BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
NGĂN NGỪA VÀ XỬ LÍ NỢ QUÁ HẠN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một sản phẩm được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người, nhưng không giống với nhiều sản phẩm khác, xét về bản chất các hành vi mà nó ứng xử, người ta coi NHTM như là một sản phẩm xã hội một ngành công nghiệp dịch vụ với tính cộng đồng và tính nhân văn rất cao, chằng chịt vô số các mối liên hệ với đông đảo công chúng, không chỉ trải rộng phạm vi toàn quốc gia mà còn lan tỏa trong phạm vi quốc tế. Cũng không giống như các tổ chức khác, NHTM một định chế tài chính trung gian luôn phải kinh doanh bằng tiền của người khác. Do vậy, vấn đề quan trọng đặt ra là hiệu quả hoạt động của các NHTM. Hoạt động tín dụng ở mọi thời kì luôn chiếm vị trí quan trọng bậc nhất trong việc đóng góp vào phần lợi nhuận của ngân hàng. Nhưng lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn phải đối mặt với hàng loạt các khó khăn, trong đó phải kể đến rủi ro nợ quá hạn.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng mà chủ yếu là hạn chế rủi ro nợ quá hạn, do vậy mà em đã lựa chọn đề tài:
“Ngăn ngừa và xử lí nợ quá hạn tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Hà Nội”
Nợ quá hạn thường xảy ra trong hoạt động cho vay bảo lãnh song trong pham vi đề tài, em xin chỉ đi sâu nghiên cứu nợ quá hạn trong hoạt động cho vay.
BỐ CỤC CHUYÊN ĐỀ GỒM:
Lời mở đầu
Chương I : NHTM và Nợ quá hạn ở các NHTM
Chương II : Thực trạng Nợ quá hạn tại NHNo & PTNT TP Hà Nội
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp phòng ngừa nợ quá hạn tại NHNo &PTNT TP Hà Nội
Để hoàn thành được luận văn này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn Lưu Thị Hương, em cũng xin cảm ơn các cô, chú, anh chị phòng kinh doanh NHNo &PTNT TP Hà Nội đã chỉ bảo và giúp đỡ em trong quá trình làm chuyên đề.
CHƯƠNG I:
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NỢ QUÁ HẠN Ở
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I- Ngân hàng thương mại
Theo luật các tổ chức tín dụng “ Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Như vậy NHTM là một trung gian tài chính quan trọng đứng giữa người đi vay và người cho vay, thông qua đó kiếm lợi nhuận cho mình. Điều đó được thể hiện thông qua một số hoạt động cơ bản của ngân hàng:
– Huy động vốn: đây được coi là hoạt động đầu vào cho việc kinh doanh của các NHTM. Nó đóng vai trò rất quan trọng đối với tất cả lĩnh vực trong nền kinh tế thông qua việc cung cấp các điều kiện thuận lợi cho việc gửi tiền nhàn rỗi của dân cư vào tổ chức kinh tế. Theo luật các tổ chức tín dụng, hoạt động huy động vốn bao gồm việc nhận tiền gửi, phát hành các giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và vay vốn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định tại điều 30 luật NHNN.
– Cho vay: là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, NHTM không chỉ đi huy động vốn mà còn phải sử dụng vốn huy động được để cho vay và đầu tư các tài sản có tính sinh lời
Các NHTM được cấp tín dụng cho các tổ chức cá nhân dưới hình thức cho vay chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của nhà nước. Hoạt động tín dụng của các NHTM cũng được đa dạng hóa từ hình thức đầu tư đến các loại vốn cho vay với thời hạn và điều kiện khác nhau nhằm thu lợi nhuận tối đa trên cơ sở đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng với mục đích cuối cùng là an toàn và sinh lời.
– Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: để đảm bảo chi phí lưu thông và tăng độ an toàn, thuận tiện cho các doanh nghiệp trong quan hệ kinh doanh, ngân hàng thực hiện dịch vụ thu chi hộ và thực hiện các dịch vụ thanh toán khác do Ngân hàng nhà nước (NHNN) quy định. Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ ngân quỹ là dịch vụ thu phát tiền mặt cho khách hàng, đồng thời tổ chức và tham gia các hệ thống thanh toán nội bộ và hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước và quốc tế.
Hoạt động này ngoài việc đem lại thu nhập cho ngân hàng còn có tác dụng thu hút khách hàng gửi tiền vào tài khoản ngân hàng, từ đó thu hút khách hàng cho các hoạt động tài chính.
– Các hoạt động khác: để tạo lợi thế kinh doanh cũng như tận dụng mọi khả năng vốn có của mình, NHTM ngoài các hoạt động cơ bản trên còn thực hiện các hoạt động khác như góp vốn cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối và vàng, nghịêp vụ uỷ thác và đại lý, tư vấn cùng các dịch vụ khác có liên quan đến hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật.
II- Tín dụng ngân hàng
1- Khái niệm: Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn đó sẽ được hoàn lại vào một ngày xác định trong tương lai. Có thể định nghĩa một cách đầy đủ như sau: tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
2- Vai trò của tín dụng ngân hàng:
– Thoả mãn nhu cầu của khách hàng thiếu vốn trên thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, vốn tự có của hầu hết các doanh nghiệp cũng như nguồn vốn của các tổ chức xã hội, dân cư đều nhỏ hơn so với nhu cầu sử dụng vốn. Do đó tín dụng ngân hàng trở thành một kênh cung cấp vốn tin cậy cho các nhu cầu đó. Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ cho vay đối với mọi thành phần kinh tế, trong một số trường hợp còn thực hiện cho vay đối với ngân sách nhà nước thông qua việc mua trái phiếu, cổ phiếu
– Thúc đẩy và kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Việc thoả mãn một phần hay toàn bộ nhu cầu vốn của doanh nghiệp đã tạo điều kiện giúp cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, đầu tư xây dựng cơ bản…. từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Đồng thời việc đưa ra quyết định cho vay cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đảm bảo các khoản vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Ngoài ra đó cũng là cách để ngân hàng giúp Nhà nước quản lý tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
– Nâng cao tăng cường hệ thống kinh doanh:
Khác với việc sử dụng vốn ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng phải có nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi của khoản vay đến khi hết hạn. Do đó yêu cầu yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình trạng trì trệ, các doanh nghiệp phải tự chủ kinh doanh, tức là phải nắm bắt được tình hình thị trường, đánh giá, phân tích những biến động và xu hướng phát triển của thị trường để từ đó tìm ra hướng đi cho mình
3- Các nguyên tắc của tín dụng ngân hàng:
Hoạt động tín dụng giữ vai trò rất quan trọng trong các hoạt động của ngân hàng thương mại. Chất lượng của hoạt động tín dụng có ý nghĩa sống còn đối với NHTM. Do vậy hoạt động tín dụng cần tuân theo nguyên tắc nhất định nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra:
– Sử dụng vốn vay đúng mục đích:
Vốn vay ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp là nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh doanh. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp phải gắn với mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính mục đích vay có ảnh hưởng đến chất lượng của các khoản vay. Để được vay vốn bên đi vay phải giải trình với ngân hàng về mục đích vay vốn, kế hoạch vay vốn, số vốn vay, kế hoạch sản xuất kinh doanh.
– Hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng thời hạn đã thoả thuận:
Thực hiện vai trò trung gian của mình, ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, ở quan hệ này ngân hàng thực hiện các hành vi giao dịch cho chính bản thân mình. Bởi vậy ngân hàng có trách nhiệm trả tiền cho người gửi cả gốc và lãi. Với tư cách là người cho vay, ngân hàng có quyền quyết định cho người khác vay và yêu cầu người đi vay trả cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn.
III- Nợ quá hạn
1- Khái niệm:
Hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của NHTM và đem lại phẩn lớn thu nhập cho các NHTM. Do vậy một trong những phương hướng hoạt động cơ bản của ngành ngân hàng trong giai đoạn hiện nay là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống thấp.Trong quan hệ tín dụng việc phát sinh nợ quá hạn là điều không thể tránh khỏi. Nhưng nợ quá hạn phát sinh vượt quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán của NHTM. Vậy thế nào là nợ quá hạn?
“Khi hết hạn trả nợ hoặc hết hạn cho vay, nếu khách hàng không có khả năng trả nợ thì số nợ đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn đối với số tiền trả chậm”.
Tổng số tiền quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn (%) =————————–x 100
Tổng dư nợ
Công thức này phản ánh, nếu tỉ lệ NQH của ngân hàng ở mức cao thì chứng tỏ hoạt động kinh doanh của ngân hàng chưa được hiệu quả,chất lượng tín dụng chưa được tốt và ngược lại.
Việc phân loại nợ quá hạn sẽ giúp chúng ta đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau.
2-Phân loại nợ quá hạn
Nợ quá hạn được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau để làm căn cứ xây kế hoạch thu hồi vốn trong từng trường hợp cụ thể. Dưới đây là một số phương pháp phân chia thường được áp dụng nhất:
*Căn cứ vào thời gian quá hạn:
– Nợ quá hạn dưới 180 ngày
– Nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày
– Nợ quá hạn trên 360 ngaỳ
*Căn cứ theo thành phần kinh tế:
– Nợ quá hạn của các doanh nghiệp nhà nước
– Nợ quá hạn của các doanh nghiệp tư nhân
– Nợ quá hạn của các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
– Nợ quá hạn của các hộ sản xuất cá thể
*Căn cứ theo khả năng thu hồi:
– Nợ quá hạn có khả năng thu hồi 100%
– Nợ quá hạn có khả năng thu hồi 1 phần
– Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
*Căn cứ theo loại nguyên tệ:
– Nợ quá hạn bằng VNĐ
– Nợ quá hạn bằng ngoại tệ
*Căn cứ theo thời hạn của khoản vay:
– Nợ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn
– Nợ quá hạn của các khoản vay trung và dài hạn
*Căn cứ theo nguyên nhân phát sinh:
– Nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan
– Nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan
3- Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn(NQH):
a) Nguyên nhân khách quan:
– Nguyên nhân bao trùm là sự biến động về kinh tế: Việt Nam mới chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, tuy có học hỏi được nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước song không thể tránh được hết những sai lầm của các bước đi ban đầu. Hoạt động trong cơ chế thị trường, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi này chứa đựng nhiều rủi ro tất yếu không tránh khỏi có những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, phá sản dẫn đến tình trạng NQH đối với ngân hàng.
– Quy định phát triển của nền kinh tế mang tính chu kỳ: Lúc thịnh vượng kinh tế phát triển mạnh, doanh nghiệp sẵn sàng có khả năng chi trả. Lúc suy thoái thậm chí không trả được nợ quá hạn, gây ra tình trạng nợ quá hạn
– Sự điều khiển của bàn tay vô hình: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì quy luật cạnh tranh diễn ra hết sức quyết liệt cộng với những thay đổi thường xuyên về nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra hết sức khó khăn, có thể dẫn đến sự đình đốn, phá sản của doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
– Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, cơ chế chính sách thường xuyên thay đổi, hệ thống pháp luật không đồng bộ: Đây là vấn đề tất yếu của một đất nước đang trong quá trình kiến thiết và phát triển. Tuy nhiên điều này đôi khi cũng làm ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng.
– Sự biến động kinh tế chính trị trong khu vực và thế giới càng làm tăng hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh quy trình hội nhập hôm nay. Đồng thời sự biến động ấy có thể dẫn đến sự thay đổi chính sách, làm ảnh hưởng đến chất lượng của các khoản tín dụng.
– Thiên tai địch hoạ là rủi ro bất khả kháng của ngân hàngvà khách hàng khi thực hiện một hợp đồng vay. Khi rủi ro xảy ra có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Nếu rủi ro xảy ra lớn đòi hỏi phải có thời gian ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh mới có khả năng trả nợ thậm chí mới khắc phục được.
b)Nguyên nhân chủ quan:
*Từ phía khách hàng:
– Kinh doanh thua lỗ do trình độ, năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp còn yếu kém. Nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh quá nhiều mặt hàng, vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh vượt khả năng quản lý dẫn đến ứ đọng hàng hoá, kinh doanh thua lỗ, vốn bị thất thoát. Ngoài ra việc thẩm định dự án đầu tư không đúng cũng dẫn đến tình trạng thua lỗ, nợ không trả được.
– Sử dụng vốn sai mục đích xin vay đã nêu trong phương án vay vốn và trong hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa ngân hàng và khách hàng. Nhiều khách hàng dùng tiền ngân hàng quay vốn không đúng đối tượng kinh doanh hoặc xử lý vốn vay ngắn hạn để đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản nên đã không trả nợ được đúng hạn
– Lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng: Một số khách hàng sau khi vay vốn của ngân hàng đã sử dụng nguồn vốn đó vào mục đích phi sản xuất kinh doanh thậm chí còn sử dụng cho những mục đích trái pháp luật. Hơn nữa, một số khách hàng cố tình chây ì không thực hiện những cam kết trong hợp đồng tín dụng. Do vậy đã phát sinh nợ quá hạn.
– Đối tác của khách hàng không trả được nợ: trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn phát triển được phải không ngừng mở rộng bạn hàng.
*Từ phía ngân hàng:
– Trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn hạn chế: khi thẩm định dự án cho vay vốn, cán bộ tín dụng yếu về nghiệp vụ, khả năng phân tích các báo cáo tài chính kém kết hợp với việc thiếu thông tin về khách hàng nên chưa đánh giá được đầy đủ về tính khả quan của dự án
– Việc chấp hành các nguyên tắc, thể lệ tín dụng quy trình xét duyệt chưa nghiêm túc. Các cán bộ tín dụng không xem xét kĩ hồ sơ và điều tra kĩ về khách hàng cũng như việc đánh giá sai lệch về giá trị tài sản thế chấp đã làm cho nguy cơ nợ quá hạn của ngân hàng tăng cao.
– Kiểm tra, giám sát vốn vay chưa chặt chẽ: Theo quy định tại khoản 1QĐ1627 thì tổ chức tín dụng có trách nhiệm giám sát quá trình vay vốn và trả nợ của khách hàng. Trách nhiệm này thường gắn với cán bộ tín dụng trực tiếp thẩm định việc cho vay.
– Định kỳ trả nợ chưa thích hợp với vòng luân chuyển vốn: kỳ hạn trả nợ được hiểu là một khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ tiền vay cho tổ chức tín dụng. Do vậy, kỳ hạn trả nợ phải được phải xác định dựa trên chu kỳ sản xuất, kế hoạch bán hàng và doanh thu.
– Tư tưởng chạy theo thành tích, tăng dư nợ một cách không căn cứ vượt lên trên nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu vốn cần thiết hợp lý của doanh nghiệp và cả khả năng quản lý hiện có của các doanh nghiệp.
4- Ảnh hưởng của nợ quá hạn
Nợ quá hạn ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của một ngân hàng và. Tuy nhiên ảnh hưởng của nợ quá hạn không chỉ dừng lại trong phạm vi ngân hàng. Sở dĩ người ta phải quan tâm nhiều đến vấn đề nợ quá hạn của ngân hàng bởi nó có ảnh hưởng sâu rộng tới các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Sau đây ta sẽ ngiên cứu ảnh hưởng của nợ quá hạn:
*Ảnh hưởng của nợ quá hạn đối với nền kinh tế:
– Sức ép lạm phát: NQH ở mức độ cao sẽ dẫn đến sự khan hiếm vốn một cách giả tạo. Một khối lượng vốn tồn đọng trong các khoản nợ quá hạn dẫn đến tiền trong lưu thông giảm sút gây sức ép tăng cùng tiền mà hậu quả là lạm phát.
– Đình chỉ sản xuất: NQH còn ảnh hưởng đến việc lưu thông tín dụng khiến vốn ùn tắc không đến được nơi cần vốn để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, gây đình đốn ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế.
-Khủng hoảng hệ thống tài chính ngân hàng, khủng hoảng kinh tế: ngân hàng là kênh chủ yếu thực hiện huy động và cho vay phát triển kinh tế. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh tế mang tính dây truyền. Tỷ lệ NQH cao nếu không kịp thời có biện pháp xử lý sẽ gây thua lỗ cho ngân hàng. Hoạt động huy động vốn cho vay, đầu tư do vậy bị thu hẹp ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời trực tiếp làm khủng hoảng hệ thống tài chính ngân hàng và khủng hoảng kinh tế xã hội.
*Ảnh hưởng đối với ngân hàng:
– Giảm hiệu quả sử dụng vốn: NQH phát sinh đồng nghĩa với việc một phần vốn kinh doanh của ngân hàng bị tồn đọng trong các khoản nợ này. Việc tồn đọng này làm cho ngân hàng mất đi cơ hội làm ăn khác mà có thể đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Nó làm giảm vòng quay vốn của ngân hàng. Nói cách khác NQH phát sinh đã làm giảm doanh số cho vay của ngân hàng từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
– Giảm lợi nhuận: thu nhập của ngân hàng chủ yếu phát sinh từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Đồng thời nguồn vốn của ngân hàng cũng chủ yếu từ nguồn huy động phải trả chi phí huy động vốn. Do vậy, khoản vay không thu được dẫn đến một bộ phận tài sản của ngân hàng bị đóng băng làm giảm thu nhập mà vẫn phải trả chi phí huy động vốn. Kết quả là làm lợi nhuận của doanh nghiệp giảm.
– Giảm khả năng thanh toán: các khoản NQH phát sinh làm thay đổi kế hoạch cũng như nguồn thanh toán các khoản tiền đến hạn. Hơn nữa, tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ cao sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Nếu khách hàng nắm bắt được dấu hiệu này sẽ ồ ạt đến rút tiền và ngân hàng gặp khó khăn trong huy động vốn càng làm trầm trọng thêm tình trạng này.
– Giảm uy tín của ngân hàng: do hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng tiền của người khác nên khi tỷ lệ NQH của ngân hàng cao tức là chất lượng tín dụng của ngân hàng càng thấp có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng, sẽ làm cho khách hàng không còn tin tưởng vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng dẫn đến việc làm giảm đáng kể các quan hệ giao dịch của ngân hàng
– Nguy cơ phá sản: đây là ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của NQH đối với hoạt động ngân hàng. Nếu NQH ở mức cao không sớm được hạn chế sẽ dẫn tới hàng loạt các ảnh hưởng xấu như đã kể trên và cuối cùng là sự phá sản của ngân hàng.
*Ảnh hưởng đối với khách hàng:
– Giảm tốc độ chu chuyển vốn : trong nền kinh tế hiện đại, hầu hết các hoạt động thanh toán giao dịch của khách hàng đều được thực hiện thông qua ngân hàng và hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng. Do vậy, tình trạng Nợ quá hạn dây dưa khó đòi của khách hàng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ của khách hàng với ngân hàng, làm giảm tốc độ chu chuyển vốn của khách hàng.
– Tăng chi phí hoạt động: Lãi suất ngân hàng được quy định cao hơn mức lãi suất trần. Như vậy nếu một doanh nghiệp phát sinh NQH sẽ làm tăng Chi phí hoạt động lên và càng làm tăng gánh nặng trả nợ ngân hàng.
– Giảm uy tín: Việc phát sinh NQH sẽ làm khách hàng bị mất uy tín đối với ngân hàng. Vậy mà trong hoạt động của mình, khách hàng có rất nhiều mối quan hệ với ngân hàng. NQH phát sinh là vật cản lớn gây ra khó khăn cho khách hàng trong quan hệ với ngân hàng. Sẽ không có một ngân hàng nào muốn duy trì quan hệ lâu dài với doanh nghiệp có tỷ lệ nợ quá hạn cao bởi đây chính là tín hiệu nói lên hoạt động kém hiệu quả doanh nghiệp.
5-Các dấu hiệu của khoản nợ có vấn đề:
Có nhiều dấu hiệu của khoản nợ có vấn đề, nhưng không có một mô hình nhất định nào về khoản nợ có vấn đề. Dựa vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng mà người ta đúc kết được một số dấu hiệu sau:
– Trì hoãn nộp các báo cáo tài chính: Bằng việc phân tích các báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng có thể tìm ra những dấu hiệu cơ bản của tình hình kinh doanh kém hiệu quả của doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp thường cố gắng tìm cách trì hoãn nộp các báo cáo tài chính
– Quan hệ với ngân hàng giảm: khách hàng có thái độ trì hoãn, lưỡng lự khi đưa cán bộ tín dụng xuống thăm cơ sở sản xuất kinh doanh.
– Gia tăng bất thường hàng hóa tồn kho, khoản nợ thương mại, khoản nợ phải thu: điều này nói lên hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất ra tiêu thụ chậm và phải cho nợ nhiều. Tình trạng này thường xuất hiện khi hàng hoá của doanh nghiệp bị giảm sút về chất lượng hoặc không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng gây ứ đọng hàng hoá làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
– Hoãn trả lãi vay ngân hàng chậm hơn thoả thuận đã quy định: Điều nói lên khả năng thanh toán giảm hoặc có sự chây ỳ của doanh nghiệp đối với việc thanh toán cho các ngân hàng.
– Thiên tai địch hoạ xảy ra ở mức độ nghiêm trọng: cũng là một dấu hiệu cho thấy khách hàng sẽ bị ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đòi hỏi có thời gian để phục hồi, thậm chí không phục hồi được nếu không có sự giúp đỡ của nhà nước.
6 – Các biện pháp phòng ngừa phát sinh Nợ quá hạn:
Các ngân hàng thương mại hiện nay rất quan tâm đến các biện pháp phòng ngừa có thể áp dụng để hạn chế những thiệt hại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình:
*Đối với các khoản cho vay mới cần:
– Nghiên cứu khách hàng:
Tìm hiểu nắm bắt khách hàng là một trong những yếu tố tạo nên thành công của ngân hàng. Vì vậy trước khi thiết lập quan hệ tín dụng, ngân hàng phải nghiên cứu rõ về khách hàng của mình. Trên cơ sở đó ngân hàng đánh giá khả năng chi trả của khách hàng.
– Thiết lập hệ thống thông tin khách hàng:
Đây là một công cụ đắc lực giúp cho cả ngân hàng và khách hàng cùng phát triển. Họat động tín dụng của ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động khách hàng. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển không thể thiếu ngân hàng. Ngân hàng là nhà quản lý ngân quỹ giúp các doanh nghiệp, cung cấp các khoản tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động vào những thời điểm khó khăn và thực hiện dịch vụ thanh tóan giữa các doanh nghiệp. Đồng thời, sự phát triển của các doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của ngân hàng. Với dịch vụ này, ngân hàng có thể tạo ra một thị trường mới, tăng thêm lợi nhuận đồng thời giảm được rủi ro.
– Phân tán rủi ro:
Để tránh được rủi ro, ngân hàng cần đa dạng hoá đối với tượng cho vay, tránh chỉ dồn vốn vào một số ngành nghề nhất định trong nền kinh tế, thực hiện đồng tài trợ với các khoản vay lớn mà ngân hàng không thể kiểm soát nổi. Ngoài ra ngân hàng có thể tham gia bảo hiểm để tránh rủi ro.
– Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng:
Đội ngũ cán bộ tín dụng là đội ngũ có quan hệ trực tiếp với khách hàng, trực tiếp làm công tác thẩm định khách hàng. Do vậy trình độ của cán bộ tín dụng có ảnh hưởng khá quan trọng đến chất lượng của các khoản vay.
*Đối với khoản nợ có dầu hiệu xấu:
– Tăng cường tư vấn cho khách hàng:
Trong trường hợp khách hàng gặp khó khăn trong kinh doanh, ngân hàng có thể tư vấn cho doanh nghiệp hướng giải quyết, từng bước củng cố thu nhập tạo nguồn thu trả ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng có thể giúp khách hàng phân tích tài chính và dự đoán xu hướng phát triển, thậm chí mời chuyên gia để cho lời khuyên tư vấn
– Khuyến khích người vay hợp nhất với người khá:
Để tăng năng lực tài chính giúp cho việc phục hồi sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên điều này chỉ được đề nghị sau khi nghiên cứu và định giá cẩn thận tốt các yếu tố có ảnh hưởng.
– Yêu cầu giảm bớt kế hoạch mở rộng:
Nếu khách hàng đang có kế hoạch mở rộng thì ngân hàng nên khuyến khích người vay loại bỏ ý định đó cho đến khi cải thiện tình hình tài chính do những kế hoạch có thể chiếm vốn từ hoạt đồng sản xuất kinh doanh.
– Khuyến khích thu hồi các khoản phải thu chậm trả :
Điều này có thể thực hiện bằng việc thúc đẩy một sự gia tăng trong chương trình thu ngân hoặc thêm nhân sự chuyên về lĩnh vực này. Nó cũng có thể bao gồm một sự kiểm tra chính sách tín dụng của doanh nghiệp.
– Nhận thêm vật thế chấp:
Mặc dù người vay có thể nghi ngờ về biện pháp này nhưng nó có thể có lợi ích cho cả 2 bên. Ngân hàng ít muốn đòi nợ và quả thực có thể ở vào vị trí tốt hơn để xếp loại khoản vay dễ trả nợ hơn. Dĩ nhiên nó cũng sẽ có lợi cho ngân hàng vì tình hình tài chính của nó sẽ được tăng lên.
– Cơ cấu lại khoản nợ: Ngân hàng có thể cơ cấu lại khoản cho vay bằng việc kéo dài kỳ hạn và rút bớt mức chi trả hàng tháng hay thậm chí huỷ bỏ sự trả vốn gốc trong một thời gian. Ngân hàng cũng có thể giới thiệu một người cho vay dài hạn hơn hay cộng tác với một người cho vay khác và như vậy giảm bớt rủi ro.
7- Xử lý nợ quá hạn:
Bất kỳ một ngân hàng nào dù có áp dụng biện pháp phòng ngừa tốt thì cũng không thể tránh khỏi tình trạng nợ quá hạn của cáckhoản vay. Do vậy để hạn chế nợ quá hạn thì ngoài việc phòng ngừa cần có những biện pháp xử lý đối với các khoản nợ quá hạn phát sinh
7.1 Căn cứ lựa chọn các xử lý
Việc quyết định lựa chọn giải pháp xử lí NQH nào thường bị chi phối bởi quan điểm về “đạo đức tín dụng” và chiến lược kinh doanh, chiến lược khách hàng của người điều hành ngân hàng thương mại, trong đó phải kể đến các yếu tố chính sau:
– Tình hình thu ngân và tổn thất có thể xảy ra đối với các khoản vay.
– Sự thật thà và thái độ của người vay đối với các khoản nợ
– Sức mạnh tài chính và khả năng chi trả của người vay
– Thái độ của các chủ nợ khác của khách hàng
7.2- Các biện pháp xử lý chủ yếu:
a.Biện pháp khai thác:
Khi người vay ngân hàng gặp khó khăn về tài chính, ngân hàng có thể và thường tham gia tổ chức khai thác, dĩ nhiên phải đặt trong trường hợp người vay thật thà và thái độ của họ đối với khoản nợ và chi trả là thoả đáng. Ngân hàng có thể thực hiện các biện pháp sau:
– Ngân hàng có những lời khuyên để giúp người vay tạo nguồn thu trả nợ cho ngân hàng. Bằng kinh nghiệm và sự am hiểu của mình trên nhiều lĩnh vực, ngân hàng sẽ có những lời khuyên để giúp người vay khôi phục tình hình kinh doanh
– Gia hạn nợ: Một khi khàch hàng đã gặp phải khó khăn trong việc trả nợ gốc thì phần lãi càng khó có khả năng thanh toán cho ngân hàng. Vì vậy chế tài chuyển nợ quá hạn với lãi suất cao càng làm khó khăn thêm cho khách hàng. Trong trường hợp này, ngân hàng phải tiến hành điều tra, xác minh xem nguyên nhân chính do đâu và thái độ của người vay như thế nào? Nếu do các nguyên nhân: thua lỗ do giá cả thị trường biến động mạnh ngoài dự kiến, sản lượng và doanh thu đạt thấp, thiên tai địch hoạ….thì món vay cần phải xem xét ra hạn.
– Điều chỉnh kỳ hạn nợ: Đối với các khoản vay mà ngân hàng định kì trả nợ không đúng chu kỳ kinh doanh, cho vay ngắn hạn các đối tượng trung và dài hạn thì ngân hàng nên xem xét điều chỉnh kỳ hạn nợ cho phù hợp để tạo điều kiện cho khách hàng có thể trả nợ đúng hạn.
– Cấp phát thêm vốn để “nuôi nợ”: trong những giai đoạn khó khăn, một số khách hàng không những không trả được nợ đáo hạn, xin gia hạn nợ mà còn có nhu cầu vay thêm vốn để giải quyết khó khăn tài chính tạm thời như: sản phẩm chưa tiêu thụ được nhưng vẫn phải tiếp tục mua vật tư, trả lương công nhân để duy trì sản xuất bình thường, khắc phục sự cố kĩ thuật…. Trong những trường hợp như vậy các ngân hàng thương mại cần phân tích, cân nhắc thận trọng để tíêp thêm “sinh khí” cho khách hàng.
– Ngân hàng cần nắm giữ phần chủ động, thậm chí điều hành hoạt động kinh doanh đến khi đảm bảo rằng khoản vay sẽ được chi trả: Điều này được thực hiện khi giám đốc đương nhiệm không có khả năng, có bằng chứng về tính gian dối, và phương pháp này có vẻ là giải pháp hợp lý cho một tình huống xấu.
– Chuyển tín dụng ngân hàng thành vốn cổ phần của doanh nghiệp: Đây là biện pháp : Với uy tín, kinh nghiệm của mình sự góp mặt của ngân hàng với tư cách là cổ đông của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp.
b. Biện pháp thanh lý:
Các biện pháp thanh lý thường được áp dụng:
– Ngân hàng thuyết phục doanh nghiệp tự bán tài sản thế chấp: Đây là một cách giải quyết có lợi cho khách hàng và ngân hàng. Việc khách hàng tự bán tài sản thường được đánh giá cao hơn là buộc phải phát mại, đồng thời tránh cho khách hàng khỏi bị giảm uy tín trên thương trường. Mặt khác ngân hàng cũng tránh được chi phí phát mại và thủ tục pháp lý gắn với sở hữu và phát mại tài sản tài chính.
– Ngân hàng bán tài sản tài chính để thu nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng: Đây là cách giải quyết không dễ dàng bởi đây không phải là nhiệm vụ của ngân hàng. Hơn nữa việc bán tài sản tài chính để thu nợ, doanh nghiệp có thể sử dụng tài sản tài chính làm tài sản sở hữu của mình làm trụ sở, bán trả góp cho cán bộ công nhân viên…theo hợp đồng bán có điều kiện
– Gán nợ: Trong trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ, không có nguồn thu nhập nào khác và có uỷ quyền cho ngân hàng toàn quyền đinh đoạt trong việc bán tài sản tài chính để thu hồi nợ..
– Sử dụng biện pháp lý để thu hồi nợ vay: Ngân hàng có thể nhờ công an địa phương thúc ép trả nợ hoặc khởi kịên ra toà. Đây là biện pháp mà các ngân hàng đều không muốn áp dụng vì nó rất phức tạp, thủ tục lại rườm rà và mất nhiều thời gian.
-Thành lập uỷ ban chủ nợ: Nếu ngân hàng là một trong số các chủ nợ của khách hàng và chủ nợ nào cũng muốn lấy lại tiền và tất cả các chủ nợ đều có thứ tự ưu tiên trả nợ như nhau thì một uỷ ban trả nợ có thể được thành lập. Sau đó uỷ ban này bán số tài sản của doanh nghiệp và chia số tiền thu được cho các chủ nợ khác nhau. Trong trường hợp các chủ nợ không thoả thuận được với nhau thì lại cần đến sự phán xử của người khác.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG NỢ QUÁ HẠN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
I)Giới thiệu về NHNo &PTNTTP Hà Nội:
1.Sự hình thành và phát triển:
Tháng 3/1998,hệ thống ngân hàng Việt Nam có sự chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, Ngân hàng nông nghiệp thành phố Hà Nội (NHNoHN) được thành lập trên cơ sở tách chuyển từ NHNN tại thành phố Hà Nội và 12 huyện ngoại thành, ra đời sau nghị định 53/HĐBT ban hành ngày 26/3/1988 và hai pháp lệnh 1990/NHNN có hiệu lực. Đây là một ngân hàng thương mại quốc doanh, là ngân hàng thành viên và hạch toán phụ thuộc của NHNoVN hoạt động trên địa bàn Hà Nội.
Tháng 9/1991,quốc hội khoá IX đã phân định lại địa giới hành chính các tỉnh- thành phố,huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội được tách chuyển về các tỉnh khác nên qui mô và phạm vi hoạt động của NHNoHN bị thu hẹp. Đứng trước tình hình đó kết hợp với định hướng mở rộng mạng lưới kinh doanh,NHNNo đã chuyển hướng kinh doanh tập trung khai thác địa bàn nội thành Hà Nội bằng cách thành lập thêm 8 ngân hàng quận nội thành nhằm khai thác hết nguồn vốn còn đang nhàn rỗi trong dân cư, cho vay, cung cấp cac dịch vụ phát triển kinh tế thủ đô đồng thời làm nhiệm vụ của ngân hàng phục vụ người nghèo trên địa bàn theo mô hình ngân hàng phục vụ người nghèo.
Với tên gọi:Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội.
Tên giao dịch quốc tế:The branch for Agriculture and Rural Development Bank of Ha Noi.
Trụ sở đặt tại:Số 77-Lạc Trung-Hai Bà Trưng-Hà Nội
NHNoHN là ngân hàng cấp thành phố, có địa bàn hoạt động rộng.Hà Nội là trung tâm kinh té xã hội của cả nước, tập trung nhiều quan hệ kinh tế buôn bán lớn, nhiều doanh nghiệp hoạt động.Do vậy hoạt động của NHNoHN tuân theo luật ngân hàng.Các hoạt động chủ yếu của NHNoHN :
– Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ.