11864_Định hướng nghề nghiệp của sinh viên chuyên ngành Tâm lý học ở một số trường đại học tại TP.HCM

luanvantotnghiep.com

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Dương Liễu

ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH
VIÊN CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC Ở MỘT SỐ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Dương Liễu

ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH
VIÊN CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC Ở MỘT SỐ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: TÂM LÍ HỌC
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tâm lí học với đề tài “Định hướng nghề
nghiệp của sinh viên chuyên ngành Tâm lý học ở một số trường Đại học tại thành
phố Hồ Chí Minh” được tác giả nghiên cứu lần đầu tiên. Tôi xin cam đoan đây là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả, số liệu nghiên cứu được trích dẫn và giới
thiệu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ một
công trình khoa học nào.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2014

Tác giả

Trần Thị Dương Liễu

LỜI CẢM ƠN
Để có được kết quả như hôm nay, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến:

Quý Thầy Cô trong Ban giám hiệu, Phòng Sau đại học, Khoa Tâm lý – Giáo
dục Trường Đại học Sư phạm TPHCM đã tạo môi trường học tập và trực tiếp giảng
dạy cho tôi những kiến thức vô cùng hữu ích trong suốt khóa học.

Tiến sĩ Trần Thị Quốc Minh, người đã tận tình hướng dẫn, góp ý và động viên
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.

Ban điều hành, các giảng viên, sinh viên Khoa Tâm lý – Giáo dục Trường
ĐHSP TPHCM và Khoa Tâm lý Trường Đại học KHXHNV TPHCM đã tạo điều kiện
thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát, thu thập số liệu.

Quý Thầy Cô trong Hội đồng khoa học bảo vệ đề cương, Hội đồng khoa học
bảo vệ luận văn đã góp ý, hướng dẫn và chỉ ra những thiếu sót giúp tôi thực hiện tốt
luận văn tốt nghiệp của mình.

Gia đình, bạn bè thân hữu đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Luận văn được hoàn thành với sự nỗ lực, cố gắng hết mình nhưng không tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi xin chân thành cảm ơn và ghi nhận những ý kiến
đóng góp của quý Thầy Cô giáo và bạn bè!

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2014

Tác giả

Trần Thị Dương Liễu

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
………………………………………………………………………………………………………….
1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP
…………………..
7
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp
…………………………………
7
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài …………………………………………………………..
7
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
……………………………………………………………
10
1.2. Lý luận về định hướng nghề nghiệp ………………………………………………………….
16
1.2.1. Khái niệm định hướng ……………………………………………………………………….
16
1.2.2. Khái niệm nghề nghiệp
………………………………………………………………………
17
1.2.3. Khái niệm định hướng nghề nghiệp …………………………………………………….
29
1.3. Sinh viên và một số đặc điểm tâm lý của sinh viên ……………………………………..
34
1.3.1. Khái niệm sinh viên …………………………………………………………………………..
34
1.3.2. Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên ………………………………………………….
35
1.3.3. Đặc điểm tâm lý của sinh viên chuyên ngành Tâm lý học ………………………
36
1.4. Định hướng nghề nghiệp của sinh viên
………………………………………………………
38
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên ………………
39
Tiểu kết chương 1 …………………………………………………………………………………………..
46
Chương 2. THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN
CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
………………………………………………………………………..
47
2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng …………………………………………………………………
47
2.2. Kết quả thực trạng định hướng nghề nghiệp của sinh viên chuyên ngành Tâm lý
học ở một số trường Đại học tại TPHCM …………………………………………………………
56

2.2.1. Lí do sinh viên thi tuyển và chọn học chuyên ngành Tâm lý học …………….
56
2.2.2. Biểu hiện nhận thức về ĐHNN của SV ………………………………………………..
63
2.2.3. Biểu hiện thái độ về ĐHNN của SV chuyên ngành TLH tại TPHCM ………
77
2.2.4. Biểu hiện hành vi về ĐHNN của SV ……………………………………………………
90
2.2.5. Mối tương quan giữa nhận thức, thái độ và hành vi trong hoạt động ĐHNN
của SV chuyên ngành TLH
………………………………………………………………………….
95
2.3. Nguyên nhân thực trạng ĐHNN của SV chuyên ngành TLH
………………………..
96
2.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến ĐHNN của SV ……………………………………………
96
2.3.2. Các nguyên nhân của thực trạng ĐHNN của SV …………………………………
101
Tiểu kết chương 2 …………………………………………………………………………………………
104
Chương 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH HƯỚNG
NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC Ở MỘT
SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
………………………..
105
3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp …………………………………………………………………………
105
3.2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác định hướng nghề nghiệp cho sinh
viên chuyên ngành Tâm lý học tại Thành phố Hồ Chí Minh
……………………………..
108
3.2.1. Các biện pháp thuộc về nhà trường ……………………………………………………
108
3.2.2. Các biện pháp thuộc về giảng viên …………………………………………………….
112
3.2.3. Các biện pháp thuộc về nhà tuyển dụng ……………………………………………..
115
3.2.4. Các biện pháp thuộc về sinh viên ………………………………………………………
116
3.3. Tổ chức nghiên cứu khảo nghiệm
……………………………………………………………
120
3.4. Kết quả khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp ………………..
121
3.4.1. Khảo nghiệm tính cần thiết của các biện pháp …………………………………….
121
3.3.2. Khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp
……………………………………….
124
Tiểu kết chương 3 …………………………………………………………………………………………
127
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
………………………………………………………………………..
128
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Thứ tự
Chữ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
1

Cao Đẳng
2
CNH – HĐH
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
3
ĐH
Đại học
4
ĐHNN
Định hướng nghề nghiệp
5
ĐLC
Độ lệch chuẩn
6
ĐTB
Điểm trung bình
7
GDNN
Giáo dục nghề nghiệp
8
GV
Giảng viên
9
HS
Học sinh
10
KHXHNV
Khoa học xã hội nhân văn
11
N
Tần số
12
NN
Nghề nghiệp
13
Nxb
Nhà xuất bản
14
PGS. TS
Phó Giáo sư, Tiến Sĩ
15
Sig.
Mức ý nghĩa
16
SP
Sư Phạm
17
SV
Sinh viên
18
TT
Thứ tự
19
THPT
Trung học phổ thông
20
TLH
Tâm lý học
21
TPHCM
Thành phố Hồ Chí Minh
22
XB
Xếp bậc

DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng

Trang
Bảng 1.1. Phân loại nhóm nghề theo E.A.Klimov ………………………………………………..
21
Bảng 2.1. Chương trình đào tạo cử nhân Tâm lý học trường ĐHSP TP.HCM
………….
48
Bảng 2.2. Sinh viên chuyên ngành TLH toàn Khoa (cập nhật tháng 04/2014)………….
49
Bảng 2.3. Chương trình đào tạo cử nhân TLH Trường KHXHNV TPHCM …………….
50
Bảng 2.4. Sinh viên toàn Khoa Tâm lý (thống kê cập nhật tháng 4/2014) ……………….
51
Bảng 2.6. Cơ cấu khách thể nghiên cứu ………………………………………………………………
54
Bảng 2.7. Bảng tổng hợp hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha ……………………………………..
55
Bảng 2.8. Kết quả khảo sát lí do thi tuyển và chọn học chuyên ngành TLH ……………
57
Bảng 2.13. Nhận thức của SV về cơ hội phát triển nghề nghiệp
……………………………..
64
Bảng 2.14. Nhận thức của SV về đặc điểm ngành và nghề TLH
…………………………….
64
Bảng 2.15. Khó khăn khi ĐHNN của SV chuyên ngành TLH
………………………………..
68
Bảng 2.16. Kết quả so sánh các vấn đề khó khăn khi ĐHNN của SV ……………………..
69
Bảng 2.17. Nhận thức của SV về vai trò và ý nghĩa của hoạt động ĐHNN ……………..
70
Bảng 2.18. Nhận thức của SV về những yêu cầu phẩm chất của người công tác trong
ngành TLH
………………………………………………………………………………………………………
72
Bảng 2.19. Nhận thức của SV về những yêu cầu năng lực của người công tác trong
ngành TLH
………………………………………………………………………………………………………
74
Bảng 2.22. Hứng thú của SV đối với ngành TLH …………………………………………………
77
Bảng 2.23. So sánh hứng thú của SV đối với ngành TLH ……………………………………..
78
Bảng 2.24. Biểu hiện thái độ của SV đối với các hoạt động ĐHNN ……………………….
79
Bảng 2.25. Mức độ yêu thích các nhóm nghề thuộc chuyên ngành TLH …………………
82
Bảng 2.26. Kết quả khảo sát ĐHNN qua mức độ yêu thích nghề nghiệp cụ thể ……….
82
Bảng 2.28. Kết quả chung biểu hiện hành vi ĐHNN của SV chuyên ngành TLH …….
90
Bảng 2.30. Sự kiên định của SV đối với ngành TLH
…………………………………………….
93
Bảng 2.31. Mối tương quan giữa ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi …………………..
95
Bảng 2.32. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp của SV
………………….
97
Bảng 2.34. Nguyên nhân của thực trạng ĐHNN của SV chuyên ngành TLH …………
102
Bảng 3.1. Mức độ cần thiết các biện pháp nâng cao hiệu quả ĐHNN của SV ………..
121
Bảng 3.2. Mức độ khả thi của các biện pháp nâng cao hiệu quả ĐHNN của SV …….
124

1

MỞ ĐẦU

1.
Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, công tác định hướng nghề nghiệp (ĐHNN) cho bộ
phận học sinh THPT ngày càng trở nên quan trọng và được các lực lượng xã hội, các
cơ quan ban ngành quan tâm rất nhiều. Tuy nhiên, công tác ĐHNN cho sinh viên (SV)
chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí bị bỏ quên. Chúng ta vẫn nghĩ rằng ĐHNN
chỉ là lựa chọn một ngành nghề yêu thích, chọn một trường đại học (ĐH) hoặc cao
đẳng (CĐ) là xong, ngành học tại trường sẽ quyết định nghề nghiệp (NN) sau này.
Chúng ta quên rằng lựa chọn NN mới chỉ là giai đoạn đầu trong tiến trình hướng
nghiệp của mỗi người và ĐHNN là một quá trình diễn ra liên tục, kéo dài từ năm nhất
đến năm cuối cùng của bậc học. Bên cạnh đó, do yêu cầu xã hội ngày càng phức tạp
dẫn đến hệ thống NN gắn với ngành đào tạo cũng ngày càng phong phú hơn. Trong
thực tế, nhiều SV chỉ chú ý đến những nét hấp dẫn bên ngoài của NN, không (hoặc
không biết cách) phân tích những đặc điểm bản thân, yêu cầu của NN, lựa chọn NN
không phù hợp dẫn đến chán nản, học tập không tiến bộ, bỏ học giữa chừng hoặc làm
trái nghề, đổi nghề sau khi tốt nghiệp. Điều này gây lãng phí của cải, thời gian, công
sức của người học. Đồng thời, gây bất ổn cho phân công lao động và lãng phí rất lớn
nguồn nhân lực xã hội.

Theo số liệu điều tra của sở Lao động – Thương binh – Xã hội thành phố Hồ
Chí Minh (TPHCM) cho biết: chỉ khoảng 30% HS, SV tốt nghiệp có ý định làm việc
lâu dài, trong khi 30% muốn tìm việc làm khác vì không phù hợp với khả năng,
nguyện vọng và 40% chưa xác định mục tiêu NN. Đáng chú ý hơn là có đến 40% lao
động trẻ chọn sai ngành học, chọn học nghề không phù hợp với bản thân. Từ số liệu
trên cho ta thấy được một phần những hạn chế trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo của
các trường hiện nay, đặc biệt là giáo dục NN [59, tr.8].

Theo báo cáo mới nhất được công bố tại hội thảo khoa học “Giải pháp gắn kết
giữa đào tạo với thị trường lao động ở Việt Nam” do Trường ĐH KHXHNV –
ĐHQGHN tổ chức. Hội thảo nằm trong dự án Nghiên cứu chính sách hợp tác với Quỹ
Rosa – Luxemburg của CHLB Đức công bố: trong số gần 3.000 SV đã tốt nghiệp được
hỏi, có 70% SV trả lời “đã nghĩ tới công việc nhưng chưa chắc chắn và không có

2

nhiều thông tin về hệ thống nghề nghiệp”. Hội thảo còn cho thấy SV thất nghiệp là do
thiếu ĐHNN, do chưa có ý định tự trau dồi NN và không hình dung đúng đắn về NN
trong tương lai. Điều này cho thấy, công tác ĐHNN cho SV đang bị bỏ quên. Nếu thực
hiện công tác giáo dục NN và ĐHNN hiệu quả thì đó chính là điều kiện giúp cho mỗi
cá nhân SV phát huy được tối đa phẩm chất, năng lực của bản thân trong học tập cũng
như trong quá trình lao động sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đáp ứng tốt yêu cầu của xã hội trong sự nghiệp CNH – HĐH và thời kỳ hội nhập của
đất nước [61].
Tâm lý học (TLH) là ngành có tính tương tác cao, đòi hỏi nhiều kỹ năng. Những
năm gần đây, ngành TLH rất phát triển và cần phải có nguồn nhân lực chất lượng với
số lượng lớn. Nghề nghiệp TLH theo bảng danh mục NN của Tổng cục thống kê
(Ban hành theo Quyết định số 1019/QĐ-TCTK ngày 12 tháng 11 năm 2008) thuộc
nhóm nghề Khoa học xã hội có mã số 2445, thể hiện chủ yếu cho hai mã NN: nghiên
cứu và giảng dạy. Tuy nhiên, theo yêu cầu thực tiễn của xã hội và định hướng vị trí
việc làm của SV tốt nghiệp, thì TLH là ngành có đầu ra rất rộng. Những người được
đào tạo cơ bản về TLH có thể tham gia vào rất nhiều lĩnh vực: giảng dạy TLH tại các
trường CĐ, ĐH; nghiên cứu TLH tại các viện, trung tâm nghiên cứu TLH, các tổ chức
phi chính phủ; làm tư vấn viên, cán bộ trị liệu ở các bệnh viện, trung tâm tư vấn tâm
lý,… Mặc khác, ngành TLH có nhiều lĩnh vực và mỗi lĩnh vực đều đòi hỏi người làm
việc phải có những kỹ năng riêng biệt, chuyên sâu về nó. Do đó, ngoài những yêu cầu
đặc thù thì với yêu cầu đa dạng và không ngừng biến đổi của xã hội, SV chuyên ngành
TLH phải hình thành định hướng mới để đáp ứng mọi yêu cầu NN tương lai. Như vậy,
xác định hệ thống NN và ĐHNN cho SV chuyên ngành TLH là việc làm có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu [11].
Bên cạnh đó, người nghiên cứu nhận thấy chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể
về hướng nghiệp và ĐHNN ở SV chuyên ngành TLH các trường ĐH tại TPHCM. Vì
lẽ đó, tìm hiểu cụ thể hệ thống NN và ĐHNN của SV chuyên ngành TLH ở các trường
ĐH tại TPHCM là rất cần thiết.

Từ những cơ sở trên, đề tài “Định hướng nghề nghiệp của sinh viên chuyên
ngành Tâm lý học ở một số trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh.” được xác
lập.

3

2.
Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng ĐHNN của SV chuyên ngành TLH ở một số trường Đại học
tại TPHCM, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác
ĐHNN cho SV chuyên ngành TLH.
3.
Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài: định hướng, nghề
nghiệp, định hướng nghề nghiệp, sinh viên, ngành Tâm lý học…
3.2. Khảo sát thực trạng ĐHNN, tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến ĐHNN của
SV chuyên ngành TLH ở một số trường Đại học tại TPHCM.
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của một số biện pháp tác động
nhằm nâng cao hiệu quả công tác ĐHNN cho SV chuyên ngành TLH.
4.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

– Định hướng nghề nghiệp của sinh viên chuyên ngành Tâm lý học.
4.2. Khách thể nghiên cứu

– Khách thể nghiên cứu chính là SV chính quy năm thứ nhất (khóa 2013 – 2017)
và năm thứ ba (khóa 2011 – 2015) chuyên ngành TLH ở một số trường ĐH tại
TPHCM.

– Khách thể nghiên cứu bổ trợ là lực lượng giáo dục chuyên ngành TLH, các
thầy cô giáo đang giảng dạy các bộ môn TLH, các chuyên viên hướng nghiệp.
5.
Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nội dung
– Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu ĐHNN của sinh viên chuyên ngành TLH.
5.2. Khách thể

– Đề tài chỉ nghiên cứu 229 SV năm thứ nhất và năm thứ ba chuyên ngành TLH ở
2 trường ĐH tại TPHCM, gồm: ĐHSP TPHCM, ĐH KHXHNV TPHCM.

– 22 chuyên gia đang công tác trong ngành TLH, bao gồm: lực lượng giáo dục
chuyên ngành, các giảng viên đang giảng dạy các bộ môn TLH ở 2 trường trên,
chuyên viên hướng nghiệp.

4

6.
Giả thuyết nghiên cứu

– ĐHNN của SV chuyên ngành TLH còn chủ quan, cảm tính (vì sở thích muốn
khám phá tâm lý của bản thân và mọi người, vì thần tượng người trong ngành, vì ảo
tưởng ngành nghề,…), mà chưa dựa trên cơ sở đánh giá một cách khoa học sự phù hợp
về tính cách, năng lực nghề nghiệp của bản thân với ngành đang theo học.
– Có sự khác biệt ý nghĩa về nhận thức, thái độ, hành vi giữa SV năm thứ nhất và
SV năm thứ ba, giữa SV nam và SV nữ về ĐHNN ở hai trường ĐH tại TPHCM.
– ĐHNN của SV chuyên ngành TLH chịu sự tác động của các yếu tố chủ quan,
thuộc về bản thân SV như sở thích, hứng thú,… nhiều hơn các yếu tố khách quan.
7.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
7.1.1. Quan điểm hệ thống – cấu trúc

ĐHNN của SV chuyên ngành TLH được nghiên cứu trên nhiều mặt: nhận thức,
thái độ và hành vi. Các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác ĐHNN được nghiên cứu
trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, chúng nằm trong một chỉnh
thể thống nhất, chịu ảnh hưởng lẫn nhau trong cùng một hệ thống.
7.1.2. Quan điểm thực tiễn
Nghiên cứu ĐHNN của SV chuyên ngành TLH xuất phát từ thực tiễn: SV
chuyên ngành TLH lựa chọn hệ thống các NN và ĐHNN như thế nào cho phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại và phù hợp với tính cách, năng lực của bản thân SV. Đó
là vấn đề hết sức quan trọng, cần phải được quan tâm nghiên cứu nhằm hạn chế vấn đề
lãng phí của cải, thời gian, công sức của người học và của cả xã hội. Đồng thời đáp
ứng nhu cầu cấp thiết về số lượng nguồn nhân lực chuyên ngành TLH có chất lượng,
tránh đào tạo nguồn nhân lực yếu kém cho xã hội.
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
7.2.1.1. Mục đích

– Hệ thống hóa những tài liệu, những cơ sở cần thiết nhằm xây dựng khung lý
thuyết, công cụ và nội dung nghiên cứu cho đề tài.
7.2.1.2. Cách thức

5

– Phân tích, tổng hợp các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, sách báo,
tạp chí chuyên ngành, các thông tin có liên quan đến đề tài.

7.2.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

a. Mục đích

– Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài, nhằm tìm hiểu thực trạng
ĐHNN và một số yếu tố ảnh hưởng đến ĐHNN của SV chuyên ngành TLH.

b. Cách thức

– Xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến gồm 10 câu hỏi mở, khảo sát ngẫu nhiên trên
94 SV để tìm hiểu sơ bộ biểu hiện về ĐHNN của SV chuyên ngành TLH.

– Tổng hợp kết quả từ bảng hỏi mở, xin ý kiến của các giáo viên, nhà chuyên
môn, tiến hành xây dựng phiếu khảo sát chính thức sử dụng trong đề tài và bảng khảo
nghiệm tính khả thi và tính cần thiết của các biện pháp.

– Sử dụng bảng hỏi chính thức và bảng khảo nghiệm biện pháp tiến hành khảo
sát trên mẫu nghiên cứu đã chọn để thu thập dữ liệu cho đề tài.

7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn

a. Mục đích

Thu thập những ý kiến cụ thể của một số nhà quản lý giáo dục, giảng viên, sinh
viên. Những ý kiến này sẽ là những dữ liệu quan trọng nhằm làm rõ hơn và mô tả cụ
thể hơn các kết quả thu được từ bảng hỏi.

b. Cách thức

– Người nghiên cứu chuẩn bị trước một số nội dung và tiến hành phỏng vấn 6
Thầy Cô giáo và 20 bạn SV chuyên ngành TLH ở 2 trường ĐH tại TPHCM.

– Ghi chép trung thực nội dung trả lời từ phía SV và các nhà chuyên môn để làm
tư liệu.

7.2.2.3. Phương pháp quan sát
a. Mục đích

Nhằm phát hiện, thu thập thêm những biểu hiện cụ thể về ĐHNN của SV.
b. Cách thức

6

Người nghiên cứu tham dự một số giờ học tập, thực hành, làm việc nhóm của
SV trên lớp và ngoại khóa. Trong quá trình quan sát, chúng tôi đảm bảo sự tự nhiên,
khách quan, trung thực những biểu hiện của SV. Quan sát được ghi nhận bằng biên
bản quan sát, có chụp hình làm tư liệu.

7.2.2.4. Phương pháp khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi

a. Mục đích

Nhằm tìm hiểu tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp ĐHNN cho SV
chuyên ngành TLH.

b. Cách thức

Sau khi tìm hiểu về thực trạng ĐHN của SV và thăm dò được các biện pháp nâng
cao hiệu quả ĐHNN cho SV, người nghiên cứu lựa chọn các biện pháp tiêu biểu, tổ
chức khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi đối với lực lượng giáo dục, các giảng
viên và SV 2 trường: ĐHSP TPHCM và Đại học KHXHNV TPHCM.
7.2.3. Phương pháp thống kê toán học

7.2.3.1. Mục đích

Nhằm xử lý, phân tích, đánh giá các thông tin thu được.

7.2.3.2. Cách thức

Người nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 16.0 để xử lý thống kê
như: tính tần số, tỷ lệ phần trăm, trị số trung bình, kiểm nghiệm T (so sánh trung bình
2 mẫu),… các số liệu thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
8.
Đóng góp của đề tài

8.1. Về mặt lý luận

– Hệ thống hóa được cơ sở lý luận về định hướng, nghề nghiệp và ĐHNN.

– Hệ thống hóa các nghề nghiệp và đặc điểm, yêu cầu của các nghề nghiệp
thuộc chuyên ngành TLH.

8.2. Về mặt thực tiễn

Đề tài làm rõ được thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến ĐHNN của SV
chuyên ngành TLH; đề xuất và khảo nghiệm một số biện pháp nâng cao hiệu quả công
tác ĐHNN cho SV chuyên ngành TLH ở các trường ĐH tại TPHCM.

7

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp

Vấn đề ĐHNN là một trong những vấn đề được nhiều nhà khoa học trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới đây là một số
công trình nghiên cứu:
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài

1.1.1.1. Những nghiên cứu ở Phương Tây
Tư tưởng ĐHNN cho thế hệ trẻ đã có từ thời cổ đại dưới dạng rất sơ khai và
biểu hiện thông qua việc phân chia lao động theo địa vị và xuất thân của mỗi người
trong xã hội. Đến thế kỷ XIX khi nền sản xuất phát triển cùng với những tư tưởng tích
cực về giải phóng con người diễn ra trên khắp thế giới thì khoa học hướng nghiệp
hay ĐHNN mới thực sự trở thành một khoa học độc lập.
Năm 1908, Giáo sư đại học Pensylvania, Frank Parson là người đặt nền móng
các khái niệm cơ bản cho hoạt động tư vấn hướng nghiệp (career counseling) hay tư
vấn nghề (vocational guidance) ngày nay. Đồng thời năm 1908, ông cũng đã thành lập
hội đồng hướng nghiệp ở Boston (Mỹ) với nhiệm vụ nghiên cứu các yêu cầu của nghề
đối với con người, tìm hiểu chi tiết về năng lực của người học để giúp họ có được sự
ĐHNN phù hợp với năng lực và hứng thú cá nhân [41, tr.5].
Một năm sau, cũng chính Frank Parsons là người đầu tiên, trình bày khái niệm
hướng nghiệp trong cuốn sách “Lựa chọn một nghề nghiệp” (Choosing a Vocation,
1909). Những khái niệm này đã trở thành lý luận cơ sở cho những lý thuyết có liên
quan đến đặc điểm tính cách con người (trait) và yếu tố nghề (factor) – (Trait and
factor theory: lý thuyết đặc điểm người/nghề). Nhìn chung, cuốn sách là công trình
nền tảng trình bày cơ sở TLH của hướng nghiệp và chọn nghề, cũng như các tiêu chí
về sự phù hợp nghề của mỗi cá nhân để từ đó lựa chọn nghề cho phù hợp [10].
Vào những năm 1940, nhà TLH người Mỹ J.L Holland (1919 – 2008) đã nghiên
cứu và thừa nhận sự tồn tại của các loại nhân cách và sở thích nghề nghiệp. Tác giả đã
chỉ ra tương ứng với mỗi kiểu nhân cách là một số những nghề nghiệp tương xứng có
thể chọn để đạt được kết quả làm việc và thành công nghề nghiệp cao nhất. Lý thuyết
này của J. L Holland đã được sử dụng rộng rãi nhất trong thực tiễn hướng nghiệp trên
thế giới [90].

8

Đến năm 1948, cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” xuất bản ở Pháp được xem là
cuốn sách đầu tiên nói về ĐHNN. Nội dung của cuốn sách đề cập đến sự phát triển đa
dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công nghiệp. Từ đó rút ra
những kết luận coi giáo dục hướng nghiệp là một vấn đề quan trọng không thể thiếu
khi xã hội loài người càng ngày có những bước tiến vượt bậc [9].
Tiếp tục phát triển đến năm 1970, 1980 ở Mỹ đã kết hợp chặt chẽ việc tư vấn
nghề với chương trình công nghệ và dạy nghề. Những nhà nghiên cứu ở đây cũng đã
đưa môn “Hướng dẫn chọn nghề – Career Guidance” vào giảng dạy ở trường Trung
học. Sau đó là từ bậc Trung học đến ĐH đều có các cố vấn học tập hay cố vấn tâm lý
làm việc. Đây cũng là những cơ sở ban đầu rất quan trọng của việc tham vấn hướng
nghiệp như: tìm hiểu bản thân, xác định khả năng, tìm hiểu về nghề để tìm ra những
định hướng chọn nghề trong tương lai sao cho thật phù hợp [84].
Năm 1974, cuốn sách “Nghiên cứu định hướng” của nhà TLH người Mỹ John L.
Holland lại tiếp tục bàn về ĐHNN với dụng cụ tư vấn, những đặc điểm môi trường và
con người dẫn đến việc chọn nghề, học nghề, gắn bó và thành công với nghề nghiệp
của con người được xuất bản lần đầu tiên, đến nay nó đã được sửa đổi nhiều lần và
trong mỗi lần xuất bản mới, đều được Holland sửa đổi theo quan điểm mới của ông và
theo đề xuất của khách hàng hay của các nhà phê bình [10, tr.11].
Tiếp theo đó, hàng loạt các bài phê bình về công trình nghiên cứu ĐHNN của
John Holland như: các bài phê bình của Bodden (1987), Daniels (1989, 1994) và của
Manuelle – Adkins (1989) nhận xét và cho rằng J. Holland đã đạt được mục đích
nghiên cứu về ĐHNN với: Dụng cụ tư vấn được nhiều người lớn và thanh niên sử
dụng để tư vấn và ĐHNN; Cơ cấu tổ chức thông tin nghề nghiệp và con người nhằm
hỗ trợ quyết định nghề nghiệp; Dụng cụ đo nghiệm tinh thần hoàn chỉnh cho người
nghiên cứu trong điều tra tính cơ sở và tính hợp lý của lý thuyết 6 tính cách, thường
gọi tắt là RIASEC [9].

Năm 1995, Meir, Melamed & Dinur nghiên cứu sự phù hợp giữa nghề nghiệp và
những kỹ năng có tương quan tích cực dự báo thành công trong công việc và nghề
nghiệp. Cho đến khi cuốn “Áp dụng lý thuyết phát triển nghề nghiệp trong tư vấn”
(Applying Career Development Theory to Counseling) của Richard S. Sharf ra đời, đã
mở rộng phạm vi tư vấn tâm lý sang lĩnh vực mới – tư vấn ĐHNN cho các đối tượng
có nhu cầu trong xã hội [10].

9

Ngoài những nghiên cứu ở các nước Mỹ, Pháp, Đức, các nhà nghiên cứu ở các
nước Phương Tây khác cũng đặc biệt quan tâm đến ĐHNN cho thế hệ trẻ, cụ thể như:
H. Perho, nhà TLH người Phần Lan đã tiến hành nghiên cứu “ĐHNN và nghệ thuật sư
phạm trong đào tạo giáo viên phổ thông”. Kết quả cho thấy, trong động cơ học tập của
SV, ước muốn nhận được điểm cao mạnh hơn ước muốn trở thành thầy giáo giỏi. Qua
đó, ông cảnh báo và kêu gọi tổ chức lại hệ thống (quy trình) tuyển sinh ngành Sư
phạm. Một nhà TLH Phần Lan khác, M.V. Volanen cũng nghiên cứu về ĐHNN và
thích ứng việc làm ở thanh niên. Kết quả cho thấy, những đánh giá chủ quan của thời
kỳ học nghề ảnh hưởng mạnh mẽ đến ĐHNN của thanh niên nhiều hơn so với thời kỳ
làm việc đầu tiên và phụ thuộc vào quá trình thích ứng nghề nghiệp của thanh niên.
Cùng lúc đó, Z. Ransenbakh cũng nghiên cứu về ĐHNN gắn với định hướng giá trị và
các kế hoạch cuộc sống của SV. Những công trình đó cho chúng ta góc nhìn cận cảnh
hơn về ĐHNN của thanh niên, SV trong giai đoạn lúc bấy giờ ở Phần Lan [18, tr. 17].

Như vậy, nhìn chung trọng tâm các nghiên cứu ĐHNN ở các nước phương Tây
chủ yếu sử dụng các phương tiện, thiết bị, công cụ chuyên môn nhằm tham vấn
chuyên sâu từng đối tượng với mục đích xác định xu hướng và sự phù hợp nghề
nghiệp của thanh niên đối với nghề này hay nghề khác, giúp đỡ thanh niên lựa chọn
và quyết định nghề nghiệp phù hợp.

1.1.1.2. Những nghiên cứu ở Liên Xô

Ở Liên Xô (cũ) vào những năm 29, 30 của thế kỷ XX, vấn đề hướng nghiệp
cho HS cũng được các nhà khoa học và lãnh đạo chính quyền Xô Viết đặc biệt quan
tâm. Nhà giáo dục học lỗi lạc N. K Crupxkaia đã từng nêu lên luận điểm “Tự do chọn
nghề” cho mỗi thanh thiếu niên. Theo bà, công tác hướng nghiệp giúp cho trẻ phát
triển được hứng thú và năng lực nghề nghiệp, giáo dục cho các em thái độ lao động
đúng đắn, động cơ chọn nghề trong sáng. Từ đó các em có thái độ tự giác trong việc
chọn nghề [10, tr.12].

Dựa trên cơ sở các luận điểm về hướng nghiệp của C. Mác và V.I Lênin các
nhà giáo dục Liên Xô như B.F Kapeep, X.Ia Batưsep, X.A Sapôrinxki, V.A Pôliacôp
trong các tác phẩm và công trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra tầm quan trọng của
giáo dục hướng nghiệp và ĐHNN cho thế hệ trẻ sẽ là cơ sở để họ chọn nghề đúng
đắn, phù hợp giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội [70].

Trong những năm 1970, nhà TLH lao động người Liên Xô E.A.Kalimốp đã
đưa ra trắc nghiệm “Xác định kiểu nghề cần chọn trên cở sở tự đánh giá” với 30 câu

10

hỏi. Cùng thời gian đó, A.E.Côlômtốc cũng đưa ra trắc nghiệm đo hứng thú nghề
nghiệp với 78 câu hỏi. Cùng thời điểm, nhiều nhà khoa học ở Liên Xô cũ xem “Tam
giác hướng nghiệp” của K.K. Platonov là yêu cầu chuẩn xác cho việc chọn ngành
nghề. Tác giả của quan điểm “tam giác hướng nghiệp” vạch ra ba yếu tố cơ bản của
việc chọn nghề là: đặc điểm cá nhân, tính chất nghề nghiệp và nhu cầu xã hội. Thực tế
cho thấy tam giác này khá quan trọng nhưng chưa thực sự là những cơ sở hoàn toàn
phù hợp và thỏa đáng để học sinh chọn nghề vì còn những điều kiện khác như: khả
năng học tập, thời gian học tập… cũng ảnh hưởng nhiều đến việc chọn nghề, học nghề
và làm nghề [10, tr. 14], [77].

Ngoài ra, có thể đề cập thêm một số công trình nghiên cứu về hứng thú và
ĐHNN của các tác giả: V.N. Supkin, V.P. Gribano, X.N. Trixtaiakova, A.A.
Barbinova cũng phản ánh phần nào xu hướng nghề nghiệp của học sinh. HS ở một vài
quốc gia mà nhiều nhất là ở Liên Xô cũ thường có dự định tiếp thu nền học vấn cao
hơn và không muốn đi làm ngay. Những tổng kết cho thấy những năm 1970, HS có
xu hướng với những nghề thuộc lĩnh vực sản xuất. Nhưng đến những năm 1985, HS
lại thích thú với các nghề lĩnh vực xã hội. Đặc biệt, giữa học HS nữ và HS nam có sự
khác biệt khi HS nam quan tâm nhiều đến lĩnh vực kỹ thuật trong khi HS nữ lại quan
tâm hơn với các nghề như: y tế, giáo dục, nghệ thuật [64, tr.3].

Như vậy, các công trình nghiên cứu ĐHNN ở Liên Xô đã vạch ra các yếu tố cơ
bản (đặc điểm cá nhân, tính chất ngành học, nghề nghiệp, nhu cầu xã hội) ảnh hưởng
đến quá trình ĐHNN. Đồng thời đưa ra những cơ sở, những luận cứ khoa học giúp
cho việc ĐHNN của thế hệ trẻ được chuẩn xác hơn. Qua đó, đề cao vai trò quan trọng
của công tác ĐHNN đối với xã hội nói chung và thế hệ trẻ nói riêng.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam

Nghiên cứu hướng nghiệp và ĐHNN ở Việt Nam, theo các chuyên gia đã có
những bước phát triển mạnh mẽ vào những năm 1970, 1980. Tiếp thu những thành
tựu của các nước trên thế giới và thực tiễn nghiên cứu trong nước. Thời gian gần đây
giáo dục hướng nghiệp và ĐHNN ở Việt Nam đã có rất nhiều các công trình nghiên
cứu với các cách tiếp cận khác nhau. Điều đó tạo nên một giai đoạn mới với sự đa
dạng trong nghiên cứu khoa học hướng nghiệp ở Việt Nam.

Đầu tiên phải kể đến những nhà khoa học đi tiên phong trong lĩnh vực này như
GS. Phạm Tất Dong, GS Phạm Huy Thụ, PGS. Đặng Danh Ánh, GS. Nguyễn Văn

11

Hộ,…và một số các tác giả trẻ khác, với các công trình nghiên cứu chuyên sâu về
nhiều khía cạnh và lĩnh vực khác nhau của hướng nghiệp và ĐHNN [2], [3], [42].

Trong số đó, có thể nói GS. Phạm Tất Dong là người có đóng góp rất nhiều cho
giáo dục hướng nghiệp (GDHN) Việt Nam, ông đã dày công nghiên cứu các vấn đề lí
luận và thực tiễn cho GDHN như: xác định mục đích, ý nghĩa, vai trò của hướng
nghiệp; hứng thú, nhu cầu, động cơ nghề nghiệp; hệ thống các quan điểm, nguyên tắc
hướng nghiệp; các nội dung, phương pháp, biện pháp GDHN,…Điều này được thể
hiện ở rất nhiều bài báo cáo, bài báo, sách, giáo trình của ông như: bài “hướng nghiệp
cho thanh niên”, đăng trên tạp chí thanh niên (số 8, 1982); Báo cáo “Một con đường
hình thành lý tưởng nghề nghiệp cho HS lớn”; Các tác phẩm như: “Nghề nghiệp tương
lai – giúp bạn chọn nghề” hay cuốn “Tư vấn hướng nghiệp – sự lựa chọn cho tương
lai” hoặc cuốn “Giúp bạn chọn nghề” (2005) đưa ra những cơ sở khoa học lựa chọn
nghề nghiệp phù hợp. Trong công trình nghiên cứu gần đây ông đã chỉ ra vai trò của
hướng nghiệp góp phần điều chỉnh việc ĐHNN của thanh niên theo hướng chuyển đổi
cơ cấu kinh tế [13], [14], [15], [45, tr.15].

Sau đây, xin đề cập chi tiết thêm một số công trình nghiên cứu cụ thể về vấn đề
ĐHNN và các vấn đề liên quan đến đề tài.

Trước hết, phải kể đến đó là những công trình nghiên cứu khoa học các cấp
(Nhà nước, Bộ, Sở, Quận, Huyện) của nhiều tác giả, như:

Theo kết quả điều tra SV do khoa Triết học, trường Đại học Tổng hợp tiến hành
vào tháng 11 năm 1990 ở 5 trường ĐH tại Hà Nội: ĐH Bách Khoa, ĐH Tổng hợp, ĐH
Sư Phạm I, ĐH kinh tế Quốc dân và ĐH Văn hóa, nghiên cứu 2 vấn đề chính: 1/ Sự
lựa chọn ban đầu, động cơ và mục đích vào trường; 2/ Chuẩn bị ra trường, những suy
nghĩ về phẩm chất nghề nghiệp và chỗ làm việc trong tương lai của SV. Nghiên cứu
phát họa vài nét về sự hình thành và biến đổi những định hướng giá trị xã hội – nghề
nghiệp của SV. Qua đó cho thấy có sự phân hóa rõ rệt các ĐHNN của SV do điều kiện
kinh tế – xã hội gây ra [73, tr.2].

Từ những năm 1994-1995, PGS. TS. Trần Thị Minh Đức với đề tài cấp Bộ về
“ĐHNN của SV và HS ở một số trường THPT và ĐH ở Hà Nội”, mã số: B94-0507 đã
mở ra một xu hướng nghiên cứu ĐHNN cụ thể, thực tế và bám sát những đối tượng mà
xã hội lúc bấy giờ đặc biệt quan tâm. Cũng trong năm 1994, Viện nghiên cứu phát
triển giáo dục đã tiến hành nghiên cứu “Một số đặc điểm xu hướng nghề nghiệp của

12

SV trong sự chuyển đổi kinh tế xã hội mới” do Trần Ninh Giang làm chủ nhiệm. Kết
quả phản ánh tình hình kinh tế xã hội chi phối mạnh mẽ việc chọn nghề của SV, từ
đó phát triển xu hướng lựa chọn những nghề nghiệp thiên về kinh tế và công nghệ ở
sinh viên [9], [14].

Tiếp theo đó, năm 2003 -2004, Viện Khoa học Lao động và Xã hội đề xuất và tổ
chức nghiên cứu độc lập đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu thị trường lao động và
ĐHNN của thanh niên Việt Nam hiện nay”, do TS. Nguyễn Hữu Dũng làm chủ nhiệm.
Qua đó, cho thấy sự cần thiết và cấp bách là phải tạo điều kiện và thực hiện những
biện pháp tối ưu góp phần giúp đỡ thế hệ trẻ ĐHNN tương lai [18, tr. 24].

Năm 2004, hai tác giả Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Văn Lê nghiên cứu ĐHNN
với công trình “Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12 trường THPT
dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường”, kết luận: Đa số học sinh THPT chưa
được ĐHNN phù hợp. Sau khi tốt nghiệp phổ thông một bộ phận lớn HS sẵn sàng
tham gia vào thị trường lao động mà không tiếp tục học lên. ĐHNN của HS THPT phụ
thuộc rất nhiều vào công tác GDHN ở từng trường. Tuy nhiên, các hoạt động GDHN
có vai trò mờ nhạt. Nguyên nhân một phần là do bản thân người làm công tác hướng
nghiệp chưa có sự phát triển phù hợp cả về thái độ lẫn năng lực hiểu biết nghề nghiệp
[47, tr.11-18].

Vào năm 2005, tại Sở KHCN TPHCM tác giả Nguyễn Ngọc Tài chủ nhiệm đề tài
“Xu hướng chọn nghề của học sinh TPHCM hiện nay và các giải pháp giáo dục có
định hướng”. Đề tài đã phân tích thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THCS,
THPT, các yếu tố thúc đẩy việc chọn nghề và khẳng định HS vẫn rất lúng túng khi lựa
chọn nghề vì lượng thông tin ít ỏi, thiếu nội dung chính thống [70].

Ngoài ra còn một số công trình khoa học khác cũng nghiên cứu về vấn đề
ĐHNN: năm 2005-2006, Trần Thị Thu Mai với công trình nghiên cứu khoa học cấp
Bộ “Ứng dụng trắc nghiệm hướng nghiệp của Jim Barrett và Geoff Williams vào
ĐHNN cho học sinh THPT”, mã số: B2005.23.67; hay nghiên cứu của Đào Thị Vân
Anh, Nguyễn Ngọc Tài (2010), “ĐHNN cho học sinh tại các trường dân tộc nội trú
nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triến kinh tế – xã hội tại các tỉnh
Tây Nguyên”, Đề tài cấp Bộ B2007.19.34 [3], [53].

Tiếp nối những công trình khoa học cấp cao là những luận án, luận văn, khóa
luận nghiên cứu về hướng nghiệp và ĐHNN với một số tác giả cụ thể như:

13

Phạm Mạnh Hà với nghiên cứu “Thực trạng chọn nghề của học sinh lớp 12
trường THPT số 1 Bát Xát, Lào Cai” (2003), tiến hành nghiên cứu trên 120 HS. Kết
quả thu được là thực trạng chọn nghề của HS nơi đây còn cảm tính, thiếu cơ sở khoa
học, đây được xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới sai lầm trong lựa
chọn nghề của HS [29].

Trần Đình Chiến với Luận án Giáo dục học (2008) “Xu hướng lựa chọn nghề
nghiệp của HS lớp 12 trường THPT dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường” (khảo
sát tại tỉnh Phú Thọ), Thái Nguyên cũng đã phản ánh thực trạng chọn nghề theo cảm
tính của HS, chọn những nghề có địa vị, danh tiếng trong xã hội mà không quan tâm
đến sự phù hợp giữa nghề nghiệp với bản thân người học [10].

Tác giả Phạm Thị Ngọc Hà với Luận văn về “ĐHNN của HS lớp 12 qua khảo
sát tại thành phố Đà nẵng”, cho thấy nữ HS có nguyện vọng học nghề ở bậc ĐH cao
hơn nam HS (67,3% so với 55,7%). Tác giả cũng chỉ ra các yếu tố tác động tới
ĐHNN của HS THPT bao gồm: yếu tố cá nhân, nhà trường, gia đình, bạn bè và
truyền thông đại chúng. Kết quả còn cho thấy, sự tác động từ phía gia đình chỉ mang
tính chất tham khảo khi HS lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Cùng chung kết quả là
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Diệp về “ĐHNN của học sinh THPT ở Hà Nội”
đã chỉ ra rằng gia đình trong xã hội hiện đại theo xu thế mới ngày càng ít ảnh hưởng
đến ĐHNN của con em mình mà để con em mình tự quyết định, tự chọn nghề nghiệp
cho tương lai [19], [41].

Năm 2010, Trần Thị Dịu với luận văn nghiên cứu “ĐHNN – Ảnh hưởng của gia
đình, bạn bè và nhà trường đến HS khối 12” (Nghiên cứu trường hợp tại TPHCM), đã
làm rõ được tác động từ phía gia đình, bạn bè và nhà trường đến nhận thức về hướng
nghiệp và hành vi chọn nghề của HS, cụ thể như sau: Nhà trường tác động lên nhận
thức về nghề nghiệp nhưng không tác động lên hành vi chọn nghề; Bạn bè tác động lên
hành vi chọn nghề nhưng không tác động đến nhận thức nghề nghiệp; Gia đình tác
động lên hành vi chọn nghề nhưng không tác động lên nhận thức nghề nghiệp; Gia
đình tạo điều kiện tác động tích cực lên nhận thức nghề nghiệp nhưng lại tác động tiêu
cực đến hành vi chọn nghề của HS. Tương tự là Luận văn về “Vai trò của cha mẹ trong
việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con ở các gia đình đô thị hiện nay” khảo
sát tại phường Tràng Tiền, thành phố Hà Nội cũng đã nêu rõ vai trò quan trọng của cha
mẹ trong việc ĐHNN cho con em. Đa phần cha mẹ theo hướng cho con học ĐH hoặc

14

những ngành nghề có địa vị cao trong xã hội mà không quan tâm đến năng lực, sở
thích của con cái [12], [50].

Năm 2013, Đỗ Thị Ngọc Chi với luận văn “ĐHNN của HS THPT trên địa bàn
TP Hải Phòng”. (Nghiên cứu trường hợp tại trường THPT Mạc Đĩnh Chi, TP Hải
Phòng) – ĐH Quốc gia Hà Nội – trường Đại học KHXHNV. Kết quả cho thấy những
bất cập trong việc giáo dục và triển khai các biện pháp ĐHNN cho HS tập trung không
chỉ về phía nhà trường mà còn chịu sự chi phối mạnh mẽ từ gia đình và các phương
tiện truyền thông đại chúng. Sự ảo tưởng ngành nghề và thiếu thông tin chính xác là
những yếu tố chính khiến HS chọn lầm nghề [9].

Bên cạnh đó, một số Khóa luận cũng nghiên cứu về ĐHNN như: Tác giả Lê
Nguyên Long với đề tài “Thái độ của cha mẹ đối với việc học của con và ĐHNN cho
con ở gia đình ngoại thành Hà Nội” (2006) đã chỉ ra trình độ học vấn, nghề nghiệp
của cha mẹ, mức sống của gia đình có ảnh hưởng mạnh mẽ tới lựa chọn nghề nghiệp
của HS một cách nhất định. Trong đó, nghề nghiệp của bố mẹ có sự tương quan
nhiều với hiểu biết nghề nghiệp của con nhưng lại không có sự khác biệt nhiều với
thái độ nghề nghiệp của HS; hay tác giả Nguyễn Văn Thành với đề tài “ĐHNN cho
con cái của các gia đình nông thôn ở đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ đổi mới” cũng
đã cho thấy trọng tâm ĐHNN cho con cái của các gia đình ở nông thôn là những nghề
có thu nhập cao hoặc có vị trí cao trong xã hội [50], [72].

Như vậy, các tác giả nêu trên đã có những nghiên cứu thực tiễn về thực trạng, xu
hướng, động cơ lựa chọn nghề và chỉ ra những nguyên nhân, đặc biệt là vai trò của
yếu tố gia đình ảnh hưởng đến lựa chọn nghề của lớp thanh thiếu niên hiện nay. Đồng
thời chỉ ra mối quan hệ giữa GDHN và phát triển nguồn nhân lực đất nước trong thời
kì hội nhập.

Tiếp đến là một số sách nghiên cứu và một số bài viết về đề tài ĐHNN đăng tải
trên các Tạp chí khoa học như:

Tác phẩm “Một số vấn đề TLH sư phạm và lứa tuổi HS Việt Nam” (1975) của
tập thể tác giả thuộc Viện Khoa học Giáo dục nghiên cứu về xu hướng chọn nghề, dự
định nghề nghiệp của học sinh THPT cho thấy: đa số HS có xu hướng đạt trình độ ĐH
trước khi đi vào lao động phục vụ (78,64% ở nữ, 63,38% ở nam). Hứng thú nghề
nghiệp của nam biểu hiện tập trung vào những nghề công nghiệp và của nữ là những

15

nghề thuộc lĩnh vực y tế. Từ đó, các tác giả đi đến tìm hiểu những yếu tố tác động đến
sự hình thành xu hướng nghề nghiệp của học sinh cấp ba [55], [61].

Năm 1991, “Một số đặc điểm hứng thú và ĐHNN của HS phổ thông cơ sở” của
Triệu Thị Phương, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 5. Cùng năm 1991, trên
tạp chí Xã hội học (số 3), tác giả Nguyễn Phương Thảo cũng có bài viết về “Những
định hướng giá trị xã hội – nghề nghiệp của SV trong giai đoạn hiện nay” cho thấy sự
lựa chọn nghề nghiệp của thế hệ trẻ bị chi phối mạnh mẽ bởi yếu tố chủ quan. Họ ảo
tưởng, kỳ vọng quá mức vào nghề nghiệp và thiếu cơ sở khoa học về sự phù hợp nghề
nghiệp với tính cách, năng lực của bản thân [67].

Năm 2000, Nguyễn Thị Kim Hoa cũng đã viết bài “Người phụ nữ và gia đình
nông thôn với việc giáo dục tri thức và ĐHNN cho con” đăng trên Tạp chí Khoa học
phụ nữ (số 2) đã đề cập đến một số nguyên nhân ảnh hưởng đến giáo dục và ĐHNN
cho con cái của người phụ nữ nông thôn. Một số nguyên nhân được tác giả đề cập đến
trong bài viết là: trình độ học vấn, tôn giáo và điều kiện kinh tế gia đình của phụ nữ có
ảnh hưởng nhất định đến ĐHNN cho con cái [50].

Năm 2002, Trần Quốc Thành có bài “Định hướng giá trị nghề nghiệp của HS lớp
12 THPT một số tỉnh miền núi phía Bắc”, Tạp chí TLH (số 8), Hà Nội đã nhắc đến đến
tầm quan trọng của việc ĐHNN, nhận thức về nghề nghiệp, xu hướng chọn nghề và
những nhân tố ảnh hưởng đến sự định hướng giá trị nghề nghiệp của HS. Trong đó,
vai trò của gia đình, bạn bè và các giá trị vật chất về nghề nghiệp có xu hướng được
đề cao trong quá trình ĐHNN của thế hệ trẻ. Cùng năm 2002, Phạm Thị Đức với bài
“Những nguyên nhân ảnh hưởng tới sự định hướng trong việc học tập, chọn nghề ở
học sinh THPT” đăng trên Tạp chí giáo dục [50].

Đến năm 2004, Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền có bài viết “Để nâng cao chất
lượng giáo dục hướng nghiệp trong tình hình mới” đăng trên Tạp chí giáo dục. Tiếp
sau đó, năm 2008, Nguyễn Thị Lan với bài viết “Về dự định nghề nghiệp cho con của
các bậc cha mẹ trong bối cảnh phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta” đăng trên Tạp chí
TLH cho thấy các bậc cha mẹ sẵn sàng cho con mình tham gia vào những công việc
thuộc lĩnh vực kinh tế và mong muốn con mình trở thành một nhà kinh doanh tư nhân
trong giai đoạn hiện tại cũng như trong tương lai [42].

Gần đây, năm 2012, các tác giả Vũ Cao Đàm, Nguyễn Văn Kim, Đào Thanh
Trường nghiên cứu về “Định hướng việc làm của SV khối KHXHNV trước khi tốt
nghiệp ra trường” được Nhà xuất bản thế giới in trong “Lựa chọn giải pháp nhằm thu

16

hẹp khoảng cách giữa đào tạo ĐH trong lĩnh vực KHXHNV với nhu cầu của thị
trường lao động”, đã nêu rõ vấn đề ĐHNN của SV ngành KHXHNV rất đặc thù và
chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, đặc biệt là yêu cầu cấp thiết của xã hội và thị
trường lao động lúc bấy giờ. Cùng vấn đề trên, ĐHNN với thực trạng, giải pháp,
phương hướng cũng được đề cập trong tác phẩm “Các sản phẩm dự án hợp tác giữa
trường ĐH KHXHNV Hà Nội và Viện Rosa Luxemburg, CHLB Đức triển khai trong
10 năm”, (2012) được viết bởi nhiều tác giả và được xuất bản bởi Trung tâm nghiên
cứu và phát triển chính sách [22].

Như vậy, trong các công trình nghiên cứu hiện có, ĐHNN được tiếp cận theo các
hướng chủ yếu sau: Một là, ĐHNN được xem xét như một khía cạnh của hứng thú
nghề, động cơ nghề và xu hướng chọn nghề tập trung vào đối tượng HS THPT; Hai là,
ĐHNN được xem xét ở khía cạnh chọn nghề dựa theo hệ thống các giá trị của nghề
nghiệp (giá trị xã hội nhân văn, giá trị cá nhân, giá trị tri thức nghề nghiệp,…), Ba là,
ĐHNN được xem xét trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội ở một số địa phương cụ
thể nhưng chưa có sự gắn kết với những biến động không ngừng của xã hội và của thế
giới nghề nghiệp; Bốn là, ĐHNN được phân tích và nghiên cứu theo hướng xây dựng,
cải biên và ứng dụng các trắc nghiệm để giúp các đối tượng ĐHNN một cách phù hợp
hơn, khoa học hơn.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã cho chúng ta thấy được một bức
tranh thực trạng nghề nghiệp lúc bấy giờ và ít nhiều nêu bật lên tính cấp thiết về vấn
đề ĐHNN cho giới trẻ trong xã hội; những khó khăn, thuận lợi khi ĐHNN; cũng như
những yếu tố ảnh hưởng đến ĐHNN cho HS, SV. Tuy nhiên, phần lớn các công trình
nghiên cứu chỉ tập trung vào ĐHNN cho đối tượng HS THPT mà bỏ quên đối tượng
cực kỳ quan trọng là thanh niên, SV ở các trường THCN, CĐ, ĐH. Những nghiên cứu
về ĐHNN ở đối tượng là SV chuyên ngành TLH vẫn chưa có đề tài nào đề cập đến.
Đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần làm sáng tỏ ĐHNN của SV chuyên ngành TLH ở
một số trường ĐH tại TPHCM.
1.2. Lý luận về định hướng nghề nghiệp

1.2.1. Khái niệm định hướng

Định hướng (theo cách hiểu thông thường) nghĩa là sự lựa chọn, là xác định cho
mình một lối đi, một cách làm hay rộng hơn là hành động, lối cư xử sao cho phù hợp
với bản thân và với tồn tại xung quanh.

17

Theo từ điển TLH của Vũ Dũng (Viện khoa học xã hội Việt Nam 2008), định
hướng là khuynh hướng của một hoạt động cụ thể, nó thể hiện sự am hiểu, thông thạo
vấn đề và gắn liền với những kỹ năng nắm bắt, làm chủ trong một hoàn cảnh hay bối
cảnh nào đó [17, tr. 161].

Tóm lại, định hướng trong đề tài này được hiểu là hành động để xác định, đưa ra
một hướng đi cụ thể cho hoạt động nào đó trên cơ sở cân nhắc kỹ đặc điểm của từng
đối tượng. Mục đích cuối cùng của định hướng là có được một hướng đi phù hợp với
mọi điều kiện, hoàn cảnh khách quan và chủ quan của chủ thể [9, tr. 10].

1.2.2. Khái niệm nghề nghiệp

1.2.2.1. Định nghĩa nghề nghiệp

Thuật ngữ “Nghề nghiệp” được sử dụng phổ biến và định nghĩa dưới nhiều góc
độ khác nhau trong nhiều lĩnh vực khoa học: xã hội học, tâm lý học, giáo dục học,
kinh tế học,… Nhìn chung, có những quan niệm cơ bản sau về nghề nghiệp:

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, “nghề nghiệp” là một hiện tượng xã hội có
tính lịch sử. Nghề nghiệp có quá trình ra đời, phát triển và suy vong theo tiến trình lịch
sử. Điểm xuất phát và cơ sở để xuất hiện nghề nghiệp là lao động. Lao động là loại
hoạt động sáng tạo ra con người và là cơ sở cho sự phát triển xã hội loài người. Lao
động chính là tiền đề cơ bản làm xuất hiện nghề nghiệp.

Theo quan điểm của kinh tế học, “nghề nghiệp” là tri thức và kỹ năng lao động
mà người lao động có được trong quá trình huấn luyện chuyên môn hoặc qua thực tiễn,
cho phép người đó có thể thực hiện được một loại hoạt động nhất định trong hệ thống
phân công lao động xã hội.

Theo quan điểm Giáo dục học, “nghề nghiệp” là công việc chuyên môn được
định hình một cách hệ thống, là dạng đòi hỏi một trình độ học vấn nào đó để thực hiện
hoạt động cơ bản, giúp con người tồn tại và phát triển. Từ điển Larousse của Pháp định
nghĩa: “Nghề là hoạt động thường ngày được thực hiện bởi con người nhằm tự tạo
nguồn thu nhập cần thiết để tồn tại” [13].

Theo quan điểm ngôn ngữ học, có rất nhiều tác giả đã đề cập đến quan điểm
“nghề nghiệp” như: Tác giả Nguyễn Tiến Đạt quan niệm, từ “nghề” ghép với từ
“nghiệp” thành từ “nghề nghiệp”. “Nghề nghiệp” nên hiểu là “các nghề phức tạp thiên
về trí tuệ, có trình độ cao hơn, bao giờ cũng đòi hỏi phải được đào tạo, nhiều khi lâu
dài, luôn gắn với các cơ hội thăng tiến trong nghề của con người, vì trong thành phần

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *