu cầu và
đòi hỏi phát triển nhanh chóng và bền vữngcủa đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài thấy rằng các đề tài đã
nêu tổng quan lý luận về tạo động lực lao động, những công cụ tạo động lực lao
động, các yếu tố tạo động lực lao động… Từ những tìm hiểu trên thấy rằng công tác
tạo động lực lao động ở Viện nghiên cứu rau quả vẫn chưa được hoàn thiện và phát
huy hết khả năng đó có thể là những hạn chế trong công tác tiền thưởng, phúc lợi,
môi trường làm việc… Chính vì thế luận văn này sẽ nghiên cứu thực trạng công tác
tạo động lực cho cán bộ nghiên cứu tại Viện nghiên cứu rau quả chỉ ra những ưu
điểm cũng như hạn chế trong công tác tạo động lực. Từ đó đưa ra những giải pháp để
giúp Viện nghiên cứu rau quả hoàn thiện hơn nữa công tác tạo động lực lao động.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng tạo động lực làm việc của cán bộ nghiên cứu,
luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường động lực lao động cho cán bộ
nghiên cứu khoa học tại Viện Nghiên cứu Rau quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn cơ bản về động lực lao động và tạo
động lực lao động; Làm rõ đặc điểm lao động khoa học và tạo động lực làm việc
cho người làm nghiên cứu;
4
Phân tích, đánh giá thực trạng động lực làm việc và tạo động lực làm việc
cho cán bộ nghiên cứu khoa học tại Viện Nghiên cứu Rau quả, tìm ra những ưu
điểm, hạn chế, nguyên nhân hạn chế;
Đề xuất một số giải pháp tạo động lực lao động cho cán bộ nghiên cứu ở
Viện Nghiên cứu Rau quả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Động lực làm việc của cán bộ nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Rau quả.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Tập trung nghiên cứu thực tế và phân tích các chính sách, cơ
chế tạo động lực tại Viện Nghiên cứu Rau quả. Đề tài cũng chỉ tập trung nghiên cứu
tạo động lực cho cán bộ nghiên cứu khoa học, những đối tượng khác không thuộc
nội dung nghiên cứu của luận văn này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Về không gian: Viện Nghiên cứu Rau quả – Viện Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam- Bộ Nông nghiệp và PTNT.
Về thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin:
Luận văn thu thập tài liệu thứ cấp là các sách, báo, tạp chí trên các thư viện,
hệ thống lưu trữ tại Viện, các phương tiện thông tin đại chúng. Các báo cáo định kỳ
và chuyên đề được thu thập từ các phòng ban của Viện Nghiên cứu Rau quả.
Luận văn thu thập tài liệu sơ cấp thông qua khảo sát cán bộ nghiên cứu và
cán bộ làm công tác quản lý tại Viện Nghiên cứu Rau quả. Thời gian tiến hành khảo
sát từ tháng 4/2018 cho đến tháng 6/2018. Cách thức tiến hành khảo sát được thực
hiện dưới điều tra bảng hỏi số phiếu phát ra 150 phiếu thu về 150 phiếu hợp lệ. Nội
dung khảo sát: các nhân tố ảnh hưởng đến động lực làm việc, mức độ hài lòng với
công việc của cán bộ, công nhân viên.
Phương pháp phân tích:
+ Phương pháp phân tích thống kê.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh.
5
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp xử lý số liệu.
-Một số chỉ tiêu đánh giá tạo động lực lao động
+ Tỷ lệ bỏ việc.
+ Năng suất lao động bình quân.
6. Ý nghĩa luận và thực tiễn
Ý nghĩa luận: Hệ thống hóa các lý luận có liên quan về tạo động lực cho
người lao động làm khoa học
Ý nghĩa thực tế: Đề xuất được các giải pháp nhằm tạo động lực hơn nữa cho
cán bộ công nhân viên tại Viện Nghiên cứu Rau quả; các khuyến nghị để thực hiện
tốt các giải pháp này, có thể làm tài liệu tham khảo cho lãnh đạo Viện Nghiên cứu
Rau quả.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 03 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tạo động lực cho cán bộ nghiên cứu
trong các tổ chức khoa học.
Chương 2: Thực trạng về tạo động lực làm việc cho cán bộ nghiên cứu tại
Viện Nghiên cứu Rau quả.
Chương 3: Giải pháp tạo động lực lao động cho cán bộ nghiên cứu tại Viện
Nghiên cứu Rau quả.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TẠO ĐỘNG LỰC LÀM VIỆC CHO
CÁN BỘ NGHIÊN CỨU TRONG CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC
1.1. Cơ sở lý luận về động lực làm việc trong các tổ chức khoa học
1.1.1. Động lực lao động
1.1.1.1. Các khái niệm về động lực lao động
Động lực:
Theo Nguyễn Vân Điềm và Nguyễn Ngọc Quân trong cuốn “Giáo trình quản
trị nhân lực” (2007), “Động lực được hiểu là sự khát khao, tự nguyện của người lao
động để tăng cường nỗ lực nhằm hướng tới việc đạt được các mục tiêu, kết quả nào
đó.” [16, tr. 134].
Cũng có quan niệm cho rằng “Động lực lao động là những nhân tố bên trong
kích thích con người nỗ lực làm việc trong điều kiện cho phép tạo ra năng suất và
hiệu suất cao” [9, tr. 89]
Mỗi một con người đều có mong muốn được khẳng định bản thân, khẳng
định giá trị của bản thân mình, được thành công trong công việc trong cuộc sống và
hơn nữa là có thu nhập để đảm bảo cuộc sống, đảm bảo những nhu cầu của bản
thân. Mỗi người ở những vị trí xã hội khác nhau và với những đặc điểm tâm lý khác
nhau sẽ có những mong muốn khác nhau vì vậy nhà quản trị cần phải có những tác
động khác nhau đến mỗi người lao động để tạo động lực cho người lao động, khi có
động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người sẽ hành động tích cực, năng suất cao từ đó sẽ
mang lại hiệu quả cao và ngược lại.
Động lực lao động trong các tổ chức khoa học là sự say mê trong nghiên cứu
của những người lao động làm nghiên cứu khoa học luôn mong muốn tìm những
điều mới, hướng đi mới trong quá trình nghiên cứu bằng việc vận dụng kiến thức
chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn đưa ra những giải pháp, đề tài để giải quyết các
vấn đề cấp bách trong xã hội. Người nghiên cứu khoa học hướng các nghiên cứu
vào mục đích phục vụ cộng đồng đó là động lực không những tạo nên giá trị về mặt
xã hội và tạo nên sự lan tỏa trong hoạt động nghiên cứu và đề tài nghiên cứu đạt
được giá trị cao nhất cũng chính là động lực của những người làm nghiên cứu trong
tổ chức khoa học.
7
Nhu cầu:
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn,
nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Theo
như khái niệm trên có thể thấy nhu cầu của mỗi một con người nó gắn liền với sự
tồn tại và phát triển của con người cũng như của cộng đồng và tập thể xã hội hơn
nữa nhu cầu của con người luôn luôn biến đổi, mỗi người khác nhau lại có những
nhu cầu khác nhau, trong xã hội việc thực hiện các nhu cầu khác nhau cũng tùy
thuộc vào từng quan điểm của mỗi cá nhân, khi nhu cầu chưa được thỏa mãn hay
chưa được đáp ứng sẽ tạo cho con người tâm lý căng thẳng và càng kiến cho con
người luôn luôn phải tìm cách thỏa mãn hay đáp ứng các nhu cầu đó. Người lao
động cũng như vậy họ bị thúc đẩy bởi trạng thái mong muốn, mong muốn càng lớn
thì nỗ lực càng cao để thỏa mãn những mong muốn đó và ngược lại. Hệ thống nhu
cầu của con người rất phức tạp tuy nhiên hệ thống nhu cầu đó được chia ra thành ba
nhóm nhu cầu chính đó là : hệ thống nhu cầu về vật chất, hệ thống nhu cầu về tinh
thần và hệ thống nhu cầu xã hội.
Lợi ích:
Theo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, lợi ích được hiểu là “sản
phẩm kết tinh từ hoạt động của con người, liên quan và thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người, được đặt trong quan hệ giữa con người với con người”. Ngoài ra
“Lợi ích là mức độ đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần do công việc đó tại ra “
Như vậy lợi ích theo khái niệm như trên sẽ được hiểu là thành quả mà người lao
động nhận được bằng vật chất hay tinh thần mà người lao động đạt được khi tham gia
vào quá trình lao động, sản xuất hoặc các hoạt động khác trong tổ chức cũng như trong
xã hội. Vì vậy lợi ích có vai trò vô cùng to lớn trong hoạt động quản lý cũng như trong
hoạt động lao động sản xuất của con người, lợi ích giúp tạo ra động lực mãnh mẽ cho
các hoạt động con người, kiến cho con người luôn phải tìm tòi sáng tạo hoạt động trí
não để có lợi ích và thỏa mãn nhu cầu của mình. Đối với các nhà lãnh đạo, các nhà
quản lý cũng như nhà quản trị khi tìm hiểu cũng như nắm bắt được tâm lý về lợi ích
của người lao động sẽ có những biện pháp phù hợp nhằm khuyến khích người lao động
làm việc hiệu quả đem lại năng suất cao trong công việc.
Động cơ:
8
Khái niệm về động cơ lao động: Động cơ lao động của người lao động xuất phát
từ việc mong muốn thỏa mãn nhu cầu thiết yếu cơ bản của người lao động như: nhu cầu
về ăn, nhu cầu về uống, nhu cầu về ở , nhu cầu về đi lại, nhu cầu về tôn trọng, v.v…
Với mỗi cá nhân khác nhau thì động cơ lao động lại khác nhau. Đối với
những người lao động có động cơ lao động cao thì họ càng cố gắng nhiều hơn trong
công việc từ đó dẫn tới năng suất lao động cao và hiệu quả công việc cao. Ngược lại
đối với những người lao động có động cơ lao động thấp hoặc ít thì năng suất cũng
như hiệu quả công việc của họ sẽ thấp.
1.1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực lao động
Có ba yếu tố chính ảnh hướng đến động lực lao động đó là:
Động lực lao động nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân
Bản chất của động lực xuất phát từ nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu của con
người, giữa nhu cầu và thỏa mãn nhu cầu có một khoảng cách nhất định và khoảng
cách đó luôn có động lực để rút ngắn khoảng cách đó. Nhu cầu gồm nhiều loại khác
nhau tùy vào từng cách phân chia như nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thầ, nhu cầu
trước mắt, nhu cầu lâu dài…. Sự thỏa mãn nhu cầu được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu
một phần nào đó. Ít có nhu cầu nào được thỏa mãn hoàn toàn mà chỉ có nhu cầu
được thỏa mãn ở mức độ nào đó, Khi một nhu cầu được thỏa mãn về cơ bản nó sẽ
dần mất đi và nhu cầu mới lại xuất hiện. Con người không bao giờ hết nhu cầu và
sự thỏa mãn nhu cầu có ảnh hưởng tích cực đến động lực của mỗi người.
Động lực lao động thỏa mãn lợi ích cá nhân
Lợi ích là mức độ thỏa mãn nhu cầu của con người trong điều kiện nhất định.
Cũng giống như nhu cầu lợi ích có nhiều loại khác nhau lợi ích vật chất, lợi ích tinh
thần, lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài…. Giữ lợi ích và nhu cầu có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Nếu không có nhu cầu thì không thể thỏa mãn nhu cầu và lợi ích cũng
không thể xuất hiện. Khi nhu cầu xuất hiện người lao động sẽ có tìm cách thỏa mãn
nhu cầu đó từ đó tạo động lực kích thích lao động để thỏa mãn nhu cầu, kết quả của
sự thỏa mãn nhu cầu là lợi ích đạt được. Khi sự thỏa mãn nhu cầu càng lớn, khoảng
cách giữa nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu càng được rút ngắn thì lợi ích càng lớn.
Lợi ích đạt được càng cao thì động lực thôi thúc càng mạnh, và khi khoảng cách
giữa nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu chưa được rút ngắn thì nó sẽ thôi thúc thúc
đẩy con người hành động lao động để rút ngắn nó. Đó chính là động lực, động lực
9
muốn rút ngắn khoảng cách đó để đem lại lợi ích cao nhất.
Động lực lao động để đảm bảo nguyên tắc công bằng trong tổ chức
Sự công bằng trong kết quả cho thấy nhu cầu của con người là được đối xử
hoặc nhận thù lao như nhau trong việc phân phối lợi ích thu được từ kết quả công
việc. Người lao động có xu hướng đánh giá những gì họ nhận được từ công việc
như lương thưởng sự ghi nhận tương xứng với những gì họ bỏ ra như nỗ lực, kinh
nghiệm, kiến thức, sự phù hợp, và sau đó so sánh tỷ số giữa thành quả đầu ra và các
yếu tố đầu vào với người khác. Nếu họ nhận thấy tỷ số đó ngang bằng trạng thái cân
bằng sẽ xuất hiện. Người lao động sẽ thấy bản thân được đối xử công bằng bình
đẳng và nếu họ nhận thấy tỷ số đó không công bằng họ sẽ thấy căng thẳng về vấn đề
bình đẳng do đó sẽ ảnh hưởng tới động lực lao động. Sự công bằng trong tổ chức
được nghiên cứu trong nhiều năm nay. Rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng công bằng
trong tổ chức có ảnh hưởng đến nhận thức và từ đó ảnh hưởng đến hành vi và thái
độ của người lao động. Tập trung nghiên cứu các khía cạnh của công bằng trong tổ
chức, sự công bằng trong tổ chức và sự hài lòng, sự công bằng trong tổ chức và sự
cam kết gắn bó với tổ chức của người lao động, có thể nói rằng cảm nhận sự công
bằng trong tổ chức có ảnh hưởng mạnh đến hành vi và thái độ của người lao động
trong tổ chức. Những biểu hiện của hành vi và thái độ này có liên quan đến động
lực làm việc qua đó ảnh hưởng đến năng suất cũng như hiệu quả công việc, vì vậy
tổ chức cần quan tâm đến việc đảm bảo nguyên tắc công bằng trong tổ chức nhằm
tạo động lực lao động cho người lao động làm việc trong tổ chức
1.2. Cơ sở lý luận về tạo động lực làm việc trong các tổ chức khoa học.
1.2.1. Khái niệm tạo động lực
“Tạo động lực lao động được hiểu là hệ thống các chính sách, biện pháp, thủ
thuật quản lý tác động đến người lao động nhằm giúp người lao động có động lực
trong công việc” hay “Tạo động lực lao động là hệ thống các biện pháp, chính sách,
cách ứng xử của tổ chức tác động đến người lao động nhằm làm cho người lao động
hài lòng hơn với công việc và nỗ lực phấn đấu để đạt được các mục tiêu của bản
thân và tổ chức” [9, tr. 91]
Như vậy tạo động lực lao động được biết đến là các hoạt động mang tính chất
động viên và khuyến khích, với mục tiêu tác động và đáp ứng các nhu cầu của người
lao động để nâng cao thái độ và động lực của người lao động trong tổ chức. Các nhà
10
quản trị trong tổ chức muốn doanh nghiệp mình phát triển bền vững thì phải vận dụng
hợp lý, hiệu quả các chính sách, biện pháp cũng như các các công cụ quản lý sao cho
phù hợp nhất để khi tác động đến người lao động sẽ làm cho người lao động hăng
say, có tinh thần làm việc, trách nhiệm với công việc ngoài ra cũng phát huy được
tính sáng tạo trong quá trình làm việc để đóng góp cho tổ chức. Quan trọng của vấn
đề tạo động lực là hiểu được nhu cầu của người lao động và từ sự thấu hiểu đó sẽ đưa
được ra những biện pháp kích thích, khơi được nguồn động lực cho người lao động
hăng say, nỗ lực trong quá trình làm việc, cống hiến cho tổ chức.
1.2.2. Các học thuyết có liên quan về tạo động lực lao động
Học thuyết hệ thống nhu cầu của Maslow
Theo lý thuyết về nhu cầu của Abraham Maslow, ông chia nhu cầu của con
người thành 05 nhóm cơ bản và sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao. Những nhu cầu ở
nhóm cao hơn chỉ có thể đáp ứng khi đã thỏa mãn những nhu cầu ở nhóm thấp hơn.
Nhu cầu sinh lý, vật chất
Nhu cầu an toàn
Nhu cầu xã hội
Nhu cầu được tôn trọng
Nhu cầu tự hoàn thiện
Nhu cầu về sinh lý, vật chất: là nhu cầu thấp nhất trong hệ thống nhu cầu của
Abraham Maslow, đây là những nhu cầu mà con người luôn cố gắng để thỏa mãn
trước tiên, khi con người chưa được thỏa mãn những nhu cầu này thì con người sẽ
nghĩ đến thỏa mãn những nhu cầu này trước tiên và những nhu cầu khác sẽ bị đẩy
xuống hàng thứ yếu.
Nhu cầu an toàn: sau khi nhu cầu về sinh lý và vật chất thì nhu cầu an toàn
sẽ là nhu cầu tiếp theo. Với nhu cầu an toàn này con người sẽ phản ứng lại với
những dấu hiệu nguy hiểm hay những dấu hiệu có nguy cơ đe dọa đến bản thân.
Mọi người lao động đều không thích làm việc trong những điều kiện nguy hiểm mà
luôn luôn hướng đến làm việc trong điều kiện an toàn.
Nhu cầu xã hội: Nhu cầu xã hội hay tình cảm đó là nhu cầu được yêu thương,
có tình bạn tình cảm và được là thành viên của một tập thể nào đó. Con người khi
đã được thỏa mãn về nhu cầu sinh lý vật chất và nhu cầu an toàn thì nhu cầu xã hội
sẽ này sẽ được nảy sinh và lúc đó sẽ trở lên quan trọng.
11
Nhu cầu được tôn trọng: Abraham Maslow đã chia nhu cầu tôn trọng thành hai
loại : một là các loại mong muốn về sức mạnh , sự đạt được, lòng tin đối với mọi người,
đối với độc lập tự do, hai là loại có mong muốn về thanh danh, uy tín, địa vị, thống trị,
được chú ý, được thể hiện mình…Nhu cầu này bao gồm cả việc cần hay mong muốn có
được giá trị cao cả của tự động hay kích thích va tôn trọng của người khác
Nhu cầu tự hoàn thiện: Nhu cầu này xuất hiện khi các nhu cầu cấp thấp hơn
đã được thỏa mãn, ở từng thời kỳ và từng thời điểm con người khác nhau có nhu
cầu khác nhau nhưng về nguyên tắc thì những khi những nhu cầu cấp thấp được
thỏa mãn sẽ kích thích thỏa mãn các nhu cầu ở mức cao hơn. Maslow cho rằng
“Mặc dù các nhu cầu trên được thỏa mãn, chúng ta vẫn cảm thấy sự bất mãn mới và
sự lo lắng sẽ xuất hiện, từ khi các nhu cầu cá nhân đang làm những công việc mà
phù hợp với mình. Maslow đã khẳng định mỗi cá nhân người lao động có hệ thống
nhu cầu khác nhau và nó được thỏa mãn bằng những cách và những phương tiện
khác nhau, về nguyên tắc con người cần được thỏa mãn các nhu cầu ở cấp bậc thấp
hơn trước khi được khuyến khích thỏa mãn những nhu cầu ở cấp bậc cao hơn và vì
vậy người quản lý cần phải quan tâm đến nhu cầu của người lao động từ đó có
những biện pháp để thỏa mãn nhu cầu đó một cách hợp lý.
Như vậy về nguyên tắc nhà quản lý cần phải biết và nắm bắt được người lao
động của mình đang ở nấc thang nhu cầu nào để từ đó biết cách tác động hay đưa ra
những phương pháp biện pháp nhằm kích thích tạo ra động lực lao động nhất.
Học thuyết tăng cường tích cực của B.F.Skinner
Theo học thuyết tích cực của B.F.Skinner thì những hành vi, hoạt động được
khuyến khích, khen thưởng hay đánh giá tích cực sẽ có xu hướng lặp lại. Ngược lại,
những hành vi, hoạt động bị phê phán, trừng phạt hay nhận định tiêu cực thì sẽ có
xu hướng không lặp lại. Như vậy có ba loại hành vi mà nhà lãnh đạo và nhà quản lý
có thể áp dụng thực hiện nhằm tạo động lực cho người lao động đó là :
Tăng cường dương tính khen thưởng nhân viên: Người lãnh đạo và nhà quản
lý sẽ khuyến khích thúc đẩy nhân viên làm những lại những việc mà người lao động
đã làm tốt trước đó. Phần thưởng sẽ có thể là tiền, lời khen ngợi hay bằng quyết
định khen thưởng, đề bạt.
Tăng cường âm tính sử dụng hình phạt: Nhà lãnh đạo hay nhà quản lý sẽ
thực hiện hành động phê bình hay sử dụng hình phạt về những khuyết điểm người
12
lao động đã mắc phải và chỉ cho người lao động những gì họ không được làm và họ
phải sửa chữa những gì.
Làm ngơ: Nhà lãnh đạo hay quản lý có thể làm ngơ coi như không biết về
những việc làm sai quy định của nhân viên và sự lựa chọn này chỉ thích hợp áp
dụng trong trường hợp nhà quản lý và lãnh đạo cho rằng việc làm sai trái đó của
người lao động chỉ là nhất thời và nó không gây hậu quả nghiêm trọng cũng như
không nghiêm trọng đến mức sử dụng hình phạt.
B.F.Skinner cho rằng nhà lãnh đạo và quản lý không nên quá tập trung vào
những khuyết điểm hay thiếu sót của người lao động mà thay vào đó vẫn phải đủa
ra những biện pháp nhắm khuyến khích động viên người lao động như khen
thưởng… nhằm nâng cao hiệu quả cũng như năng suất của người lao động. Nhà
quản lý và lãnh đạo cần thực hiện biện pháp công khai khen thưởng người lao động,
phê bình đi đôi với tán dương và hạn chế việc phê bình người lao động trực diện
trước tập thể.
Lý thuyết về sự công bằng của Stacy Adam
Thuyết cân bằng là một lý thuyết về sự động viên do J.Stacy Adam một nhà
tâm lý học hành vi và quản trị đưa ra vào năm 1963.Thuyết công bằng của Adam
đưa ra các yếu tố ngầm và mang tính biến đổi tác động đến sự nhìn nhận và đánh
giá của người lao động về tổ chức và công việc của họ. Nội dung của học thuyết này
J.Stacy Adam đề cập đến vấn đề nhận thức của người lao động về mức độ được đối
xử công bằng và đúng đắn trong tổ chức. Giả thuyết cơ bản của học thuyết là mọi
người đều muốn được đối xử công bằng các cá nhân trong tổ chức có xu hướng so
sánh sự đóng góp của họ và quyền lợi của họ nhận được so với sự đống góp và
quyền lợi của cá nhân khác người lao động khác trong tổ chức. Người lao động sẽ
cảm nhận được đối xử công bằng khi thấy tỷ lệ quyền lợi và sự đóng góp của mình
ngang bằng với tỷ lệ đó ở người khác.
Do đó để tạo động lực cho người lao động thì nhà lãnh đạo và quản lý cần
tạo ra và duy trì sự cân bằng giữa đóng góp của người lao động và các quyền lợi mà
cá nhân người lao động đó được hưởng.Như vậy học thuyết này mang đến cho nhà
lãnh đạo và quản lý thêm một yếu tố tạo động lực cho người lao động đó là sự công
bằng tuy nhiên không phải người lao động nào cũng quan tâm và coi đó là yếu tố
quan trọng nhất. Các nhà quản trị thấy rằng để tạo động lực cho người lao động thì
13
sự công bằng cũng rất quan trọng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tạo động lực người lao động
Các nhân tố thuộc về bản thân người lao động:
Đặc điểm người lao động: như độ tuổi, giới tính, sở thích, mục tiêu, môi
trường sống của người lao động cũng tác động không nhỏ đến động lực lao động.
Nhà quản lý nếu biết rõ đặc điểm cá nhân của người lao động để bố trí công việc
hợp lý sẽ có tác dụng to lớn đến việc tạo động lực cho người lao động, bên cạnh đó
nếu nhà quản trị biết kết hợp giữa mục tiêu cá nhân cùng với mục tiêu của tổ chức
hướng mục tiêu cá nhân vào với mục tiêu của tổ chức sẽ làm cho người lao động
gắn bó công hiến tận tụy với công việc và tổ chức do vậy tổ chức phải hiểu rõ mục
tiêu cá nhân của người lao động và phải có những biện pháp hướng mục tiêu cá
nhân phù hợp với mục tiêu của tổ chức để làm được điều đó nhà quản lý và lãnh
đạo phải luôn quan tâm, tìm hiểu và tiếp cận với người lao động của tổ chức mình.
Năng lực thực tế của người lao động: như học vấn, trình độ chuyên môn,
kinh nghiệm. Mỗi người lao động đều có năng lực riêng và khác nhau nên động lực
kiến họ làm việc tích cực và năng suất hơn cũng khác nhau và khi họ có đầy đủ điều
kiện để phát huy khả năng của mình thì động lực lao động sẽ tăng lên.Năng lực và
yếu tố di truyền cũng là kết quả của sự rèn luyện, năng lực là cơ sở tạo ra khả năng
cho người lao động, đánh giá đúng năng lực của người lao động là cơ sở để nhà
quản lý sử dụng tốt người lao động trong tổ chức của mình.Vì vậy trong quá trình
làm việc nhà lãnh dạo và quản lý luôn thiết kế công việc sắp xếp bố trí người lao
động vào công việc phù hợp với năng lực để phát huy tối đa năng lực chuyên môn.
Tính cách của người lao động: tính cách của mỗi người lao động là yếu tố
bên trong mỗi con người và được thể hiện quan điểm của người lao động trước một
sự việc hay sự kiện nào đó. Quan điểm của người lao động có thể mang tính tích
cực hay tiêu cực vì vậy tạo động lực lao động cho người lao động còn chịu ảnh
hưởng từ tính cách của chính người lao động.
Thái độ của người lao động đối với công ty và đối với công việc của người
lao động: trong quá trình tạo động lực cho người lao động nhà lãnh đạo và quản trị
cần chú ý đến yếu tố này, khi người lao động có thái độ đúng đắn, tích cực đối với
công việc họ đang làm và đối với công ty họ sẽ có những hành vi đúng đắn và theo
chiều hướng tích cực qua đó sẽ nâng cao được năng suất lao động cũng như chất
14
lượng công việc.
Các nhân tố bên trong tổ chức
Cơ cấu tổ chức: Chính là hệ thống các nhiệm vụ, báo cáo, mối quan hệ và
quyền lực nhằm duy trì sự hoạt động của tổ chức và quyết định đến toàn bộ hoạt
động của tổ chức. Khi cơ cấu tổ chức hợp lý, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bộ
phận hay mỗi thành viên được phân chia rõ ràng, không chồng chéo, phù hợp với
yêu cầu của tổ chức sẽ làm cho người lao động thấy rõ được vị trí của mình trong tổ
chức qua đó sẽ chủ động, linh hoạt thực hiện nhiệm vụ một cách nhanh chóng và
hiệu quả .Tuy nhiên nếu cơ cấu tổ chức không hợp lý, thiếu sự rõ ràng, thiếu linh
hoạt sẽ dẫn đến sự trì trệ, làm cho người lao động không nắm rõ được vị trí cũng
như không nắm rõ được tránh nhiệm , nhiệm vụ cụ thể của mình đối với tổ chức sẽ
khiến hiệu quả công việc không được cao và không được như mong đợi.
Chính sách nhân sự: Mỗi tổ chức sẽ có những chính sách trong công tác
quản trị nhân lực khác nhau: Chính sách tiền lương, thưởng, chế độ đãi ngộ, chính
sách đào tạo… Khi ban hành và áp dụng các chính sách trong tổ chức sẽ tác động
trực tiếp đến cá nhân người lao động như quyền lợi và trách nhiệm của họ. Mỗi
chính sách cụ thể sẽ tác động trực tiếp đến động lực của từng người lao động. Khi
chính sách phù hợp, phát huy được hết khả năng, sở trường của người lao động và
có chế độ đãi ngộ xứng đáng tương xứng với công sức họ sẽ tạo ra động lực làm
việc người lao động và đạt được kết quả cao ngoài mong đợi
Điều kiện làm việc: Trong tổ chức mà điều kiện làm việc của người lao động
được quan tâm, đầu tư về thiết bị an toàn, bảo hộ…sẽ khiến cho người lao động làm
việc cảm thấy yên tâm về tính mạng, sức khỏe được đảm bảo, giúp cho người lao
động có tâm lý ổn định, chuyên tâm, tập trung vào công việc hơn rất nhiều. Khi họ
được làm việc trong điều kiện làm việc tốt nhất, được trang bị trang thiết bị tốt nhất
thì sẽ tạo ra năng suất và chất lượng lao động cao, sẽ có động lực làm việc tốt hơn
và tạo hiệu quả cao. Do vậy cần phải tạo ra điều kiện làm việcthuận lợi nhất cho
người lao động để tạo rađộng lực lao động cho họ. Vì vậy người quản lý cần xem
xét các vấn đề trang thiết bị nơi làm việc sao cho đầy đủ, bố trí hợp lý và khoa học,
phương tiện kỹ thuật đảm bảo về không gian diện tích, phù hợp với thị lực của
người lao động, tạo tư thế hợp lý tiết kiệm động tác, quan trọng hơn cả là phải đảm
bảo an toàn sức khỏe có như vậy mới tạo hứng thú cho người lao động.
15
Mô hình công việc: Mỗi người lao động sẽ đảm nhiệm một công việc nhất
định trong một tổ chức. Khi công việc phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ của
người lao động và công việc đó hấp dẫn với người lao động sẽ mang lại hứng thú
làm việc và yêu thích, đam mê với công việc mình đang làm. Tùy vào sở trường và
năng lực của mỗi người lao động sẽ cảm thấy phù hợp với những vị trí công việc
khác nhau. Có người lại thích công việc văn phòng, hành chính nhưng cũng lại có
những người thích công việc có nhiều tính sáng tạo hay những công việc cần sự
năng động di chuyển nhiều… Lúc đó vai trò của người làm tổ chức phải biết sắp
xếp, phân công lao động hợp lý để người lao động có thể phát huy hết năng lực và
sở trường của họ một cách tối đa nhất. Như vậy họ mới có động lực tốt nhất để làm
việc và tạo ra năng suất và chất lượng lao động.Động lực của người lao động chịu
tác động và ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Trong đó nhóm nhân tố thuộc
về công việc bao gồm:
Mức độ phức tạp của công việc
Mức độ chuyên môn hóa trong công việc
Sự mạo hiểm, rủi ro của công việc
Các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để thực hiện công việc.
Mức độ hao phí về trí lực
Tính hấp dẫn của công việc
Tính chất của công việc bao gồm :
Mức độ phức tạp của công việc
Mức độ chuyên môn hóa
Các yêu cầu của công việc bao gồm:
Các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để thực hiện công việc
Sự mạo hiểm rủi ro của công việc
Mức độ hao phí về trí lực
Có thể thấy công việc ngoài khả năng có thể làm đượcngười lao động sẽ cảm
thấy áp lực, căng thẳng. Nếu công việc quá dễ mà giao cho người có chuyên môn
cao sẽ tạo cho họ cảm giác nhàm chán, đôi khi có những cảm xúc tiêu cực như
không được ghi nhận hay đánh giá đúng năng lực dẫn đến sự lãng phí tài năng.
Người quản lý cần phải giao đúng người đúng việcđể phát huy được năng lực và
16
thái độ tích cực làm việc của người lao động. Quy trình sản xuất máy móc hiện đại
sẽ giúp người lao động tiết kiệmđược một lượng lớn sức lao động, giúp công
việcnhẹ nhàng hơn, an toàn hơn dẫn đến tăng năng suất lao động. Đó là nhân tố tạo
động lực cho người lao động
Văn hóa tổ chức: Là quá trình hình thành kể từ khi thành lập tổ chức, bao
gồm hệ thống các chính sách, tác phong, phong cách làm việc và các quan hệ trong
tổ chức phải trong sáng, lành mạnh sẽ tạo ra môi trường làm việc tốt, thu hút, lôi
cuốn được người lao động làm việc và cống hiến, giữ chân được nhân viên trung
thành với tổ chức. Văn hóa tổ chức được xây dựng nên bởi cả một tập thể chứ
không phải do cá nhân nào trong tổ chức, trong cả một quá trình lâu dài, khi người
lao động làm việc trong tổ chức họ sẽ quen, bắt nhịp và hòa hợp với môi trường văn
hóa ở đây.Vì vậy văn hóa tổ chức lành mạnh, văn minh, người lao động đoàn kết,
trung thành sẽ là động lực rất lớn để họ muốn gắn bó lâu dài với tổ chức sẽ mang lại
hiệu quả cao trong công việc.
Các nhân tố bên ngoài tổ chức
Quy định và Pháp luật của Nhà nước: các quy định của Luật pháp và của
Chính phủ đặc biệt là những quy định của luật pháp về lao động là cơ sở pháp luật
quan trọng để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động.
Luật pháp nói chung và luật pháp về lao động nói riêng đảm bảo cho mọi người sự
bình đẳng trên thị trường lao động, chống lại sự phân biệt đối xử. Khi luật pháp về
lao động càng hoàn thiện nghiêm minh và hiệu lực thì người lao động càng yên tâm
hơn trong lao động do đó hệ thống pháp luật của đất nước nói chung và hệ thống
pháp luật về lao động nói riêng tạo động lực lớn cho người lao động yên tâm công
tác và tin tưởng vào việc quyền lợi được thực thi và bảo vệ
Bối cảnh kinh tế: Người lao động sẽ chịu những tác động tùy thuộc vào bối
cảnh và xu hướng ở hiện tại. Nếu ở bối cảnh kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng
cao lúc này lao động có xu hướng tìm kiếm công việc ổn định hơn là tìm kiếm công
việc có thu nhập cao. Ngược lại trong bối cảnh nền kinh tế đang trên đà phát triển
mạnh, kinh tế khởi sắc thì nhu cầu, mong muốn có một công việc với thu nhập cao,
năng động, chế độ đãi ngộ tốt sẽ tác động đến người lao động.Vì vậy các nhà quản
lý phải có chính sách quản lý một đội ngũ lao động phù hợp để họ bắt kịp với xu
hướng biến đổi thời đại và nhất là hiện nay đang ở thời đại công nghệ cần sự nhạy
17
bén, nhanh nhạy, qua đó các nhà quản lý phải tạo rađộng lực cho người lao động
Đặc điểm ngành: Mỗi ngành và mỗi lĩnh vực đều có những đặc thù, tính chất
công việc khác nhau, vì vậy mỗi ngành đều có những tác động khác nhau đến động
lực của người lao động. Nếu lĩnh vực hoạt động hành chính công hướng đến sự ổn
định, lâu dài, theo nguyên tắc theo đúng quy trình thì đây sẽ là động lực để những
lao động có mục tiêu làm việc ổn định hướng đến. Đối với lao động có mục tiêu làm
việc năng động, chuyển dịch, thu nhập cao, được sáng tạo trong công việc thường
tìm đến lĩnh vực về ngân hàng, kinh tế, tài chính, du lịch… Do vậy ngành làm việc,
đặc thù công việc cũng là một trong những động lực để người lao động tìm kiếm.
Khi người lao động cảm thấy phù hợp với ngành nghề của mình thì sẽ cảm thấy tự
hào, muốn gắn bó, tâm huyết với ngành nghề mình làm việc.
1.3.1. Sự cần thiết phải tạo động lực lao động
Sự cần thiết phải tạo động lực lao động đối với người lao động : Tạo động
lực cho người lao động rất quan trọng và mang một ý nghĩa rất lớn, việc quan tâm
và làm tốt công tác tạo động lực cho người lao động đem lại lợi ích không chỉ cho
các nhân người lao động mà còn mang lại lợi ích cho tổ chức và cho xã hội. Công
việc là một phần cuộc sống của người lao động khi người lao động được làm việc
phù hợp với khả năng năng lực của bản thân thì sẽ mang lại tâm lý thoải mái sẽ đẩy
lùi được bệnh tật do tinh thần không thoái mái gây nên và tránh khỏi những tai nạn
lao động đáng tiếc xảy ra do tâm lý căng thẳng. Tạo động lực chính là giúp người
lao động hăng say làm việc, tăng năng suất lao động và tăng thu nhập lao động, qua
đó người lao động sẽ có cơ hội học hỏi cũng như cơ hội nâng cao kiến thức bản thân
và tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí
Sự cần thiết phải tạo động lực lao động đối với tổ chức: Mục tiêu cơ bản
và quan trọng nhất của tổ chức đó là hiệu quả của sản xuất kinh doanh, để thực
hiện được mục tiêu đó thì con người mà ở đây chính là người lao động đóng vai
trò quyết định. Chính vì vậy tổ chức cần phải quan tâm đến người lao động cũng
như quan tâm đến những giải pháp nhằm động viên khuyến khích người lao động
để người lao động mang hết khả năng làm việc, giữ chân người lao động, tạo
động lực để họ gắn bó với tổ chức. Khi người lao động tích cực làm việc sẽ làm
tăng hiệu quả lao động, nâng cao năng suất, tăng doanh thu và lợi nhuận cho tổ
chức. Tạo động lực lao động chính là biện pháp sử dụng người lao động hiệu quả
18
nhất tốn ít chi phí nhất và mang lại hiệu quả cao nhất qua đó tăng năng suất lao
động của tổ chức. Khi một tổ chức tạo động lực lao động tốt sẽ thu hút được người
lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao và góp phần làm giảm chi phí về
lao động ngoài ra việc tạo động lực lao động còn gióp phần nâng cao uy tín,
thương hiệu, hình ảnh của tổ chức, nó xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người
lao động với nhau, mỗi quan hệ giữa người lao động và tổ chức qua đó xây dựng
văn hóa tổ chức được lành mạnh
Sự cần thiết phải tạo động lực lao động đối với xã hội : việc tạo động lực lao
động sẽ thúc đẩy tăng năng suất lao động, việc tăng năng suất lao động với tốc độ
nhanh và quy mô lớn sẽ tạo điều kiện tăng thu nhập kinh tế quốc dân và giải quyết
thuận lợi giữa tiêu dùng và tích lũy. Việc tạo động lực lao động tăng năng suất lao
động làm cho của cải trong xã hội ngày càng nhiều điều đó dẫn đến tăng trưởng
kinh tế, tăng trưởng kinh tế sẽ tác động ngược lại làm cho người lao động thỏa mãn
được các nhu cầu của bản thân ngày càng phong phú và đa dạng, đời sống được
hạnh phúc ấm no xã hội sẽ ổn định và phồn vinh.
1.3.2. Tạo động lực cho cán bộ nghiên cứu khoa học
1.3.2.1. Đặc điểm của lao động nghiên cứu khoa học
Độ tuổi: đặc điểm độ tuổi của lao động nghiên cứu khoa học trung bình trên
30 tuổi.
Giới tính: đặc điểm giới tính của lao động nghiên cứu khoa học chủ yếu là
nam giới.
Yêu cầu đối với lao động nghiên cứu khoa học: những người nghiên cứu
khoa học cần đáp ứng được những yêu cầu sau:
Có trình độ chuyên môn: những người có trình độ chuyên môn tuy nhiên
không thể nói rằng việc nghiên cứu khoa học là công việc của những người có học
thức nhưng những người không đủ trình độ chuyên môn hoặc trình độ học vấn tối
thiểu thì không thể làm nghiên cứu khoa học vì vậy những người làm nghiên cứu
khoa học phải học thêm đọc thêm và học hỏi thêm về chuyên môn nếu không những
gì họ phát hiện thấy tìm thấy cũng chỉ dừng lại ở mức kinh nghiệm mà những kinh
nghiệm như vậy cần được kiểm chứng cũng như xác định phạm vi ứng dụng … của
những người có chuyên môn. Bên cạnh đó lao động làm việc trong lĩnh vực nghiên
cứu khoa học cũng cần có kỹ năng sử dụng máy móc thiết bị kỹ thuật giúp làm cho
19
công việc tiến triển được nhanh hơn kết quả chính xác hơn.
Có phương pháp làm việc khoa học: lao động làm việc trong lĩnh vực nghiên
cứu khoa học cần có khả năng và phương pháp tư duy, khả năng phát hiện vấn đề và
nhìn nhận vấn đề bắt đầu nghiên cứu, khả năng thu và xử lý số liệu, khả năng vạch
kế hoạch làm việc thật khoa học tiết kiệm thời gian và kinh tế, khả năng trình bảy
vấn đề khoa học có kỹ thuật rõ ràng dễ hiểu.
Có đức tính của nhà khoa học chân chính : lao động làm việc trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học cần say mê khoa học, nhạy bén với sự kiện xảy ra, cẩn thận
khi làm việc, kiên trì nghiên cứu, trung thực kết quả.
Lĩnh vực nghiên cứu : các lĩnh vực nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu
cơ bản , nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai, nghiên cứu dự báo.
1.3.2.2. Nội dung tạo động lực làm việc cho người lao động
a.Xác định nhu cầu của người lao động
Theo như học thuyết của Maslow, nhu cầu của con người được chia thành
năm loại và được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao trong đó nhóm nhu cầu bậc
thấp bao gồm nhu cầu về sinh lý vật chất, nhu cầu về an toàn, nhu cầu về xã hội và
nhu cầu bậc cao bao gồm nhu cầu tôn trọng và nhu cầu tự hoàn thiện mình. Hệ
thống nhu cầu của con người rất phức tạp và luôn luôn biến đổi tuy nhiên khi một
nhu cầu được đáp ứng và thỏa mãn thì nhu cầu tiếp theo trở nên quan trọng. Tại một
thời điểm nhất định nhu cầu nào mạnh nhất sẽ kích thích con người hành động và
một khi nhu cầu đó đã được thỏa mãn thì nhu cầu đó sẽ không còn là động lực để
dẫn đến hành động của con người nữa. Người lao động cũng vậy, hành vi của người
lao động xuất phát từ việc nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của bản thân người lao
động như nhu cầu có mức lương cao, nhu cầu được thăng tiền, được đề bạt, được
khen thưởng hay được người khác tôn trọng….Tùy vào từng giai đoạn nghề nghiệp,
quy mô của tổ chức hay khu vực địa lý của doanh nghiệp, văn hóa của mỗi nước mà
người lao động có nhu cầu khác nhau. Do đó để tạo động lực cho người lao động
làm việc hiệu quả nhằm tăng năng suất lao động thì tổ chức hay chính là nhà lãnh
đạo nhà quản lý phải xác định được nhu cầu và mong muốn của người lao dộng đối
với công việc là gì, và nhu cầu nào là ưu tiên hàng đầu của người lao động để từ đó
nhà lãnh đạo hay quản lý có thể đưa ra những biện pháp phù hợp nhằm thỏa mãn
nhu cầu của người lao động từ đó tạo động lực tăng năng suất cũng như hiệu quả
20
công việc. Trong tổ chức để tạo động lực lao động hiệu quả thì nhà lãnh đạo, nhà
quản lý cần phải xác định xem nhu cầu nào của người lao động là nhu cầu cấp thiết
của đại bộ phận người lao động và phân loại nhu cầu theo từng nhóm người lao
động như nhu cầu của lao động nữ, nhu cầu của lao động nam, hay nhu cầu của bộ
phận quản lý… để từ đó đưa ra những biện pháp phù hợp với từng nhóm người lao
động và xây dựng kế hoạch tạo động lực hợp lý thỏa mãn nhu cầu có sự ưu tiên nhu
cầu cấp bách trước và sau.
Để xác định được nhu cầu của người lao động nhà lãnh đạo và nhà quản lý
có thể dùng phương pháp khảo sát điều tra qua các câu hỏi được thiết kế sẵn hoặc
có thể xác định qua phương pháp phỏng vấn trao đổi trực tiếp giữa nhà lãnh đạo,
nhà quản lý và người lao động. Kết quả thu thập được qua các phương pháp nên
trên sẽ được phân loại theo nhu cầu thực tế của người lao động theo các nhóm đối
tượng và từ đó đưa ra những biện pháp hay xây dựng kế hoạch phù hợp nhằm đáp
ứng thỏa mãn nhu cầu của từng nhóm đối tượng người lao động.
b. Các biện pháp tạo động lực bằng công cụ tài chính
Các biện pháp kích thích tài chính đối với người lao động đó là việc sử dụng
tiền công, tiền lương, thưởng là công cụ cơ bản để kích thích vật chất đối với người
lao động. Theo học thuyết Maslow chỉ ra rằng nhu cầu tối thiểu đầu tiên và cơ bản
nhất là nhu cầu sinh lý vật chất có nghĩa là người lao động quan tâm đầu tiên đến
đến nhu nhập là tiền công hay tiền lương có thể đảm bảo được cuộc sống thỏa mãn
nhu cầu sinh lý vật chất của bản thân người lao động và gia đình người lao động.
Theo F.W.Taylor đã viết rằng “Không thể kiến một người làm việc hăng say hơn
những nhân viên khác trong thời gian dài trừ khi họ được hứa hẹn một khoản tăng
lương đáng kể và ổn định” tiền lương không chỉ thể hiện giá trị công việc hiện tại
của người lao động mà còn thể hiện giá trị cũng như địa vị của người lao động trong
tổ chức và cả trong xã hội. Theo học thuyết công bằng của Stacy Adam việc trả
lương, tiền công cũng như tiền thưởng cần tương xứng với những gì người lao động
đóng góp cho tổ chức. Việc trả lương, thưởng, tiền công cho người lao động phải
tuân thủ theo nguyên tắc nhất định và phải phù hợp với tình hình sản xuất kinh
doanh của tổ chức tuy nhiên tiền lương trả cho người lao động cũng phải luôn tương
xứng với công sức của người lao động. Do vậy tiền lương, tiền công, tiền thưởng
phải được trả thỏa đáng và công bằng mới có thể khuyến khích và kích lệ được tinh