BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH CỦA TỔNG CÔNG TY HÀNG KHÔNG VIỆT NAM
PHẦN MỞ ĐẦU
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững cần phải có các hoạt động: nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích tình hình hiện tại của cả nền kinh tế, của chính doanh nghiệp, từ đó, vạch ra các chiến lược phát triển ngắn hạn và dài hạn, nhằm mục đích cuối cùng là tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu. Một trong những hoạt động quan trong đó là phân tích tài chính và đánh giá hiệu quả tài chính, thông qua đó tìm các giải pháp nâng cao hiệu quả tài chính, cũng như nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp.
Tổng công ty hàng không Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn, hoạt động kinh doanh vận tải hàng không là chủ yếu, lấy Hãng hàng không quốc gia làm nòng cốt. Tổng công ty đã có đóng góp to lớn trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành vận tải hàng không nói riêng. Đặc biệt trong điều kiện khu vực hoá, quốc tế hoá như hiện nay, thì vận tải hàng không ngày càng cần thiết và đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu, phục vụ cho tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với Tổng công ty – Vietnam Airlines và các đơn vị thành viên là phải đi trước một bước, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển lâu dài của đất nước.
Trong quá trình thực tập tại phòng Tài chính đầu tư của Tổng công ty, được sự giúp đỡ của Thầy giáo: Th.S Đặng Anh Tuấn, cùng các chú, các cô trong phòng, kết hợp với những kiến thức đã học và đọc, em đã tìm hiểu, nghiên cứu, và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp nghiên cứu về tình hình tài chính của Tổng công ty là: Phân tích tài chính và nâng cao hiệu quả tài chính của Tổng công ty Hàng không Việt Nam.
Chuyên đề này gồm ba chương chính:
Chương I: Lý thuyết chung về phân tích tài chính và đánh giá hiệu quả tài chính của doanh nghiệp.
Chương II: Phân tích tài chính và đánh giá hiệu quả tài chính Tổng công ty Hàng không Việt Nam.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả tài chính của Tổng công ty.
Do thời gian hạn hẹp và trình độ còn nhiều hạn chế, nên chuyên đề còn những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý phê bình của Thầy Đặng Anh Tuấn, và của chú Thuỷ, cô Hằng, cùng các cô chú khác trong Phòng Tài chính đầu tư – Ban tài chính của Tổng công ty hàng không Việt Nam, để em có thể sớm hoàn thành chuyên đề một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 04 năm 2006
Sinh viên thực hiện:
Chu Thị Phượng
Chương I: Lý thuyết chung về phân tích tài chính và đánh giá hiệu quả tài chính
I. Một số vấn đề chung.
Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như: tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp v.v…song tất cả các mục tiêu cụ thể đó đều nhằm mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Bởi lẽ, một doanh nghiệp phải thuộc về các chủ sở hữu nhất định: chính họ phải nhận thấy giá trị đầu tư của họ tăng lên; khi doanh nghiệp đặt ra mục tiêu là tăng giá trị tài sản cho các chủ sở hữu, doanh nghiệp đã tính tới sự biến động của thị trường, các rủi ro trong hoạt động kinh doanh.Quản lý tài chính doanh nghiệp chính là nhằm thực hiện mục tiêu đó.
Quản lý tài chính là sự tác động của các nhà quản lý tới các hoạt động tài chính của doanh nghiệp, được thực hiện thông qua cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp – được hiểu là tổng thể các phương pháp, các hình thức và công cụ được vận dụng để quản lý các hoạt động tài chính của doanh nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhằm mục tiêu nhất định. Trong đó, nghiên cứu phân tích tài chính là một khâu quan trọng trong quản lý tài chính.
Phân tích tài chính là sử dụng các phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Hay nói cách khác, phân tích tài chính là việc thu thập, phân tích các thông tin kế toán và các thông tin khác để đánh giá thực trạng và xu hướng tài chính, khả năng tiềm lực của doanh nghiệp nhằm mục đích đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Yêu cầu của phân tích tài chính là đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu về tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp qua đó đánh giá tổng quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp, dự báo những bất ổn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: thông tin nội bộ doanh nghiệp và thông tin bên ngoài doanh nghiệp; thông tin số lượng và thông tin giá trị. Những thông tin đó giúp các nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận chính xác và tinh tế. Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp thì thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp là quan trọng bậc nhất. Các thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo tài chính kế toán, bao gồm:
– Bảng cân đối kế toán
– Báo cáo kết quả kinh doanh
– Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
– Thuyết minh báo cáo tài chính ( chưa phổ biến )
Tuy nhiên, theo chế độ hiện hành ngày nay, các doanh nghiệp thuộc hoạt động kinh doanh có trách nhiệm phải công khai báo cáo tài chính năm trong Bảng công khai báo cáo tài chính. Bảng công khai báo cáo tài chính bao gồm các thông tin liên quan đến tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh,…Thông qua đó, các nhà phân tích có thể tiến hành phân tích, xem xét và đưa ra nhận định về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh,…của doanh nghiệp.
1. Bảng cân đối kế toán ( Bảng cân đối tài sản )
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thường, Bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản va một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: Tài sản cố định; Tài sản lưu động.
Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản có của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: Vốn của chủ và các khoản nợ.
Các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo khả năng chuyển hoá thành tiền – tính thanh khoản – giảm dần từ trên xuống.
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản; bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp.
Nhìn vào Bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ của doanh nghiệp. Bảng cân đối tài sản là một tài liệu quan trọng nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp.
2. Báo cáo kết quả kinh doanh ( Báo cáo thu nhập )
Báo cáo kết quả kinh doanh cũng là một trong những tài liệu quan trọng trong phân tích tài chính. Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh giúp các nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ; so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả hoạt động kinh doanh là lỗ hay lãi trong một thời kỳ.
Như vậy, Báo cáo kêt quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình tài chính và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, có các khoản mục chủ yếu: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh; doanh thu từ hoạt động tài chính; doanh thu tư hoạt động bất thường và các chi phí tương ứng.
3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ ( Báo cáo ngân quỹ )
Để đánh giá về khả năng chi trả của một doanh nghiệp cần tìm hiểu về tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp, bao gồm:
– Xác định hoặc dự baó dòng tiền thực nhập quỹ ( thu ngân quỹ ): dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư tài chính; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường.
– Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ ( chi ngân quỹ ) : dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động đầu tư, tài chính; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường.
Trên cơ sở dòng tiền nhập và xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó, thiết lập mức dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.
4. Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính sẽ cung cấp bổ sung cho các nhà quản lý những thông tin chi tiết, cụ thể hơn về một số tình hình liên quan đến hoạt động kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ngày nay thuyết minh báo cáo tài chính vẫn chưa thực sự phổ biến, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường không áp dụng.
5. Bảng công khai báo cáo tài chính
Theo chế độ hiện hành (Điều 32, Điều 33 – Luật kế toán ) các doanh nghiệp (Đơn vị kế toán ) thuộc hoạt động kinh doanh có trách nhiệm phải công khai báo cáo tài chính năm trong thời hạn một năm hai mươi ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Nội dung công khai báo cáo tài chính của đơn vị kế toán bao gồm các thông tin liên quan đến tình hình tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu; kết quả hoạt động kinh doanh; tình hình trích lập và sử dụng các quỹ; tình hình thu nhập của người lao động. Việc công khai báo cáo tài chính được thực hiện theo các hình thức như: phát hành ấn phẩm, thông báo bằng văn bản, niêm yết và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước ( bao gồm các Tổng công ty nhà nước, công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty Nhà nước, các công ty Nhà nước độc lập, công ty cổ phần nhà nước, công ty có cổ phần hoặc có vốn góp chi phối của Nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có hai thành viên trở lên) theo quy định tại Quyết định số 192/2004/QĐ – TTg và thông tư số 29/2005/TT – BTC phải thực hiện công khai các nội dung thông tin tài chính về: tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh, việc trích lập sử dụng các quỹ doanh nghiệp, các khoản đóng góp cho ngân sách nhà nước của doanh nghiệp, các khoản thu nhập và thu nhập bình quân của người lao động, số vốn góp và hiệu quả góp vốn của nhà nước tại doanh nghiệp. Căn cứ vào Bảng công khai một số chỉ tiêu tài chính theo quy định, các nhà phân tích tài chính sẽ tiến hành phân tích, xem xét và đưa ra nhận định về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh,…của doanh nghiệp.
6. Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp.
Để phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp, các nhà phân tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích. Từ đó, sử dụng các phương pháp phân tích để đánh giá và nhận biết xu thế thay đổi tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Một trong những phương pháp phân tích được áp dụng phổ biến là phương pháp tỷ số – phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để phân tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ số cần phải xác định được các ngưỡng – các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp cần kết hợp phương pháp tỷ số với phương pháp so sánh để so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Khi phân tích, nhà phân tích thường so sánh theo thời gian ( so sánh kỳ này với kỳ trước ) để nhận biết xu thế thay đổi tình hình tài chính của doanh nghiệp, theo không gian ( so sánh với mức trung bình ngành ) để đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong ngành.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT. Bản chất của phương pháp là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như: Thu nhập trên tài sản ( ROA ), Thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu ( ROE ) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó đối với tỷ số tổng hợp. Như vậy, với phương pháp này, chúng ta có thể nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp.
7. Đánh giá hiệu quả tài chính doanh nghiệp
Tuy nhiên, nếu chỉ phân tích tài chính thì chưa đủ để nhận xét, đánh giá, hay đưa ra những quyết định quản lý quan trọng cho các nhà quản lý cũng như những đối tượng quan tâm đến doanh nghiệp. Để quản lý tài chính của doanh nghiệp có hiệu quả thì các nhà quản lý cần phải thực hiện khâu cuối cùng là đánh giá hiệu quả tài chính. Đánh giá chính xác hiệu quả của hoạt động tài chính để cải tiến các dây chuyền công tác, nâng cao năng suất trong hoạt động tài chính trong tương lai. Trên cơ sở các tỷ số tài chính đã tính toán được, các nhà quản lý sử dụng các chỉ tiêu khoa học, phương pháp so sánh, phân tích để đánh giá hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Từ đó phản ánh đúng, rõ ràng, và sâu sắc hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp, cùng những hạng mục kinh doanh quan trọng có ảnh hưởng tới sự phát triển kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp.
Nội dung chính của đánh giá hiệu quả tài chính của doanh nghiệp bao gồm:
Đánh giá năng lực thanh toán
Đánh giá năng lực cân đối vốn
Đánh giá năng lực kinh doanh
Đánh giá năng lực thu lợi
Đánh giá tổng hợp hiệu quả tài chính
Như vậy, để đánh giá đúng và sâu sắc tình hình tài chính của một doanh nghiệp, các nhà quản lý tài chính cần phân tích tài chính, từ đó đánh giá hiệu quả tài chính của doanh nghiệp.
II. Phân tích và đánh giá hiệu quả tài chính doanh nghiệp.
1. Phân tích khái quát tình hình tài chính
Xem xét tình hình chung là xem xét sự thay đổi về tổng tài sản và nguồn vốn qua các chu kỳ kinh doanh – thường là 1 năm. Sự thay đổi này phản ánh sự thay đổi về quy mô tài chính của doanh nghiệp (Tuy nhiên đó chỉ đơn thuần là sự thay đổi về số lượng mà chưa giải thích gì về hiệu quả, chất lượng tài chính ). Đánh giá tổng tài sản tăng lên chủ yếu ở hạng mục nào (tài sản cố định/ tài sản lưu động) và được hình thành từ nguồn nào (tăng lên ở khoản nợ hay vốn chủ sở hữu tăng)
Ngoài ra, cần phải phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn. Về kết cấu tài sản cần xem xét Tỷ suất đầu tư:
Tỷ suất đầu tư = (Tài sản cố định + Đầu tư dài hạn) / Tổng tài sản
Tỷ lệ này phản ánh đặc điểm khác nhau giữa các ngành nghề kinh doanh. Chính sách kinh doanh của doanh nghiệp ( có doanh nghiệp đầu tư tài sản, có doanh nghiệp không đầu tư mà đi thuê…). Tỷ lệ này thường cao ở các ngành khai thác, chế biến dầu khí (đến 90%), ngành công nghiệp nặng (đến 70%) và thấp hơn ở các ngành thương mại, dịch vụ (20%). Ngoài ra, tỷ lệ này cũng phản ánh mức độ ổn định sản xuất kinh doanh lâu dài. Tỷ lệ này tăng lên, phản ánh doanh nghiệp đang nỗ lực đầu tư cho một chiến lược dài hơn nhằm tìm kiếm lợi nhuận ổn định lâu dài trong tương lai.
Về nguồn vốn, việc phân tích tập trung vào cơ cấu và tính ổn định của nguồn vốn, vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng, vốn vay cổ đông v.v…vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ càng cao càng tốt, càng đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp.
Cần xem xét tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh thông qua chỉ tiêu Vốn lưu chuyển:
Vốn lưu chuyển = (Tài sản lưu động+Đầu tư ngắn hạn) – Nợ ngắn hạn
Thông qua chỉ tiêu này để thấy được khái quát về tính chắc chắn ổn định của tài chính doanh nghiệp. Yêu cầu của chỉ tiêu này là phải dương và càng cao càng tốt.
+ Nếu chỉ tiêu này dương biểu hiện tài sản cố định được tài trợ vững chắc bằng nguồn vốn ổn định, không xảy ra tình trạng sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư tài sản cố định. Có khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này có giá trị âm, có nghĩa là doanh nghiệp đã sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư tài sản cố định. Tài sản cố định không được tài trợ đầy đủ bằng nguồn vốn ổn định làm cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp không đảm bảo.
Các chỉ tiêu trên chỉ có thể là những biểu hiện ban đầu về tình hình tài chính của doanh nghiệp, giúp cho các nhà phân tích, các đối tượng quan tâm có cái nhìn khái quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Để có thể hiểu đúng, sâu sắc về tình hình tài chính của doanh nghiệp, các nhà phân tích cần phân tích tài chính doanh nghiệp thông qua các chỉ số tài chính.
2. Phân tích tài chính
Như đã đề cập ở trên, để phân tích tài chính doanh nghiệp, các nhà quản lý có nhiều phương pháp sử dụng, nhưng phương pháp truyền thống và phổ biến nhất là phương pháp tỷ số, được kết hợp với phương pháp so sánh. Vì vậy, trước hết chuyên đề xin được trình bày phân tích tài chính theo phương pháp tỷ số và thông qua đó, các nhà quản lý có thể đánh giá được hiệu quả tài chính của doanh nghiệp
Trong phân tích tài chính, các tỷ số tài chính được sắp xếp thành các nhóm chính:
Nhóm các tỷ số thanh khoản – Đánh giá năng lực thanh toán
Nhóm các tỷ số đòn cân nợ – Đánh giá năng lực cân đối vốn
Nhóm các tỷ số hoạt động – Đánh giá năng lực kinh doanh
Nhóm các tỷ số lợi nhuận – Đánh giá năng lực thu lời
Mỗi nhóm tỷ số có nhiều tỷ số mà trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô và mục đích của hoạt động phân tích tài chính.
2.1. Các tỷ số thanh khoản – Đánh giá năng lực thanh toán
Năng lực thanh toán của doanh nghiệp là năng lực trả được nợ đáo hạn của các loại tiền nợ của doanh nghiệp, là một tiêu chí quan trọng phản ánh tình hình tài chính và năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá một mặt quan trọng về hiệu quả tài chính của doanh nghiệp, thông qua việc đánh giá và phân tích về mặt này có thể thấy rõ những rủi ro tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính thấp không những chứng tỏ doanh nghiệp bị căng thẳng về tiền vốn, không có đủ tiền để chi tiêu trong việc kinh doanh hàng ngày, mà còn chứng tỏ sự quay vòng của đồng vốn không nhanh nhạy, khó có thể thanh toán được các khoản nợ đến hạn, thậm chí doanh nghiệp có thể đứng trước nguy cơ bị phá sản. Vì trong quá trình kinh doanh, chỉ cần mức thu lợi của tiền đầu tư lớn hơn lãi suất vốn vay sẽ có lợi cho cổ đông nhưng vay nợ quá nhiều sẽ làm tăng rủi ro của doanh nghiệp. Vay vốn để kinh doanh có thể làm tăng lợi nhuận của cổ phiếu từ đó làm tăng giá trị cổ phần của doanh nghiệp, nhưng rủi ro tăng lên thì trên mức độ nào đó cũng làm giảm giá trị cổ phần.
Năng lực thanh toán của doanh nghiệp gồm: thanh toán nợ ngắn hạn và thanh toán nợ dài hạn, trong đó nợ trung và dài hạn chủ yếu là cùng tiền lãi trong quá trình kinh doanh để thanh toán. Nợ ngắn hạn chủ yếu là trông vào năng lực lưu động và tài sản lưu động của doanh nghiệp làm đảm bảo. Việc đánh giá năng lực thanh toán của doanh nghiệp phải bao gồm cả hai mặt: đánh giá năng lực thanh toán nợ ngắn hạn và năng lực thanh toán nợ dài hạn.
Năng lực thanh toán nợ ngắn hạn là năng lực chi trả các khoản nợ ngắn hạn. Các khoản nợ ngắn hạn còn được gọi là các khoản nợ lưu động, tức là các khoản nợ có thời hạn trong vòng một năm. Loại nợ này phải thanh toán bằng tiền mặt hoặc các tài sản lưu động khác. Các khoản nợ này có rủi ro cao đối với tài chính của doanh nghiệp. Nếu không thanh toán đúng hạn thì sẽ làm cho doanh nghiệp phải đứng trước nguy cơ vỡ nợ. Trong Bảng cân đối tài sản, các khoản nợ ngắn hạn và tài sản lưu động có quan hệ đối ứng, phải dùng tài sản lưu động để đối phó với các khoản nợ ngắn hạn.
a. Tỷ số luân chuyển tài sản lưu động – Khả năng thanh toán hiện hành ( The current ratio – Rc )
Công thức tính:
Rc = Tài sản lưu động / Các khoản nợ ngắn hạn
Trong đó, tài sản lưu động bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ ( tồn kho ). Còn nợ ngắn hạn bao gồm: các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác. Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời gian nhất định – thường là một năm.
Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Tỷ số này có được chấp thuận hay không tuỳ thuộc vào sự so sánh với giá trị trung bình của ngành và so sánh với các tỷ số của năm trước.
Khi giá trị của tỷ số này giảm có nghĩa là khả năng trả nợ của doanh nghiệp giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tài chính tiềm tàng. Ngược lại, khi giá trị của tỷ số này cao hơn, có nghĩa là khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp tăng, là dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, khi giá trị của tỷ số này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động. Điều này có thể do sự quản trị tài sản lưu động còn chưa hiệu quả nên còn quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi hoặc do quá nhìều nợ phải đòi v.v…làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nói chung, tỷ số luân chuyển tài sản lưu động hay tỷ số thanh toán hiện hành trong khoảng 1 – 2 là vừa, nhưng trong thực tế khi phân tích tỷ số này cần kết hợp với đặc điểm ngành nghề khác nhau và các yếu tố khác như: cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp, năng lực biến động thực tế của tài sản lưu động. Có ngành có tỷ số này cao, nhưng cũng có ngành nghề có tỷ số này thấp, không thể nói chung chung được và cũng không thể dựa vào kinh nghiệm được….
Ngoài ra, khi đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn, chúng ta cần phải quan tâm đến chỉ tiêu: Vốn lưu động ròng
b. Vốn lưu động ròng
Công thức tính:
Vốn lưu động ròng = Tổng tài sản lưu động – Tổng nợ ngắn hạn.
Vốn lưu động ròng còn được gọi là vốn kinh doanh, là phần tài sản lưu động vượt quá các khoản nợ ngắn hạn, là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực thanh toán của doanh nghiệp. Tình hình vốn lưu động không chỉ quan trọng đối với nội bộ doanh nghiệp mà còn là một chỉ tiêu được dùng rộng rãi để ước lượng những rủi ro tài chính của doanh nghiệp. Trong trường hợp các nhân tố khác như nhau, doanh nghiệp có vốn lưu động ròng càng cao càng tốt vì càng có thể thực hiện được nhiệm vụ tài chính trong kỳ. Vì vốn lưu động ròng là một chỉ tiêu quan trọng ước lượng các rủi ro tài chính, cho nên tình hình vốn kinh doanh còn ảnh hưởng tới năng lực vay nợ để tạo vốn. Lượng vốn lưu động ròng cao hay thấp được quyết định bởi mức độ tiền mặt vào ra của doanh nghiệp. Có nghĩa, nếu lượng tiền mặt vào ra của doanh nghiệp không có tính chính xác thì doanh nghiệp đó cần phải duy trì nhiều vốn lưu động ròng để chuẩn bị trả nợ đáo hạn trong kỳ. Do đó, cho thấy tính khó dự đoán của lượng tiền mặt và tính không điều hoà của lượng tiền vào ra làm cho doanh nghiệp phải duy trì một mức vốn lưu động ròng cần thiết.
Trong thực tế, người ta thường hay so sánh lượng vốn lưu động với các trị số của năm trước để xác định lượng vốn có hợp lý hay không. Vì quy mô của doanh nghiệp là khác nhau nên so sánh giữa các doanh nghiệp khác nhau là không có ý nghĩa.
Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc vào Vốn lưu động ròng. Do vậy mà nhiều doanh nghiệp thể hiện sự phát triển ở sự tăng trưởng Vốn lưu động ròng.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, tỷ số luân chuyển tài sản lưu động – tỷ số thanh toán hiện hành – không phản ánh chính xác khả năng thanh toán, do nếu hàng tồn kho là những loại hàng hoá khó bán thì doanh nghiệp rất khó biến chúng thành tiền. Do vậy, khi phân tích, chúng ta cần phải quan tâm đến tỷ số thanh toán nhanh.
c. Tỷ số thanh toán nhanh ( The quick Ratio – Rq )
Công thức tính:
Rq = ( Tài sản lưu động – Hàng tồn kho ) / các khoản nợ ngắn hạn
Trong đó, tài sản lưu động trừ đi hàng tồn kho còn được gọi là tài sản vòng quay nhanh. Do hàng tồn kho ( Dự trữ ) là các tài sản có tính thanh khoản thấp nhất trong tổng tài sản lưu động, mất nhiều thời gian và dễ bị lỗ nhất khi bán nên không được tính vào tỷ số thanh toán nhanh.
Tỷ số thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ ( tồn kho ). Do đó, có thể thấy tỷ số thanh toán nhanh phản ánh chính xác hơn, chân thực hơn về khả năng thanh toán ngắn hạn.
Tỷ số thanh toán nhanh thấp hơn năm trước có nghĩa là những thay đổi về chính sách tín dụng và cơ cấu tài trợ đã làm khả năng thanh toán của doanh nghiệp yếu đi, và ngược lại. Tuy nhiên, tỷ số này cũng cần tuỳ theo sự cần thiết của ngành: các ngành nghề khác nhau thì yêu cầu đối với tỷ số thanh toán nhanh cũng khác nhau. Ví dụ, các ngành dịch vụ thì cần tiêu thụ nhiều tiền mặt, các khoản cần thu lại tương đối ít, do đó cho phép duy trì tỷ số này thấp hơn 1. Ngoài ra, vì các khoản nợ của doanh nghiệp không thể tập trung thanh toán vào cùng một thời kỳ, nên tỷ suất thanh toán nhanh nhỏ hơn 1 không có nghĩa là không an toàn mà chỉ cần lượng tài sản lưu động nhanh lớn hơn những khoản nợ cần phải trả ngay trong kỳ gần nhất là có thể chứng tỏ rằng tính an toàn được đảm bảo.
2.2. Các tỷ số hoạt động – Đánh giá năng lực kinh doanh
Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp là năng lực tuần hoàn của vốn doanh nghiệp, là một mặt quan trọng đánh giá hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Vì vốn của doanh nghiệp được sử dụng để đầu tư vào các loại tài sản: tài sản lưu động và tài sản cố định, nên cần phải đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản, và từng bộ phận cấu thành tổng tài sản. Nói chung, sự tuần hoàn vốn của doanh nghiệp là sự vận động thống nhất của vốn tiền tệ, vốn sản xuất, vốn hàng hoá – dịch vụ. Trong đó, sự vận động của hàng hoá – dịch vụ có ý nghĩa quan trọng vì hàng hoá, dịch vụ có được tiêu dùng thì mới thực hiện được giá trị, thu hồi được vốn và hoàn thành vòng tuần hoàn của vốn. Do vậy, nhà quản lý có thể thông qua mối quan hệ và sự biến động của tình hình tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ và chiếm dụng vốn của doanh nghiệp để phân tích tình hình vận động của vốn. Tình hình vận động vốn của doanh nghiệp tốt, chứng tỏ trình độ quản lý kinh doanh của doanh nghiệp cao, hiệu suất sử dụng tiền vốn cao. Ngược lại, sẽ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là thấp.
Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá năng lực kinh doanh, bao gồm các tỷ số: Tỷ số vòng quay hàng tồn kho ( Vòng quay dự trữ ); Kỳ thu tiền bình quân; Hiệu quả sử dụng tài sản cố định; Hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản.
a. Tỷ số vòng quay hàng tồn kho – Vòng quay dự trữ ( Inventory Ratio – Ri )
Công thức tính:
Ri = Doanh thu thuần / Hàng tồn kho.
Trong đó, doanh thu thuần là doanh số của toàn bộ hàng hoá tiêu thụ trong kỳ không phân biệt đã thu tiền hay chưa, trừ đi phần hoa hồng chiết khấu, giảm giá hay hàng hoá bị trả lại. Còn hàng hoá tồn kho bao gồm các loại nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm, vật liệu phụ còn tồn trong kho. Độ lớn của quy mô tồn kho tuỳ thuộc vào sợ kết hợp của nhiều yếu tố như: ngành kinh doanh, thời điểm phân tích, mùa vụ,…Trong quá trình tính toán chúng ta cần phải lưu ý: mặc dù doanh thu được tạo ra trong suốt năm, nhưng giá trị hàng tồn kho trong Bảng cân đối là mức tồn kho tại một thời điểm cụ thể, do vậy khi tính chúng ta phải lấy giá trị tồn kho trung bình năm.
Tỷ số này đo lường mức doanh số bán liên quan đến mức độ tồn kho của các loại hàng hoá thành phẩm, nguyên vật liệu, là chỉ tiêu phản ánh năng lực tiêu thụ hàng hoá và tốc độ vòng quay hàng tồn trữ, đồng thời để ước lượng hiệu suất quản lý hàng tồn trữ của doanh nghiệp và là căn cứ để người quản lý tài chính biết được doanh nghiệp bỏ vốn vào lượng trữ hàng quá nhiều hay không. Do đó, nhìn chung hàng tồn kho lưu thông càng nhanh càng tốt. Nếu mức quay vòng hàng tồn kho quá thấp, chứng tỏ lượng hàng tồn quá mức, sản phẩm bị tích đọng hoặc tiêu thụ không tốt sẽ là một biểu hiện xấu trong kinh doanh. Vì hàng tồn trữ còn trực tiếp liên quan đến năng lực thu lợi của doanh nghiệp. Cho nên trong trường hợp lợi nhuận lớn hơn không, số lần quay vòng hàng tồn kho nhiều chứng tỏ hàng lớn trữ chỉ chiếm dụng số vốn nhỏ, thời gian trữ hàng ngắn, hàng tiêu thụ nhanh, thu lợi sẽ càng nhiều.
b. Kỳ thu tiền bình quân ( Average Collection Period – ACP )
Công thức tính:
ACP = Các khoản phải thu / Doanh thu bình quân một ngày
Trong đó, các khoản phải thu là những hoá đơn bán hàng chưa thu tiền có thể là hàng bán trả chậm, hàng bán chịu hay bán được mà chưa thu tiền, các khoản tạm ứng chưa thanh toán, các khoản trả trước cho người bán.
Doanh thu bình quân ngày = Tổng doanh thu / 360
Trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán, cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Vì rằng nếu các khoản phải thu của doanh nghiệp không được thu hồi đủ số, đúng hạn thì không những gây tổn thất đọng nợ cho doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới năng lực kinh doanh. Số ngày trong kỳ bình quân thấp chứng tỏ doanh nghiệp không bị đọng vốn trong khâu thanh toán, không gặp phải những khoản nợ khó đòi, tốc độ thu hồi nợ nhanh và hiệu quả quản lý cao. Tính lưu động của tài sản mạnh, năng lực thanh toán ngắn hạn rất tốt, về một mức độ nào đó có thể khoả lấp những ảnh hưởng bất lợi của tỷ suất lưu động thấp. Đồng thời, việc nâng cao mức quay vòng của các khoản phải thu còn có thể làm giảm bớt kinh phí thu nợ và tổn thất tồn đọng vốn, làm cho mức thu lợi của việc đầu tư tài sản lưu động của doanh nghiệp tăng lên tương đối. Ngược lại, nếu tỷ số này cao thì doanh nghiệp cần phải tiền hành phân tích chính sách bán hàng để tìm ra nguyên nhân tồn đọng nợ. Trong nhiều trường hợp, có thể do kết quả thực hiện một chính sách tín dụng nghiêm khắc, các điều kiện trả nợ hà khắc làm cho lượng tiêu thụ bị hạn chế, nên công ty muốn chiếm lĩnh thị trường thông qua bán hàng trả chậm hay tài trợ nên có Kỳ thu tiền bình quân cao.
Điều đáng lưu ý khi phân tích là kết quả phân tích có thể được đánh giá là rất tốt, nhưng do kỹ thuật tính toán đã che dấu những khuyết điểm trong việc quản trị các khoản phải thu. Nên cần phải phân tích định kỳ các khoản phải thu để sớm phát hiện những khoản nợ khó đòi để có biện pháp xử lý kịp thời.
c. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định ( The Fixed Assets Utilization – FAU )
Công thức tính:
FAU = Doanh thu thuần / Giá trị tài sản cố định
Trong đó, giá trị tài sản cố định là giá trị thuần của các loại tài sản cố định tính theo giá trị ghi sổ kế toán, tức nguyên giá của tài sản cố định khấu trừ phần hao mòn tài sản cố định dồn đến thời điểm tính.
Tỷ số này còn được gọi là Mức quay vòng của tài sản cố định, phản ánh tình hình quay vòng của tài sản cố định, và là một chỉ tiêu ước lượng hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Như vậy, tỷ số này cho biết hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp, hay nói cách khác là một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Tỷ số này cao chứng tỏ tình hình hoạt động của doanh nghiệp tốt đã tạo ra doanh thu thuần cao so với tài sản cố định, chứng tỏ việc đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp là xác đáng, cơ cấu hợp lý, hiệu suất sử dụng cao. Ngược lại, nếu vòng quay tài sản cố định không cao thì chứng tỏ hiệu suất sử dụng thấp, kết quả đối với sản xuất không nhiều, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp không mạnh. Mặt khác, tỷ số còn phản ánh khả năng sử dụng hữu hiệu tài sản các loại.
d. Hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản ( The Total Assets Utilization – TAU )
Công thức tính:
TAU = Doanh thu thuần / Tổng tài sản có
Trong đó, tổng tài sản có là tổng toàn bộ giá trị tài sản của doanh nghiệp bao gồm cả tài sản cố định và tài sản lưu động tại thời điểm tính toán và dựa trên giá trị theo sổ sách kế toán.
Tỷ số này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó cho biết hiệu quả sử dụng toàn bộ các loại tài sản của doanh nghiệp, hoặc thể hiện một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp đã đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
Nếu như trong các thời kỳ, tổng mức tài sản của doanh nghiệp đều tương đối ổn định, ít thay đổi thì tổng mức bình quân có thể dùng số bình quân của mức tổng tài sản đầu kỳ và cuối kỳ. Nếu tổng mức tài sản có sự thay đổi biến động lớn thì phải tính theo tài liệu tỉ mỉ hơn đồng thời khi tính mức quay vòng của tổng tài sản thì các trị số phân tử và mẫu số trong công thức phải lấy trong cùng một thời kỳ.
Mức quay vòng của tổng tài sản là chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng tổng hợp toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Giá trị của chỉ tiêu càng cao, chứng tỏ cùng một tài sản mà thu được mức lợi ích càng nhiều, do đó trình độ quản lý tài sản càng cao thì năng lực thanh toán và năng lực thu lợi của doanh nghiệp càng cao. Nếu ngược lại thì chứng tỏ các tài sản của doanh nghiệp chưa được sử dụng có hiệu quả.
2.3. Các tỷ số về đòn cân nợ – Đánh giá về năng lực cân đối vốn
Năng lực cân đối vồn chính là khả năng tự chủ về mặt tài chính của doanh nghiệp. Các nhà quản lý cần đánh giá hiệu quả huy động vốn nhằm đảm bảo đạt được hiệu quả sử dụng vốn tối đa. Điều này không những quan trọng đối với doanh nghiệp mà nó còn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư, các nhà cung cấp, ngân hàng cho vay,… Nếu khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp lớn mạnh sẽ tạo niềm tin cho các đối tượng có liên quan, do đó tạo thuận lợi cho doanh nghiệp về nhiều mặt trong kinh doanh và tăng nguồn vốn kinh doanh cho doanh nghiệp.
Các tỷ số về đòn cân nợ được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp. Đòn cân nợ tăng làm gia tăng tiềm năng tạo ra lợi nhuận và đồng thời cũng làm tăng rủi ro cho các chủ sở hữu. Vì tăng vốn bằng cách vay nợ làm tăng khả năng vỡ nợ của doanh nghiệp nên nguy cơ không thu hồi được nợ của các chủ nợ tăng, và nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ tăng đáng kể.
Nhóm các tỷ số về đòn cân nợ gồm có: Tỷ số nợ; Tỷ số về khả năng thanh toán lãi vay; Tỷ số về khả năng thanh toán các chi phí cố định.
a. Tỷ số nợ ( Debt Ratio – Rd )
Công thức tính:
Rd = Tổng số nợ / Tổng tài sản có
Trong đó, tổng số nợ gồm toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn tại thời điểm lập báo cáo tài chính. Còn tổng tài sản có bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định hay là tổng toàn bộ kinh phí đầu tư cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong phần bên trái của Bảng cân đối kế toán.
Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số này vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ vay càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Còn các chủ sở hữu thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận tăng nhanh. Tuy nhiên nếu tỷ số nợ quá cao thì doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Để có nhận định đúng về tỷ số này cần phải kết hợp với các tỷ số khác nữa.
b. Khả năng thanh toán lãi vay – số lần có thể trả lãi ( Times Interest Earned Ratio – Rt )
Công thức tính:
Rt = EBIT / Chi phí trả lãi
Trong đó, EBIT là Thu nhập trước thuế và trả lãi, phản ánh số tiền mà doanh nghiệp có thể sử dụng để trả lãi vay. Chi phí trả lãi vay bao gồm: tiền lãi trả cho các khoản vay ngắn hạn, tiền lãi cho các khoản vay trung và dài hạn, tiền lãi của các hình thức vay mượn khác. Đây là một khoản tương đối ổn định và có thể tính trước được.
Tỷ số này cho biết khả năng thanh toán lãi vay bằng thu nhập trước thuế của doanh nghiệp, hay nói cách khác là cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
2.4. Các tỷ số lợi nhuận – Đánh giá năng lực thu lợi
Các tỷ số trên phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt. Để phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất – kinh doanh và hiệu năng quản lý, chúng ta cần phải tính toán các tỷ số lợi nhuận. Thông qua các tỷ số lợi nhuận, các nhà quản lý đánh giá năng lực thu lợi của doanh nghiệp, là khả năng thu được lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì lợi nhuận là kết quả cuối cùng trong kinh doanh của doanh nghiệp, thu được lợi nhuận là mục tiêu chủ yếu của sự tồn tại của doanh nghiệp là một mặt quan trọng trong đánh giá thành tích tài chính của doanh nghiệp. Các đối tượng liên quan: nhà đầu tư, chủ sở hữu, nhà quản lý,… đều quan tâm đến năng lực thu lợi của doanh nghiệp.
Năng lực thu lợi của doanh nghiệp rất quan trọng đối với những người cho vay, vì lợi nhuận thuần của doanh nghiệp là một trong những nguồn tiền chủ yếu để thanh toán nợ. Không thể tưởng tượng nổi khi một doanh nghiệp thua lỗ liên miên có thể có khả năng thanh toán mạnh.
Năng lực thu lợi cũng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư mua cổ phần. Vì các cổ đông thu lợi đầu tư là thông qua cổ tức, mà toàn bộ cổ tức lại từ lợi nhuận tịnh của doanh nghiệp mà có. Hơn nữa đối với công ty có tham gia thị trường chứng khoán thì có sự tăng trưởng của lợi nhuận làm cho các cổ đông có thêm lợi về giá cổ phiều trên thị trường.
Năng lực thu lợi của doanh nghiệp cũng quan trọng đối với các nhà quản lý vì tổng lợi nhuận và lợi nhuận thuần là những chỉ tiêu để đánh giá thành tích kinh doanh của những người quản lý.
Lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm:
– Lợi nhuận kinh doanh: là nguồn gốc chủ yếu của lợi nhuận doanh nghiệp, là lợi nhuận có được thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận kinh doanh là do lợi nhuận của các nghiệp vụ kinh doanh chính và các lợi nhuận của các doanh nghiệp khác cấu thành. Lợi nhuận kinh doanh là một chỉ tiêu để đánh giá thành tích kinh doanh của doanh nghiệp.
– Các khoản thu chi ngoài kinh doanh: là các khoản thu chi không có quan hệ trực tiếp đối với các hoạt động kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp. Tuy không có quan hệ trực tiếp đối với các hoạt động kinh doanh nhưng các khoản thu chi ngoài kinh doanh vẫn là một trong những nhân tố làm tăng hoặc giảm lợi nhuận vì nó cũng đem lại thu nhập hoặc phải chi ra đối với doanh nghiệp vẫn có ảnh hưởng rất lớn đối với tổng lợi nhuận và lợi nhuần thuần của doanh nghiệp.
– Thu nhập ngoài kinh doanh: là những khoản thu không có quan hệ trực tiếp với những hoạt động sản xuất kinh doanh. Thu nhập ngoài kinh doanh là những thu nhập mà không tổn phí tiền vốn của doanh nghiệp, trên thực tế là một loại thu nhập thuần tuý, doanh nghiệp không phải mất một loại chi phí nào. Vì vậy, về mặt hạch toán kế toán cần phải phân chia ranh giới giữa thu nhập kinh doanh và thu nhập ngoài kinh doanh. Các khoản thu nhập ngoài kinh doanh bao gồm tiền tăng lên của tài sản cố định, thu nhập thuần trong việc sắp xếp tài sản cố định, thu nhập do bán tài sản vô hình, thu nhập trong các giao dịch phi tiền tệ, các khoản thu tiền phạt, các khoản thu về kinh phí đào tạo.v.v…
Các tỷ số lợi nhuận đáng chú ý:
a. Tỷ số lợi nhuận thuần trên doanh thu ( Net Profit Margin on Sales – Rp )
Công thức tính:
Rp = ( Lợi nhuần thuần / Doanh thu thuần ) x 100
Tỷ số này phản ánh cứ một đồng doanh thu thuần thì có bao nhiêu phần trăm lợi nhuận. Sự biến động của tỷ số này phản ánh sự biến động của về hiệu quả hay ảnh hưởng của các chiến lược tiêu thụ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nếu tỷ số này giảm thì doanh nghiệp cần phân tích và tìm biện pháp giảm các khoản chi phí để nâng cao tỷ lệ lợi nhuận, từ đó tăng khả năng thu lợi của doanh nghiệp.
b. Tỷ số lợi nhuận thuần trên tổng tài sản có ( Net Return on Assets Ratio – Rc )
Công thức tính:
Rc = ( Lợi nhuận thuần / Tổng tài sản có ) x 100
Tỷ số này đo lường khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Hay nói cách khác là tỷ số này phản ánh năng lực thu lợi của doanh nghiệp khi sử dụng toàn bộ các nguồn kinh tế của mình.
Cơ sở để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh là phải có tài sản nhất định, đồng thời các hình thái của tài sản cũng phải được bố trí hợp lý để các tài sản cố thể được sử dụng một cách có hiệu quả. Trong một thời kỳ nhất định, nếu doanh nghiệp chiếm hữu và hao phí ít tài sản, mà lợi nhuận thu được càng nhiều thì năng lực thu lợi của tài sản là ước lượng việc vận dụng có hiệu quả các tài sản và là một phương thức phản ánh hiệu quả đầu tư về tổng thể, đồng thời quan trọng đối với những người quản lý và những người đầu tư. Những người quản lý doanh nghiệp thường quan tâm tới năng lực thu lợi của tài sản có cao hơn mức lợi nhuận bình quân của tài sản xã hội và cao hơn mức lợi nhuận tài sản trong ngành hay không. Và trong một thời kỳ nhất định, do đặc điểm kinh doanh và các nhân tố hạn chế khác nhau, năng lực thu lợi của các ngành nghề khác nhau cũng sẽ khác nhau: có ngành thu lợi cao và có ngành thu lợi thấp.
c. Tỷ số lợi nhuận thuần trên vốn cổ phần thường ( Re )
Công thức tính: