BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Nguyễn Anh Như
ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ TRONG TÌNH YÊU
CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Nguyễn Anh Như
ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ TRONG TÌNH YÊU
CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Tâm lí học
Mã số
: 60 31 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHAN THỊ TỐ OANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hỗ trợ của
giáo viên hướng dẫn là TS. Phan Thị Tố Oanh. Các nội dung nghiên cứu, kết quả và số liệu
được trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì
công trình nghiên cứu nào trước đây. Những thông tin, nhận xét về đề tài của các tác giả
khác được sử dụng trong luận văn đều có nguồn gốc minh bạch và trích dẫn rõ ràng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Pháp luật và Hội đồng về kết quả luận văn
nếu phát hiện bất kì sự gian lận nào.
Tác giả
Lê Nguyễn Anh Như
2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, bên cạnh sự nỗ lực không ngừng của bản
thân, tôi nhận được rất nhiều sự hướng dẫn, giúp đỡ, hỗ trợ nhiệt tình từ các cá
nhân và tập thể.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến tập thể thầy cô và ban quản lí
trường Đại học Sư phạm, quí thầy cô khoa Tâm lí học cùng các thầy cô phòng Sau
Đại học.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả quý thầy cô đã dạy dỗ, dìu dắt và đóng góp
nhiều ý kiến quý báu trong quá trình học tập và nghiên cứu của tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả sinh viên của trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Công nghiệp; các đồng
nghiệp đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi tập trung nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành cảm ơn người
hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Tố Oanh. Cô đã trực tiếp chỉ bảo và luôn động
viên tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
………………………………………………………………………………………………………….
3
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ………………………………………………………………………………………….. 1
LỜI CẢM ƠN ……………………………………………………………………………………………….. 2
MỤC LỤC …………………………………………………………………………………………………….. 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
………………………………………………………………. 5
MỞ ĐẦU
……………………………………………………………………………………………………….. 6
1. Lý do chọn đề tài ………………………………………………………………………………………………
6
2. Mục đích nghiên cứu ………………………………………………………………………………………..
7
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
……………………………………………………………………
8
4. Giả thuyết khoa học ………………………………………………………………………………………….
8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ………………………………………………………………………………………..
8
6. Giới hạn của đề tài ……………………………………………………………………………………………
8
7. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………………………………….
8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ TRONG TÌNH
YÊU CỦA SINH VIÊN ………………………………………………………………………………… 11
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề …………………………………………………………………
11
1.1.1. Ngoài nước ………………………………………………………………………………………………
11
1.1.2. Trong nước ………………………………………………………………………………………………
12
1.2. Giá trị và định hướng giá trị
…………………………………………………………………………
13
1.2.1. Giá trị
………………………………………………………………………………………………………
13
1.2.2. Định hướng giá trị …………………………………………………………………………………….
20
1.3. Tình yêu và tình yêu của sinh viên ………………………………………………………………..
24
1.3.1. Khái niệm tình yêu ……………………………………………………………………………………
24
1.3.2. Khái niệm tình yêu sinh viên………………………………………………………………………
27
1.3.3. Cơ chế của tình yêu …………………………………………………………………………………..
28
1.3.4. Vai trò của tình yêu …………………………………………………………………………………..
31
1.4. Hệ thống giá trị tình yêu và định hướng giá trị tình yêu của sinh viên ……………
31
1.4.1. Hệ thống giá trị trong tình yêu của sinh viên ………………………………………………..
31
1.4.2. Định hướng giá trị trong tình yêu của sinh viên ……………………………………………
34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ TRONG TÌNH YÊU
CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
………………………………………………………………………………………………………….. 41
2.1. Thể thức nghiên cứu …………………………………………………………………………………….
41
4
2.1.1. Mô tả mẫu nghiên cứu
……………………………………………………………………………….
41
2.1.2. Mô tả công cụ nghiên cứu ………………………………………………………………………….
41
2.2. Thực trạng định hướng giá trị trong tình yêu của sinh viên một số trường đại
học tại thành phố Hồ Chí Minh …………………………………………………………………………..
44
2.2.1. Nhận định về sự thay đổi các giá trị trong tình yêu ở sinh viên một số trường đại
học tại thành phố Hồ Chí Minh
……………………………………………………………………………
44
2.2.2. Nhận thức về các giá trị trong tình yêu của sinh viên một số trường ……………….
46
2.2.3. Thái độ đối với các giá trị trong tình yêu của sinh viên một số trường đại học tại
thành phố Hồ Chí Minh
………………………………………………………………………………………
58
2.2.4. Hành vi thể hiện các giá trị trong tình yêu của sinh viên một số trường đại học tại
thành phố Hồ Chí Minh
………………………………………………………………………………………
64
2.2.5. Mối tương quan giữa nhận thức – thái độ – hành vi trong định hướng giá trị tình
yêu của sinh viên ……………………………………………………………………………………………….
73
2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị trong tình yêu của sinh viên ………
74
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ
TRONG TÌNH YÊU CHO SINH VIÊN
………………………………………………………… 79
3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp ……………………………………………………………………………….
79
3.1.1. Cơ sở lí luận …………………………………………………………………………………………….
79
3.1.2. Cơ sở thực tiễn …………………………………………………………………………………………
79
3.2. Một số biện pháp cụ thể………………………………………………………………………………..
82
3.2.1. Sinh viên tự phát huy năng lực nhận thức, tự giáo dục định hướng giá trị tình yêu
cho bản thân………………………………………………………………………………………………………
82
3.2.2. Xây dựng môi trường tốt đẹp, đảm bảo tính giáo dục trong gia đình nhất là đối
với vấn đề định hướng giá trị tình yêu ………………………………………………………………….
84
3.2.3. Hình thành môi trường học tập, sinh hoạt tích cực, khoa học trong nhà trường để
sinh viên có định hướng giá trị tình yêu đúng đắn
………………………………………………….
87
3.2.4. Đảm bảo môi trường sống lành mạnh, an toàn và tích cực trong xã hội cho sinh
viên trong vấn đề TY, TD, giới tính
……………………………………………………………………..
92
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………………………………………….. 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………………………….. 100
PHỤ LỤC ………………………………………………………………………………………………….. 105
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHGT
: Định hướng giá trị
ĐHNV
: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
ĐHCN
: Đại học Công Nghiệp
ĐHTN
: Đại học Khoa học Tự nhiên
ĐLC
: Độ lệch chuẩn
ĐTB
: Điểm trung bình
GT
: Giá trị
Nxb
: Nhà xuất bản
QHTD
: Quan hệ tình dục
SL
: Số lượng
TD
: Tình dục
TY
: Tình yêu
XH
: Xã hội
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo kết quả nghiên cứu của tâm lí học phát triển, tuổi sinh viên là lứa tuổi mà con
người đạt đến trình độ phát triển sung mãn, trưởng thành về mặt thể chất lẫn tinh thần. Tuổi
sinh viên là thời kì phát triển tích cực của các loại tình cảm cao cấp như tình cảm trí tuệ,
tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mĩ. Tình bạn khác giới, cùng giới ở sinh viên tiếp tục
phát triển theo chiều sâu. Bên cạnh đó, tình yêu nam – nữ ở lứa tuổi sinh viên là một lĩnh
vực rất đặc trưng. Theo Erik Erickson, giai đoạn từ 18 – 20 tuổi là lúc con người thiết lập
mối tương quan mật thiết với người khác phái để bắt đầu quá trình lập gia đình. Nếu không
thành công trong việc thiết lập mối quan hệ tình cảm này, nó sẽ dẫn đến hiện tượng xa lánh
người khác và con người bị cô độc. Nhìn chung, sinh viên thường khao khát khẳng định bản
thân, lập nên sự nghiệp trong xã hội. Họ quan tâm đặc biệt đến sự thành đạt trong sự nghiệp,
xác định vị thế xã hội, tình yêu và xây dựng cuộc sống gia đình.
Định hướng giá trị là một trong những lĩnh vực cơ bản và quan trọng trong đời sống
tâm lí của người sinh viên. Nó có quan hệ mật thiết với xu hướng nhân cách và kế hoạch
đường đời của sinh viên. Định hướng giá trị phát triển mạnh vào giai đoạn cuối tuổi thiếu
niên và đầu tuổi thanh niên khi con người phải đứng trước việc chọn nghề nghiệp tương lai
và bạn tâm giao để gắn bó lâu dài. Định hướng giá trị trong tình yêu ở lứa tuổi sinh viên có
vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng mạnh mẽ đến hạnh phúc gia đình sau này. Vì định
hướng giá trị là cơ sở bên trong của hành vi, quyết định lối sống của con người. Do đó, chỉ
có định hướng giá trị đúng đắn trong tình yêu thì các bạn sinh viên mới có được nhận thức,
thái độ và hành vi phù hợp trong tình yêu để đạt được hạnh phúc trong mối quan hệ cá nhân
lẫn đời sống gia đình sau này và góp phần đạt được thành công khác trong cuộc sống.
Xét về mặt thực tiễn, những công trình nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng con
người vừa là đối tượng vừa là nhân tố chính của sự phát triển kinh tế – xã hội. Thanh niên,
sinh viên là một trong những lực lượng quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Việt
Nam là quốc gia có dân số trẻ. Nước ta có tỉ lệ dân số tuổi thành niên và trưởng thành (từ 15
đến 29 tuổi) là 29,3 % [10, tr.31]. Như vậy, lứa tuổi thành niên – trưởng thành (bao gồm cả
lứa tuổi sinh viên) chiếm phần lớn dân số. Điều này cho thấy bất kì sự thay đổi nào trong
ĐHGT của họ nói chung và ĐHGT trong TY nói riêng cũng phản ánh diện mạo và có ảnh
7
hưởng lớn đến XH.
Theo số liệu của Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009 (Tổng Cục thống kê, Tổng
điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Cấu trúc tuổi-giới tính và tình trạng hôn nhân
ở Việt Nam), toàn quốc có khoảng 286,5 nghìn nam giới và hơn 658 nghìn phụ nữ ly hôn/ly
thân và có xu hướng ngày càng gia tăng. Xét về mặt nguyên nhân, trong kết quả Điều tra gia
đình Việt Nam năm 2006 (UNICEF, 2008) thì trong số các vụ li hôn có 28% do mâu thuẫn
về lối sống, 26% do ngoại tình và chỉ có 2,2% là do sức khỏe [10, tr.120]. Kết quả nghiên
cứu này càng khẳng định mạnh mẽ vai trò quan trọng của định hướng giá trị trong tình yêu.
Có câu “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, việc nghiên cứu vấn đề trên khách thể sinh viên-
những công dân sắp bước vào đời sống gia đình thật sự hợp lí và có ý nghĩa lớn trong việc
giúp các bạn sinh viên trẻ có mối quan hệ tình yêu bền vững và thấu hiểu lẫn nhau trong đời
sống gia đình sau này.
Mặt khác, xét về lĩnh vực khoa học, các nghiên cứu về định hướng giá trị đã được
nhiều nhà chuyên môn tìm hiểu tuy nhiên, vấn đề định hướng giá trị trong tình yêu của sinh
viên một số trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh (đại học Khoa học Xã hội và Nhân
Văn, đại học Khoa học Tự Nhiên và đại học Công nghiệp) chưa được quan tâm khảo sát. Vì
vậy, việc tìm hiểu cụ thể định hướng giá trị trong tình yêu của sinh viên một số trường này
là cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, người nghiên cứu quyết định tìm hiểu đề tài “Định
hướng giá trị trong tình yêu của sinh viên một số trường đại học tại thành phố Hồ Chí
Minh”. Nó không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thiết thực giúp các
bạn trẻ nhận ra các giá trị quan trọng trong tình yêu để củng cố, cải thiện mối quan hệ và
hướng tới việc xây dựng gia đình hạnh phúc, làm lợi cho xã hội theo như Tổng thư ký Liên
Hiệp Quốc đã nhấn mạnh: “Chúng ta quay trở lại những yếu tố cơ bản của xã hội loài người
(gia đình) nhằm hướng đến một chương trình rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn cho công bằng
xã hội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị trong tình yêu của sinh viên; trên cơ sở đó, đề
xuất một số biện pháp nhằm tác động phù hợp, tích cực đến định hướng giá trị của sinh viên
trong tình yêu.
8
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
– Đối tượng nghiên cứu: Định hướng giá trị trong tình yêu của sinh
– Khách thể nghiên cứu: Sinh viên một số trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh
4. Giả thuyết khoa học
– Hệ thống các giá trị trong tình yêu vẫn có sự kết hợp của các giá trị truyền thống lẫn
hiện đại. Trong đó, các vấn đề liên quan đến giới tính – tình dục được sinh viên ngày nay
xem xét là một giá trị trong tình yêu.
– Phần lớn các sinh viên có nhận thức, thái độ và hành vi tích cực đối với các giá trị
trong tình yêu và có sự khác biệt trong định hướng giá trị về tình yêu giữa các nhóm sinh
viên khác nhau trên các khía cạnh là trường học, giới tính và số năm học.
– Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị tình yêu của sinh viên nhưng quan
trọng nhất vẫn là yếu tố xuất phát từ bản thân sinh viên – nhóm yếu tố bên trong.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Nghiên cứu những vấn đề lí luận về giá trị, tình yêu, định hướng giá trị và định
hướng giá trị trong tình yêu của sinh viên.
– Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng định hướng giá trị trong tình yêu của sinh
viên một số trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh
– Đề xuất một số biện pháp giáo dục định hướng giá trị trong tình yêu cho sinh viên.
6. Giới hạn của đề tài
– Giới hạn đối tượng nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu định hướng giá trị về
tình yêu trong hệ thống nhân cách của sinh viên.
– Giới hạn không gian và thời gian nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu 599
sinh viên 3 trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh (trong năm học 2013-2014): Trường
đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường đại học Khoa học Tự nhiên và Trường Đại
học Công nghiệp (nhóm ngành kinh tế).
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận: Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, người viết dựa
trên các phương pháp luận là quan điểm thực tiễn, quan điểm hệ thống cấu trúc và quan
9
điểm hoạt động – nhân cách.
• Quan điểm thực tiễn đòi hỏi trong quá trình tìm hiểu, người nghiên cứu phải dựa trên
nền tảng thực tiễn để đảm bảo tính khách quan và nhằm phục vụ lại cho thực tiễn. Do đó, đề
tài nghiên cứu phải được xuất phát từ nhu cầu của thực tế xã hội và vừa có ý nghĩa lí luận
vừa có ý nghĩa thực tiễn.
• Quan điểm hệ thống cấu trúc yêu cầu người nghiên cứu khi tiến hành tìm hiểu vấn đề
phải xem xét nó một cách toàn diện, trên nhiều khía cạnh khác nhau và đặt trong nhiều mối
quan hệ, trong trạng thái vận động phát triển và trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
• Quan điểm hoạt động – nhân cách nói lên mối quan hệ thống nhất giữa nhân cách và
hoạt động của con người. Vì thế, trong quá trình nghiên cứu nhân cách con người nói chung,
người nghiên cứu phải xem xét và dựa vào yếu tố quan trọng là hoạt động, hành động của
con người.
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phương pháp này được sử dụng để xây dựng cơ sở lí luận và phương pháp nghiên
cứu của đề tài. Nó cung cấp các thông tin cơ bản và cũng là nền tảng để nghiên cứu thực
tiễn của đề tài.
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
• Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đây là phương pháp nghiên cứu chủ yếu
của đề tài. Phương pháp này nhằm thu thập các thông tin định tính và định lượng với số
lượng mẫu lớn về thực trạng nghiên cứu của đề tài.
• Phương pháp phỏng vấn: Đây là phương pháp nghiên cứu bổ trợ nhằm khẳng định
lại thông tin chưa rõ, đáng ngờ đã thu thập được trong phiếu điều tra. Người nghiên cứu tiến
hành phỏng vấn quan niệm, suy nghĩ của sinh viên đối với các vấn đề liên quan đến tình yêu
được đề cập đến trong đề tài.
• Phương pháp quan sát: Đây là phương pháp nghiên cứu bổ trợ nhằm khẳng định
lại kết quả nghiên cứu. Nó làm tăng tính thực tiễn, thực tế của kết quả nghiên cứu. Người
nghiên cứu quan sát những biểu hiện về mặt hành vi như cách thức đối xử, thể hiện tình
cảm… của sinh viên đối với người yêu.
• Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Đây là phương pháp bổ trợ cho quá trình
10
nghiên cứu đề tài. Người nghiên cứu tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn nhằm tăng
tính khả thi, thành công khi tiến hành nghiên cứu bằng việc tham vấn và lựa chọn những ý
kiến tối ưu nhất.
7.2.3. Phương pháp thống kê toán học
Đây là phương pháp chủ yếu để xử lí, phân tích thông tin thu được từ phiếu điều tra
dựa trên việc ứng dụng phần mềm SPSS.
11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ
TRONG TÌNH YÊU CỦA SINH VIÊN
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
ĐHGT là một vấn đề phức tạp và có tính biến đổi liên tục trong lĩnh vực nghiên cứu
về con người nói chung và tâm lí học nói riêng. Nó được tìm hiểu bởi nhiều nhà khoa học
trong và ngoài nước với những công trình có thể được đề cập đến như sau:
1.1.1. Ngoài nước
Xét về các nghiên cứu liên quan đến ĐHGT của con người, trong tâm lí học Xô Viết,
các nhà tâm lí học chủ yếu tìm hiểu nó dưới khía cạnh xu hướng nhân cách. Xu hướng nhân
cách này được phân tích theo nhiều cách khác nhau như “Động cơ tạo ý” (Leonchev), “Xu
thế năng động” (Rubinstein), “Quan hệ chiếm ưu thế” (Miaxishev), “Tổ chức cơ động các
sức mạnh bản chất của con người” (Pranghishvili) hay “Xu hướng sống cơ bản” (Ananhev)
nhưng những quan điểm này đều được xây dựng dựa trên nền tảng chung là phương pháp
luận Mác-xít; và với các nhà tâm lí học Xô Viết, “tất cả đều cho rằng xu hướng là đặc điểm
chủ đạo của nhân cách” [24, tr.466]. Một cách chung nhất, họ đánh giá xu hướng thể hiện
mối liên hệ giữa các GT (vật chất lẫn tinh thần) mà con người tiếp thu từ XH. Xu hướng
được tạo ra trong quá trình xã hội hóa cá nhân và phát triển nhân cách. Nó là một thuộc tính
của nhân cách, qui định các đặc điểm tâm lí của con người.
Không chỉ được nghiên cứu sâu rộng về mặt lí luận, ĐHGT còn được khảo sát trong
thực tiễn một cách rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Dựa trên các kết quả nghiên cứu
về 13 cách sống (trung dung, triệt để, yêu thương, thụ lạc, hợp tác, nỗ lực, đa sắc, an lạc, thụ
nhận, kìm nén, suy tưởng, hành động và phục vụ) và ĐHGT sống của C. Morris, các nhà
khoa học ở 6 nước là Mĩ, Nhật, Trung Quốc, Indonesia và Nauy đã tiến hành điều tra trên
đối tượng là sinh viên tại các trường đại học để tìm hiểu về cách sống của họ. [30 , tr.37]
Ngoài ra, GT và ĐHGT là những đề tài có tính ứng dụng rất lớn. Chương trình “Giáo
dục các giá trị sống” (LVEP) được UNESCO, Ủy ban UNICEF hỗ trợ đã triển khai trên 80
quốc gia khác nhau. Nó hướng dẫn nhằm giúp cho học sinh, thanh niên – sinh viên khám
phá ra 12 GT sống căn bản của loài người là hòa bình, tôn trọng, yêu thương, khoan dung,
trung thực, khiêm tốn, hợp tác, hạnh phúc, trách nhiệm, giản dị, tự do và đoàn kết. [12]
12
Tóm lại, ĐHGT và GT là những đề tài nghiên cứu có lịch sử phát triển lâu dài và được
tìm hiểu bởi nhiều nhà khoa học dưới nhiều quan điểm, khía cạnh khác nhau như nghiên
cứu lí luận, khảo sát thực tiễn, ứng dụng vào giáo dục… Dựa trên các công trình nghiên cứu
của mình, các nhà tâm lí học đã tìm được ĐHGT sống của cá nhân cũng như đưa ra hệ
thống các GT thiết yếu, cần có cho con người. Các nghiên cứu cũng chứng minh được tầm
quan trọng và ảnh hưởng lớn của nó đến hành vi, nhận thức và nhân cách con người. Từ đây,
có thể nói, ĐHGT là một đề tài cần được quan tâm tìm hiểu sâu hơn vì tính chất quan trọng,
cần thiết của nó đối với cá nhân và XH, nhất là ở đối tượng sinh viên – người đạt được sự
trưởng thành trong nhân cách để bước vào đời với tư cách là thành viên đóng góp xây dựng
XH.
1.1.2. Trong nước
Công trình nghiên cứu về “ĐHGT con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập”
do tác giả Phạm Minh Hạc & Thái Duy Tuyên chủ trì là kết quả tìm hiểu nhiều năm của các
tác giả về vấn đề ĐHGT con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập trong khuôn khổ
các chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước KX.07 (1991-1995), KHXH.04 (1996-
2000), KX.05 (2001-2005) và là kết quả của sự hợp tác quốc tế về “Điều tra ĐHGT thế
giới” do Viện Nghiên cứu xã hội Đại học Michigan (Mỹ) tiến hành tại Việt Nam
(2001). Trong đó, các tác giả đã điều tra, khảo sát ĐHGT con người Việt Nam mà phần
đông khách thể là học sinh, sinh viên trong thời kì đổi mới và hội nhập trên nhiều lĩnh vực
như vấn đề đồng tiền và sự làm giàu; khoa học, công nghệ, tài năng; nghề nghiệp, việc làm,
cơ cấu, chuyển đổi cơ cấu; cạnh tranh hợp tác; lí tưởng, niềm tin. Đặc biệt, những khảo sát
về ĐHGT trong TY, hôn nhân, gia đình cho thấy có sự lành mạnh trong tình cảm đôi lứa,
trong tiêu chuẩn chọn người yêu, bạn đời. Và các GT được đề cao để có gia đình hạnh phúc
là vợ chồng bình đẳng, vợ chồng cùng có trách nhiệm chăm sóc con cái, tài sản gia đình là
của chung, vợ chồng phải chân thành giúp đỡ nhau, vợ chồng phải biết điều… [30]
Trong bài báo “Một số chỉ báo về ĐHGT của sinh viên các trường đại học hiện nay”
(tạp chí tâm lí học, 2008), tác giả Đặng Vũ Cảnh Linh nghiên cứu về ĐHGT của sinh viên
trong bối cảnh XH hiện đại ngày nay với sự giao thoa văn hóa giữa Đông – Tây. Bài viết thể
hiện một cách ngắn gọn và tổng kết ĐHGT của sinh viên trên các lĩnh vực là các GT trong
tri thức (tri thức thực tiễn, tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học cơ bản…), lao động (yêu
13
nghề, chăm chỉ, đoàn kết, sáng tạo…) và ứng xử (kính trọng người lớn tuổi, hòa thuận với
anh chị em, lịch sự, tôn trọng…).
Luận án Tiến sĩ “Ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến ĐHGT của lứa tuổi đầu
thanh niên” (2002) của tác giả Cấn Hữu Hải nói đến nghiên cứu cơ sở lý luận về gia đình,
truyền thống, truyền thống gia đình dưới góc độ tâm lý học, lý luận về GT, ĐHGT và ảnh
hưởng của truyền thống gia đình đến ĐHGT; khảo sát thực trạng và một số nguyên nhân cơ
bản của thực trạng ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến ĐHGT của lứa tuổi đầu thanh
niên. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất và thử nghiệm biện pháp tác động tâm lý xã hội nhằm
nâng cao ảnh hưởng tích cực của truyền thống học hành, của giáo dục đến việc nhận thức
những GT ở lứa tuổi đầu thanh niên.
Nhìn chung, ở Việt Nam, vấn đề ĐHGT là một đề tài nghiên cứu đã được tìm hiểu từ
lâu và đạt được nhiều kết quả đa dạng. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về ĐHGT
trong TY còn chưa được triển khai rộng nhất là đối với nhóm khách thể sinh viên ở các
trường ĐHNV, ĐHTN và ĐHCN. Vì vậy, vấn đề “Định hướng giá trị trong tình yêu của
sinh viên một số trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh” còn mới mẻ, chưa được tìm
hiểu nhiều. Bên cạnh đó, ĐHGT TY là vấn đề có vai trò quan trọng đối với cuộc sống của
mỗi sinh viên lẫn XH vì theo nhiều nhà nghiên cứu, ĐHGT là cơ sở bên trong của hành vi,
quyết định lối sống cá nhân. Như vậy, chỉ có ĐHGT đúng đắn trong TY mới là nền tảng
vững chắc giúp các sinh viên xây dựng được gia đình hạnh phúc góp phần thúc đẩy XH phát
triển.
1.2. Giá trị và định hướng giá trị
1.2.1. Giá trị
1.2.1.1. Khái niệm giá trị
Từ thời cổ đại, nhân loại đã có những hiểu biết sơ khai về lí luận GT bằng việc xác
định ba GT tổng quát là Chân – Thiện – Mĩ và cho rằng “Con người là thước đo của mọi vật”
[31, tr.30]. Nhưng đến thế kỉ XX, GT học mới được hình thành với tư cách là một khoa học
độc lập và phát triển bùng nổ vào cuối thế kỉ. Trong đó, R. Hartman được coi là cha đẻ của
GT học hiện đại [31, tr.34]. Như vậy, khoa học về GT có lịch sử phát triển lâu đời và ngày
càng đạt được nhiều thành tựu tiến bộ.
Nói về khái niệm GT – khái niệm căn bản nhất của GT học, trong nghiên cứu này,
14
chúng tôi tiến hành tìm hiểu khái niệm GT ở hai phạm trù lớn là khái niệm GT theo từ điển
và khái niệm GT theo quan điểm của các nhà khoa học nước ngoài và trong nước.
Đại từ điển tiếng Việt nêu rõ “GT có 4 ý nghĩa: 1. GT là cái được xác định có ích, có
hiệu quả trong cuộc sống vất chất và tinh thần. Ví dụ: Quyển sách này rất có GT; 2. GT là
xác định hiệu lực của một việc làm. Ví dụ: Giấy giới thiệu này có hiệu lực trong 3 ngày; 3.
GT là kết quả của mọi điều kiện để sản xuất ra hàng hóa; 4. GT là số đo của một đại lượng
hay số được thay thế bằng một kí hiệu. Ví dụ: GT của hàm số” [53].
Theo Từ điển tâm lí học, “GT là phạm trù triết học, XH học, tâm lí học thể hiện những
gì có ích, có ý nghĩa của sự vật, hiện tượng tự nhiên hay XH có khả năng thỏa mãn nhu cầu
và phục vụ lợi ích của con người. Các sự vật hiện tượng được nhìn nhận dưới góc độ có ý
nghĩa hay không có ý nghĩa, có ý nghĩa tích cực hay không tích cực đối với đời sống XH.
Người ta phân loại GT theo nhiều cách khác nhau. GT thiên nhiên (môi trường sống, tài
nguyên…), GT văn hóa lịch sử (thiết chế giáo dục, y tế, công trình kiến trúc, tác phẩm văn
học nghệ thuật), GT tinh thần (tư tưởng, lí tưởng, niềm tin, quan niệm…), GT vật chất, GT
XH (dân chủ, công bằng, tự do…), GT nhận thức, GT đạo đức, GT thẩm mỹ…” [15, tr.209].
Nhà xã hội học người Mĩ H.J. Fichter cho rằng “tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham
chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc XH đều có một GT” [65, tr.53].
Theo nhà nhân chủng học người Mĩ C. Kluckhohn (1905 – 1960), GT “là khái niệm
hiện hoặc ẩn liên quan đến nguyện vọng xác định của cá nhân hay tập thể, đem lại ảnh
hưởng cho khả năng cũng như cách chọn lựa phương tiện và mục đích của hành vi” [30,
tr38].
Theo nhà nghiên cứu người Bungari L.dramaliev, “GT là một thành tố khách quan của
XH. Nó là một loại hiện tượng XH đặc biệt (một vật, một đối tượng, một liên hệ, một ý
niệm), thỏa mãn được những nhu cầu nhất định của con người. GT là một phẩm chất khách
quan, một đặc tính, một khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã trở thành rõ rệt trong quá
trình quan hệ qua lại có tính chất XH giữa người với người trong hành vi của họ. Với tính
cách là một khách thể XH, GT không thể tách khỏi những nhu cầu, những mong muốn, thái
độ, những quan điểm và những hành động của con người với tư cách là một chủ thể của các
quan hệ XH” [65, tr.54]
Tác giả Lê Đức Phúc đưa ra luận điểm“GT là cái có ý nghĩa đối với XH, tập thể và cá
nhân, phản ánh mối quan hệ chủ thể khách thể, được đánh giá xuất phát từ điều kiện lịch sử
15
XH thực tế và phụ thuộc vào trình độ phát triển nhân cách. Khi đã được nhận thức đánh giá
lựa chọn, GT trở thành một trong những động lực thúc đẩy con người theo một xu hướng
nhất định” [46, tr.12].
Theo Thái Duy Tuyên, có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm GT, thông thường
có thể hiểu GT là cái đáng quí, cái cần thiết, có ích lợi, có ý nghĩa, thỏa mãn những nhu cầu
vật chất và tinh thần của con người, của giai cấp, nhóm, XH nói chung. GT là một phạm trù
lịch sử, thay đổi theo thời gian; là một phạm trù XH, phụ thuộc vào tính chất của dân tộc,
tôn giáo, cộng đồng [63, tr.106].
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng “GT là tính có nghĩa tích cực, đáng quý, có ích của
các đối tượng với các chủ thể” [27, tr.301].
Nhìn chung, sau khi tìm hiểu và phân tích những luận điểm của các tác giả trên đây,
chúng tôi nhận thấy khái niệm GT thể hiện các đặc điểm sau:
– Những sự vật hiện tượng nào thể hiện được tính ý nghĩa, tính lợi ích, sự tốt đẹp của
nó và thỏa mãn được nhu cầu của con người, được con người thừa nhận, hướng tới hoặc
đánh giá cao trong đời sống của họ thì nó được xem là có GT.
– Trong mọi GT đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và yếu tố hành vi
của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn và
đánh giá của chủ thể [65, tr.55].
– GT có tính khách quan nhưng lại được lựa chọn một cách chủ quan bởi mỗi người.
– GT mang tính lịch sử vì nó thay đổi, biến động theo thời gian.
Tóm lại, từ việc kế thừa và học hỏi những quan điểm nêu trên, chúng tôi tích hợp khái
niệm: GT là những cái được đánh giá có ích, có ý nghĩa tích cực, cần thiết và thỏa mãn
được nhu cầu của chủ thể trong mối quan hệ với khách thể, thực tiễn. Vì thế, GT là cái mà
con người hướng tới với tư cách là mục đích hoặc phương tiện thực hiện một hành vi nào đó.
Nó gắn liền với nhân cách và đóng vai trò động lực thúc đẩy hành vi của con người. GT tồn
tại khách quan nhưng đối với cá nhân, nó được hình thành thông qua quá trình cá thể trải
nghiệm thực tiễn nên thay đổi theo thời gian.
1.2.1.2. Phân loại giá trị
Cũng giống như khái niệm GT, đứng dưới những góc độ khác nhau và tùy vào mục
đích tiếp cận, các tác giả phân loại GT theo những luận điểm khác nhau. Có nhiều cách
16
phân loại GT:
– Xét theo sự thỏa mãn nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần của con người, GT
được phân chia thành: GT vật chất, bao gồm GT kinh tế và GT sử dụng; GT tinh thần bao
gồm GT khoa học, GT chính trị, GT đạo đức, GT pháp luật và GT tôn giáo.
– Dựa vào mối quan hệ giữa cá nhân – XH, GT được chia thành 2 nhóm khác biệt là
GT chung và GT riêng. GT chung được XH, cộng đồng chấp nhận và trở thành khuôn mẫu
định hướng và điều tiết các quan hệ XH lẫn hành vi của cá nhân. Ngược lại, GT riêng lại
mang đậm tính chủ thể nên có thể phù hợp hoặc trái với GT chung nhưng vẫn có ảnh hưởng,
định hướng cho quá trình nhận thức, hành vi và thái độ của cá nhân
– Căn cứ theo lịch sử – thời gian, GT được phân thành 2 loại là GT truyền thống và
GT hiện đại. GT truyền thống là những GT được hình thành, phát triển lâu dài qua nhiều
quá trình, biến cố trong lịch sử XH và vẫn mang đậm tính tích cực, đúng đắn cho đến ngày
nay. Vì thế, nó có đặc điểm là bền vững, ổn định và khó thay đổi. Ngược lại, GT hiện đại có
quá trình hình thành và phát triển trong những năm hiện nay-giai đoạn hiện đại trong lịch sử
nhân loại nên nó mang đậm tính chất thời đại và biến đổi không ngừng. Tuy nhiên, hệ GT
chung cho toàn XH cụ thể nào đó luôn là sự kết hợp giữa các GT truyền thống và hiện đại.
– Căn cứ vào các lĩnh vực hoạt động của con người, GT được chia thành các nhóm:
GT kinh tế, GT chính trị, GT luật pháp, GT nhân văn, GT đạo đức, GT văn hóa. Quan điểm
này được các nhà nghiên cứu là Huỳnh Khái Vinh, H.J. Fichter, M. Popon và J.R. William
cùng đồng thuận [67, tr.60].
– Căn cứ trên các hiện tượng XH, H.J. Fichter nhận định GT có thể được phân định
dựa trên các hiện tượng XH. Theo ông, có 3 khởi điểm để phân loại GT là nhân cách, XH và
văn hóa; tuy nhiên, dù được phân loại nhưng ranh giới giữa các GT không rõ ràng mà có sự
đan xen, phối hợp của 3 mặt này. [65, tr.57]
Tựu trung lại, có rất nhiều cách để phân loại GT dựa trên các phương diện, khía cạnh
khác nhau nhưng vẫn chưa có một hệ phân loại hoàn chỉnh thể hiện đầy đủ các mặt của GT.
Điều quan trọng là mỗi nhà nghiên cứu tùy theo mục đích, quan điểm của mình sẽ lựa chọn
cách tiếp cận phù hợp nhất để chứng tỏ được cấu trúc hệ thống của GT trong thực tiễn với
các biểu hiện đa dạng, linh hoạt.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi chọn cách tiếp cận phân loại GT
dựa trên quan điểm “Sự thỏa mãn nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần của con người”
17
để chia GT trong TY thành hai nhóm là các GT tinh thần (trách nhiệm, chung thủy, chân
thành…) và GT vật chất (tiền bạc, nhà cửa, ngoại hình…) mà trong đó, hệ GT TY còn được
thể hiện thông qua chiều dài lịch sử thời gian (GT truyền thống và GT hiện đại). Vì suy cho
đến cùng, trong TY, dù là ở thời đại nào thì con người đều mong muốn được thỏa mãn các
GT tinh thần lẫn vật chất trong mối quan hệ đôi lứa của mình. Và các GT TY được biến đổi
rõ ràng theo thời gian với giai đoạn lịch sử nào thì sẽ có những GT đặc trưng của thời đó.
1.2.1.3. Một số khái niệm liên quan đến giá trị
Cuộc sống của con người luôn chứa đựng hệ thống GT, những chuẩn mực mà trong đó,
các GT thường được sắp xếp theo những vị trí khác nhau và có mối quan hệ nhất định. Vì
thế, khi nghiên cứu khái niệm GT, hệ GT, thang GT, chuẩn GT và thước đo GT là các khái
niệm công cụ cơ bản cần chý ý.
a. Hệ giá trị
Hệ GT (hệ thống GT) là một tổ hợp GT khác nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo
những nguyên tắc nhất định để tạo thành một tập hợp mang tính toàn vẹn và hệ thống, thực
hiện các chức năng đặc thù trong việc đánh giá của con người theo những phương thức vận
hành nhất định của GT [63, tr.62].
Các hệ thống GT tương đối độc lập và tương tác theo những thứ bậc khác nhau, phù
hợp với quá trình thực hiện các chức năng XH trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể. Hệ GT luôn
mang tính lịch sử, chịu sự chế ước bởi lịch sử nên luôn chứa đựng các yếu tố của quá khứ,
hiện tại và tương lai, các GT mang tính lý tưởng và hiện thực… Ngày nay, các hệ GT được
hệ thống hóa theo thang bậc của cộng đồng là hệ GT nhân loại, hệ GT cộng đồng, hệ GT
giai cấp, hệ GT cá nhân (trong đó có GT nhân cách). [29, tr.52]
Tổ chức UNESCO đã nêu lên hệ thống GT với 4 nhóm chủ đạo: Nhóm 1 – GT cốt lõi
gồm có hòa bình, tự do, việc làm, gia đình, sức khỏe, an ninh, tự trọng, công lí, tình nghĩa,
sống có mục đích, niềm tin, tự lập, nghề nghiệp, học vấn. Nhóm 2 – GT cơ bản bao gồm
sáng tạo, tình yêu và chân lí. Nhóm 3 – GT có ý nghĩa gồm cuộc sống giàu sang và cái đẹp.
Nhóm 4 – GT không đặc trưng là địa vị XH. [30, tr.52]
Còn đối với XH Việt Nam nói chung, trong chương trình nghiên cứu cấp nhà nước
“Con người – mục tiêu, động lực của sự phát triển XH”, giáo sư Phạm Minh Hạc đã xác
định “Hệ thống GT và định hướng GT đối với phẩm chất con người Việt Nam trong thời đại
18
công nghiệp hóa, hiện đạo hóa có thể là: trung với nước, hiếu với dân, nhân phẩm và các
quan hệ tốt đẹp giữa người với người, duy lí và khoa học, tri thức kĩ thuật công nghiệp, tiến
bộ XH và hạnh phúc con người” [55, tr.78].
b. Thang giá trị
Thang GT là một tổ hợp GT, một hệ thống GT được sắp xếp theo một trật tự ưu tiên
nhất định.
Thang GT có đặc điểm là không ổn định; thay đổi theo thời gian, theo sự phát triển,
biến đổi của XH loài người và của từng dân tộc, cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân. Dưới
ảnh hưởng của quá trình XH hóa, mỗi cá nhân sẽ “hấp thụ” và tạo cho riêng mình một thang
riêng từ chính thang GT của XH, cộng đồng. Và sau đó, thông qua tiến trình hoạt động, cá
nhân sẽ cải thiện thang GT cho phù hợp hơn với thực tiễn. [65, tr.63]
Như vậy, “Hệ thống GT và thang bậc GT phụ thuộc vào từng hình thái XH trong lịch
sử, chịu sự chi phối của XH đó và được XH đó công nhận. Ngược lại, khi hệ thống và thang
bậc GT được hình thành thì chúng lại có tác dụng định hướng hoạt động cho cả XH, tập thể
và từng cá nhân trong XH. Việc cá nhân tiếp thu hệ thống GT là điều kiện để hình thành
nhân cách và duy trì kỷ cương XH” [15, tr.209].
Hiện nay, kết quả điều tra cho thấy thang GT cụ thể của người Việt Nam theo thứ tự từ
cao đến thấp như sau: Hòa bình, Tự do, Sức khỏe, Việc làm, Công lí, Học vấn, Gia đình, An
ninh, Niềm tin, Nghề nghiệp, Sống có mục đích. [55, tr.68]
c. Chuẩn giá trị
Chuẩn GT là những GT giữ vị trí cốt lõi, chiếm vị trí ở thứ bậc cao hoặc vị trí then
chốt và mang tính chuẩn mực chung cho nhiều người. Khi xây dựng các GT theo những
chuẩn mực nhất định về kinh tế, về chính trị, về đạo đức, về XH hay về thẩm mỹ sẽ tạo ra
các chuẩn GT. Mọi hoạt động của XH, của nhóm cũng như của từng cá nhân được thực hiện
theo những chuẩn GT nhất định sẽ bảo đảm định hướng cho các hoạt động đó và hạn chế
khả năng lệch chuẩn mực XH, đồng thời tạo ra những GT tương ứng đảm bảo sự tồn tại của
con người. [65, tr.64] Hay nói cách khác, chuẩn GT là các GT cốt lõi được lựa chọn, đánh
giá và xác định như các chuẩn mực chung cho đại đa số thành viên XH. [67, tr.62] Điều này
có nghĩa: Trong XH, chuẩn GT thực hiện vai trò là chuẩn mực cho các GT khác và là chuẩn
cơ bản cho định hướng GT của phần đông thành viên trong XH.
Trong thực tế đời sống TY – hôn nhân ngày nay, XH ta đang đối mặt với sự biến đổi,
19
đảo lộn thậm chí là khủng hoảng thang GT và các chuẩn GT với những hiện tượng từ một
bộ phận thanh niên, sinh viên như nạo phá thai bừa bãi, tấn công TD… Để khắc phục hiện
trạng này, việc nghiên cứu tìm hiểu định hướng GT trong TY của sinh viên rất cần thiết
nhằm nắm bắt được một cách khách quan và đúng đắn về sự thay đổi thang GT, chuẩn GT
trong TY của giới tri thức trẻ và có các biện pháp giáo dục, can thiệp phù hợp, góp phần
hình thành những GT tốt nhất cho giới trẻ trong TY.
d. Thước đo giá trị
Theo giáo sư Phạm Minh Hạc và Thái Duy Tuyên, thước đo GT chỉ được hình thành
khi thang GT cụ thể được một chủ thể (dân tộc, cộng đồng, nhóm cá thể) vận dụng vào để
tạo lập hoạt động, hành động, hành vi hay đánh giá và tự đánh giá một hiện tượng XH, một
cử chỉ hành vi [29, tr52]. Như vậy, nói đến thước đo GT tức là nói đến sự đánh giá đối
tượng, chủ thể dựa theo một hệ GT hay một thang GT nào đó.
Nói tóm lại, nghiên cứu GT học luôn gắn liền với bộ gồm 4 khái niệm công cụ cơ bản:
1. Hệ GT: là một tập hợp các GT khác nhau được sắp xếp theo những nguyên tắc nhất định
mang tính toàn vẹn và hệ thống của một tập hợp người như nhân loại, dân tộc, nhóm XH
hay cá nhân; 2. Thang GT: là tập hợp các GT được sắp xếp theo một trật tự nhất định; 3.
Chuẩn GT: là những GT giữ vị trí cốt lõi, chiếm vị trí ở thứ bậc cao hoặc vị trí then chốt và
mang tính chuẩn mực chung cho nhiều người; 4. Thước đo GT: là thang GT được chủ thể
dùng để đánh giá một đối tượng nào đó.
1.2.1.4. Cơ chế hình thành giá trị
Edmund Husserl (1859 -1938) là một nhà toán học, tâm lí học, triết gia và là một trong
những nhà tư tưởng có tầm ảnh hưởng sâu rộng của thế kỉ XX. Ông cho rằng kết quả của
quá trình trải nghiệm, phán đoán và tư duy chính là việc nhận thấy ý nghĩa của thế giới, GT
tinh thần và hình thành thái độ GT đối với sự vật hiện tượng.
Từ quá trình trải nghiệm và đánh giá các sự vật hiện tượng này, một cơ chế khác cũng
đồng thời diễn ra là sự đánh giá các GT, tính ý nghĩa và biến GT trải nghiệm thành GT tinh
thần – tâm lí – văn hóa. Hay nói cách khác, trải nghiệm chính là cơ chế hình thành GT.
Thêm vào đó, tư tưởng Macxit cũng đã khẳng định quan điểm này: Con người trải nghiệm
thông qua hoạt động thực tiễn và giao tiếp. Trải nghiệm này chính là trải nghiệm quan trọng
nhất trong cơ chế tạo ra GT. Nó là hành vi mang đậm tính đánh giá có ý thức, logic về
20
những chuẩn mực, cái mà con người cho là phù hợp hay không phù hợp với bản thân để
hình thành nên sản phẩm cuối cùng là GT, thước đo GT, hệ GT. Rõ ràng, “trải nghiệm là
giá đỡ của GT”. [31, tr.77]
1.2.1.5. Vai trò của giá trị
Dưới góc độ tâm lí học, đối với mỗi cá nhân, vai trò của GT trong sự phát triển nhân
cách của con người rất quan trọng và không thể phủ nhận được với 2 chức năng cơ bản chủ
yếu sau: Chức năng định hướng và chức năng động cơ thúc đẩy hành vi.
Vì là các chuẩn mực, khuôn mẫu nên GT có tác dụng định hướng cho con người trong
việc xác lập mục tiêu và hành động để hiện thực hóa mục tiêu khi tham gia vào đời sống XH.
GT là cơ sở để đánh giá và điều chỉnh hành vi (nên – không nên, được phép – không được
phép, phù hợp – không phù hợp…) vì mỗi cá nhân sẽ dựa vào GT, thang GT để so sánh, đối
chiếu đâu là việc nên làm và cái nào không nên. Như vậy, GT là một bộ phận của ý thức mà
nếu thiếu nó thì nhân cách con người không thể hoàn chỉnh. Ngoài ra, GT là cơ sở cho sự
hình thành và bảo tồn những định hướng GT trong ý thức của cá nhân, cho phép họ hình
thành và kiên trì giữ một lập trường xác định, bày tỏ quan điểm, đánh giá và phê phán.
Ngoài ra, GT XH hình thành nên những dư luận XH, áp lực nhằm ngăn chặn những hành vi
trái đạo đức. Bên cạnh đó, vai trò thúc đẩy hành vi của GT cũng được thể hiện rõ khi con
người tham gia vào đời sống XH.
1.2.2. Định hướng giá trị
1.2.2.1. Khái niệm định hướng giá trị
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm hiểu khái niệm ĐHGT ở hai phạm trù lớn là theo
từ điển và theo quan điểm của các nhà khoa học nước ngoài – trong nước.
Trong từ điển tâm lí học, “ĐHGT là phương thức chủ thể sử dụng để phân biệt các sự
vật theo ý nghĩa của chúng đối với chính mình, từ đó hình thành nội dung cơ bản của xu
hướng, động cơ hoạt động”. [14, tr.60]
Theo từ điển tâm lí học khác, “ĐHGT là một khái niệm của tâm lí học XH, được sử
dụng với hai nghĩa sau:
1. Những cơ sở tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ mà chủ thể dựa vào để đánh giá
hiện thực và định hướng vào hiện thực đó.
21
2. Cách thức mà cá nhân dùng để phân loại các khách thể theo giá trị của chúng (ý
nhân cách).
ĐHGT được hình thành trong quá trình cá nhân lĩnh hội kinh nghiệm XH và được bộc
lộ rõ trong các mục tiêu, lí tưởng, quan điểm, sự ham thích và những biểu hiện khác của
nhân cách. Trong cấu trúc hoạt động, chúng liên quan chặt chẽ với các khía cạnh nhận thức
và ý chí. Hệ thống ĐHGT tạo nên mặt nội dung của xu hướng cá nhân và thể hiện cơ sở bên
trong của các mối quan hệ của nhân cách đối với hiện thực. Trong quá trình hoạt động
chung, ĐHGT nhóm được hình thành. Sự trùng hợp về các ĐHGT quan trọng của các thành
viên trong nhóm đảm bảo tính cố kết nhóm (sự thống nhất ĐHGT)” [15, tr.161].
Tác giả V. A. Ladov nhận định ĐHGT là những biểu tượng của con người về những
mục đích chủ yếu của cuộc đời và những phương tiện cơ bản đạt những mục đích ấy. ĐHGT
đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các chương trình hành vi lâu dài. Chúng hình
thành trên cơ sở những nhu cầu của chủ thể về việc nắm vững những hình thức cơ bản của
hoạt động sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể, xác định và do tính chất các quan hệ
XH quy định. Các quan hệ XH là nguồn gốc khách quan hình thành những nhu cầu của chủ
thể. [65 , tr.68]
Theo B.G.AnaNhep, “Việc cá nhân hướng vào những GT này hay GT khác tạo nên sự
ĐHGT của họ” [3 , tr.26]
Tác giả Lê Đức Phúc cho rằng “ĐHGT là thái độ lựa chọn của con người đối với các
GT vật chất và tinh thần, là một hệ thống tâm thế, niềm tin, sở thích được biểu hiện trong
hành vi của con người” [46, tr.23]
Với Thái Duy Tuyên, khái niệm ĐHGT thường được hiểu 2 nghĩa : 1) Mỗi cá nhân
hay cộng đồng nào đó ĐHGT cho mình có nghĩa là lựa chọn cho mình một GT hoặc hệ
thống GT nào đấy ; 2) Mỗi cá nhân hay cộng đồng ĐHGT cho một người hay một tập thể có
nghĩa là giáo dục GT [63,tr.37]. Phạm Minh Hạc cũng đồng ý với quan điểm này. [30, tr.53]
Đào Hiền Phương khẳng định: “ĐHGT là sự phản ánh chủ quan, có phân biệt các GT
trong ý thức và tâm lý con người. ĐHGT của mỗi người mang những nét riêng biệt đặc
trưng của người đó. Con người sống trong môi trường nào, thuộc thành phần XH nào, đều
mang những nét chung nhất định của nó về ĐHGT. ĐHGT không phải là bất biến, nhất là
các GT vật chất, nó có sự thay đổi theo môi trường sống và hoạt động thực tiễn. ĐHGT chi
phối, điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người, hướng tới những mục đích cơ bản trong
22
cuộc sống” [47, tr. 23].
Nhóm tác giả của đề tài nghiên cứu cấp nhà nước KX – 04 – 10 đưa ra luận điểm
“ĐHGT là thái độ, là sự lựa chọn các GT vật chất và tinh thần, là một hệ thống tâm thế,
niềm tin, sở thích của con người đối với một GT nào đó”. [62, tr.73]
Sau khi tìm hiểu lí luận về ĐHGT dưới nhiều quan điểm khác nhau, chúng tôi nhận
thấy những đặc điểm chung sau:
– ĐHGT gắn liền với thái độ đánh giá cao, thừa nhận, lựa chọn các GT với tư cách là
tiêu chuẩn cần thiết đối với nhân cách trong mối quan hệ với hiện thực khách quan và thể
hiện thông qua xu hướng hành vi nhằm khẳng định, thực hiện các GT đó.
– ĐHGT được hình thành trong quá trình cá nhân tham gia vào đời sống XH, tiếp nhận
các GT một cách tự chủ, có ý thức và thể hiện được đặc trưng, nhu cầu của cá nhân hay
nhóm, tập thể, XH khi hướng vào các GT cơ bản đối với họ.
– ĐHGT là quá trình gắn liền với các yếu tố nhận thức (đánh giá), thái độ, hành vi, ý
chí và cảm xúc trong sự phát triển nhân cách.
– ĐHGT là cơ sở bên trong của hành vi. Nó quyết định lối sống của mỗi cá nhân.
Từ việc học hỏi và kế thừa các quan điểm ĐHGT phân tích ở trên, trong khuôn khổ
nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi tiếp cận theo quan điểm của Thái Duy Tuyên và Phạm
Minh Hạc: Đối với cá nhân, ĐHGT là sự thừa nhận và lựa chọn cho bản thân những GT
chuẩn mực, cơ bản, thiết yếu trong hệ thống GT dựa trên quá trình nhận thức, đánh giá
logic một cách tự do, tự nguyện và theo đặc trưng, nhu cầu của riêng mình. Nó có ảnh
hưởng lớn, chi phối, điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người và qui định xu hướng
nhân cách cá nhân từ sâu bên trong. Đối với khách thể khác (cá nhân, nhóm người, cộng
đồng…), ĐHGT là quá trình giáo dục GT mà chủ thể (cá nhân, nhóm người, cộng đồng…)
tiến hành nhằm mục đích hình thành hệ thống GT mong muốn ở khách thể.
1.2.2.2. Quá trình định hướng giá trị
ĐHGT là một quá trình phức tạp của hoạt động nhân cách ở con người nhưng lại có
vai trò quan trọng đến sự phát triển toàn diện cho cá nhân. Bàn về vấn đề này, các tác giả
đưa ra nhiều lí luận, ý kiến khác nhau, trong đó, có một quan điểm nổi tiếng được bộ ba tác
giả là Louis E. Raths, Merrill Harmin, Sidney B. Simon giới thiệu trong tác phẩm Values
and Teaching (Tạm dịch: Các giá trị và dạy học) (1973). Các ông đã đưa ra ba quá trình
23
gồm bảy giai đoạn của ĐHGT ở mỗi cá thể người như sau: [65, tr.73]
Bảng 1.1: Các giai đoạn của quá trình định hướng giá trị
Các quá trình
Các giai đoạn
Đặc điểm
Chọn lựa
1. Chọn lựa tự
do
Là sự lựa chọn không bị thúc đẩy bởi quyền lực
hay sự cưỡng bách nào đó Cá nhân tâm niệm,
gửi gắm vào một sở thích, mục đích nào đó.
2. Chọn lựa từ
các khả năng
Có nhiều khả năng lựa chọn Cá nhân xác định
một tiêu chuẩn thích hợp làm cơ sở cho một mối
quan tâm, chủ định hay hành động.
3. Lựa chọn
(sau cùng)
Trên cơ sở đã dự đoán kết quả có thể có của từng
khả năng lựa chọn.
Cân nhắc
(đánh giá)
4. Cân nhắc và
tâm niệm
Cá nhân ấp ủ tâm niệm hay cân nhắc một cái gì đó
mà họ có tình cảm.
5. Khẳng định
Sau khi cái lựa chọn được cân nhắc và tâm niệm,
cá nhân sẵn sàng khẳng định và gắn bó với lựa
chọn đó.
Hành động
6. Hành động
theo lựa chọn
Đây là giai đoạn quan trọng trong quá trình định
hướng GT, thông qua hành động mà cái được lựa
chọn bộc lộ bản chất của GT.
7. Lặp lại hành
động
Đây là bước cuối cùng trong quá trình hình thành
định hướng GT. Các GT phải được bộc lộ qua quá
trình lặp lại hành động Cá nhân hành động phù
hợp và kiên trì theo những GT họ ấp ủ, tâm niệm.
Như vậy, ta thấy, tập hợp những quá trình trên xác định sự đánh giá GT. Kết quả của
quá trình ĐHGT là khẳng định được GT. [55, tr.75]
1.2.2.3. Vai trò của định hướng giá trị
ĐHGT là một trong những yếu tố quan trọng của cấu trúc nhân cách bên trong ở mỗi
con người; gắn liền với quá trình nhận thức, tư duy logic và ý chí của cá nhân. Hệ thống
định hướng GT “hình thành nội dung cơ bản của xu hướng, động cơ hoạt động”. Do đó,