BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngô Trần Thanh Tâm
BIỂU HIỆN STRESS
CỦA CHA MẸ CÓ CON TỰ KỶ
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngô Trần Thanh Tâm
BIỂU HIỆN STRESS
CỦA CHA MẸ CÓ CON TỰ KỶ
Chuyên ngành
: Tâm lý học
Mã số
: 8310401
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ TỨ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu do chính bản thân
tác giả thực hiện. Các số liệu và kết quả nghiên cứu là trung thực. Đề tài chưa từng
được công bố dưới mọi hình thức.
Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 25 tháng 09 năm 2018.
Tác giả
Ngô Trần Thanh Tâm
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến:
PGS.TS. Nguyễn Thị Tứ, Cô đã tận tình hướng dẫn, cung cấp những ý kiến quý
báu và hỗ trợ tôi trong suốt quá trình thực hiện cho đến khi hoàn thành luận văn này.
Các Thầy Cô tham gia giảng dạy lớp Cao học Tâm lý học khóa 27 (2016 -2018)
tại trường Đại học Sư phạm TPHCM, nhờ sự nhiệt tình giảng dạy của Thầy Cô mà
tôi có được những kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghiên cứu khoa học để hoàn
thành luận văn này.
Các Thầy Cô trong hội đồng bảo vệ đề cương đã đóng góp những ý kiến định
hướng nghiên cứu cho tôi trong đề tài này.
Các cán bộ, nhân viên công tác tại phòng Sau đại học đã hỗ trợ tôi trong suốt
quá trình học tập tại Trường.
Các anh chị trong Mạng lưới Tự kỷ Việt Nam (VAN), những anh chị có con tự
kỷ đã mở lòng chia sẻ, nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp nhiều thông tin, kinh nghiệm cụ
thể để tôi có thể có được những số liệu chính xác và thực tế nhất trong quá trình khảo
sát.
Các anh chị bác sỹ, nhân viên tại Bệnh viện Nhi đồng 1 và 2 đã có những góp
ý, lời khuyên quý giá cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Các bạn học viên lớp Cao học Tâm lý học khóa 27 đã giúp đỡ và đồng hành với
tôi trong quá trình học và làm luận văn.
Đặc biệt xin tri ân gia đình anh chị Vũ Lan và bé Thiên Thần, nguồn động lực vô
cùng to lớn để tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Ngô Trần Thanh Tâm
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ cái viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các sơ đồ
MỞ ĐẦU
…………………………………………………………………………………………….. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỂU HIỆN STRESS CỦA CHA MẸ CÓ
CON TỰ KỶ …………………………………………………………………….. 6
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu về biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ .. 6
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài …………………………………………………….. 6
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước.
…………………………………………………… 13
1.2. Cơ sở lý luận về biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ
…………………. 18
1.2.1. Các khái niệm công cụ của đề tài ……………………………………………… 18
1.2.2. Biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ …………………………………… 28
1.2.3. Những tác nhân gây stress cho cha mẹ có con tự kỷ. …………………… 40
1.2.4. Cách ứng phó với stress của cha mẹ có con tự kỷ
……………………….. 47
1.2.5. Nhu cầu về sự hỗ trợ xã hội của cha mẹ có con tự kỷ ………………….. 51
Tiểu kết Chương 1 …………………………………………………………………………………. 55
Chương 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BIỂU HIỆN STRESS
CỦA CHA MẸ CÓ CON TỰ KỶ
………………………………………… 56
2.1. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
………………………………………………. 56
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng ……………………………………………………….. 62
2.2.1. Thực trạng các biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ
……………… 62
2.2.2. Thực trạng các tác nhân gây stress của cha mẹ có con tự kỷ ………… 88
2.2.3. Thực trạng cách ứng phó với stress của cha mẹ có con tự kỷ ……….. 98
2.2.4. Thực trạng nhu cầu về sự hỗ trợ xã hội của cha mẹ có con tự kỷ … 103
2.2.5. Biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ qua nghiên cứu trường hợp
điển hình
……………………………………………………………………………… 106
2.3. Một số biện pháp giảm stress cho cha mẹ có con tự kỷ
……………………. 112
2.3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp
…………………………………………………………. 112
2.3.2. Một số biện pháp giảm stress cho cha mẹ có con tự kỷ. …………….. 113
2.3.3. Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp
……………. 117
Tiểu kết Chương 2 ……………………………………………………………………………….. 124
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
……………………………………………………………… 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO
…………………………………………………………………… 131
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ĐLC
:
Độ lệch chuẩn
ĐTB
:
Điểm trung bình
SL
:
Số lượng
%
:
Phần trăm
Sig
:
Mức ý nghĩa với hệ số tin cậy 95%,
α=0.05
RTX
:
Rất thường xuyên
TX
:
Thường xuyên
TT
:
Thỉnh thoảng
HK
:
Hiếm khi
KBG
:
Không bao giờ
RAH
:
Rất ảnh hưởng
AHN
:
Ảnh hưởng nhiều
AH
:
Ảnh hưởng
IAH
:
Ít ảnh hưởng
KAH
:
Không ảnh hưởng
RCT
:
Rất cần thiết
CT
:
Cần thiết
KCT
:
Không cần thiết
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Đặc điểm mẫu khách thể nghiên cứu
……………………………………
56
Bảng 2.2. Bảng thông tin của trẻ ………………………………………………………..
57
Bảng 2.3. Mức độ biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ ………………….
62
Bảng 2.4. Biểu hiện stress của cha mẹ về mặt cảm xúc
…………………………
63
Bảng 2.5. Biểu hiện stress của cha mẹ về mặt nhận thức ………………………
65
Bảng 2.6. Biểu hiện stress của cha mẹ về mặt hành vi ………………………….
68
Bảng 2.7. Biểu hiện stress của cha mẹ về mặt thể lý …………………………….
70
Bảng 2.8. Biểu hiện stress của cha mẹ theo giới tính của cha mẹ
……………
72
Bảng 2.9. Biểu hiện stress của cha mẹ theo độ tuổi của cha mẹ.
…………….
74
Bảng 2.10. Biểu hiện stress của cha mẹ theo th trạng hôn nhân ……………….
76
Bảng 2.11. Biểu hiện stress của cha mẹ theo điều kiện kinh tế ………………..
78
Bảng 2.12. Biểu hiện stress của cha mẹ theo trình độ học vấn …………………
80
Bảng 2.13. Biểu hiện stress của cha mẹ theo độ tuổi của trẻ ……………………
83
Bảng 2.14. Biểu hiện stress của cha mẹ theo giới tính của trẻ
………………….
85
Bảng 2.15. Biểu hiện stress của cha mẹ theo độ tuổi chẩn đoán tự kỷ của
trẻ ……………………………………………………………………………………
86
Bảng 2.16. Các tác nhân gây stress cho cha mẹ có con tự kỷ …………………..
89
Bảng 2.17. Tác nhân gây stress liên quan đến đặc điểm của trẻ ……………….
90
Bảng 2.18. Tác nhân gây stress liên quan đến vấn đề của cha mẹ
…………….
93
Bảng 2.19. Tác nhân gây stress liên quan đến môi trường bên ngoài
………..
96
Bảng 2.20. Cách ứng phó stress tích cực ………………………………………………
98
Bảng 2.21. Cách ứng phó stress tiêu cực …………………………………………….
102
Bảng 2.22. Nhu cầu về hỗ trợ xã hội của cha mẹ có con tự kỷ
……………….
103
Bảng 2.23. Tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp
…………………..
117
Bảng 2.24. Nhóm biện pháp Giáo dục – tâm lý
…………………………………….
118
Bảng 2.25. Nhóm biện pháp Xây dựng các điều kiện hỗ trợ ………………….
120
Bảng 2.26. Nhóm biện pháp Chính sách xã hội ……………………………………
122
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1.
Mô hình stress của cha mẹ có con tự kỷ Bluth (2013) …………. 25
Sơ đồ 2.2.
Mô hình stress của gia đình có con khuyết tật phát triển Perry
(2004) …………………………………………………………………………… 40
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tự kỷ theo định nghĩa trong chuyên trang tự kỷ của Liên Hiệp Quốc là một
khuyết tật phát triển suốt đời do rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng tới hoạt
động của não bộ. Tùy theo mức độ của sự rối loạn tự kỷ mà mức độ ảnh hưởng có
thể dao động từ nhẹ đến nặng nhưng nhìn chung chất lượng sống, khả năng lao động,
tương tác xã hội của người mắc chứng tự kỷ suy giảm đáng kể, chi phí can thiệp tốn
kém và kéo dài. Trong Sổ tay chẩn đoán và phân loại các rối loạn tâm thần – Ấn bản
lần thứ 5 (DSM V), do hiệp hội tâm thần học Mỹ (APA) xuất bản vào năm 2013 có
đưa ra ba bậc thang hỗ trợ phản ánh mức độ ảnh hưởng của rối loạn tự kỷ đến trẻ bao
gồm mức độ 1 (nhẹ nhất) cần được hỗ trợ thường xuyên, mức độ 2 (nghiêm trọng)
cần được hỗ trợ tích cực, mức độ 3 (nghiêm trọng nhất) cần được hỗ trợ tối đa (Trần
Văn Công, 2014). Ở mức độ nào trẻ cũng cần đến sự hỗ trợ thường xuyên của người
khác, điều này gây ảnh hưởng không ít đến gia đình của trẻ. Trong gia đình có trẻ tự
kỷ, có thể nói người chịu ảnh hưởng nhiều nhất, trực tiếp nhất là cha mẹ của trẻ.
Trong bài viết “Stress gia tăng nơi cha mẹ có con tự kỷ” của tác giả Madison
Park, hãng thông tấn CNN vào tháng 7 năm 2010, có đề cập đến trường hợp một
người mẹ đã gọi điện đến tổng đài 911 và thông báo rằng cô đã bóp cổ hai đứa con
của mình đến chết với lý do là “Chúng bị tự kỷ”, “Cả hai đều bị tự kỷ, tôi không
muốn con mình như vậy”, “Tôi muốn con tôi bình thường”. Đoạn băng thu lại cuộc
đối thoại của người mẹ đau khổ này với nhân viên tổng đài 911 cho thấy sự hoảng
loạn, căng thẳng quá mức nơi người mẹ dẫn đến một hậu quả vô cùng nghiêm trọng
(Park, 2010). Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu cho thấy cha mẹ có con
tự kỷ có mức độ stress cao hơn những cha mẹ có con ở dạng khuyết tật khác và những
2
cha mẹ có con phát triển bình thường. Tác giả Al-Shakhs cho biết “Stress khi nuôi
dạy con tự kỷ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cũng như chất lượng sống của cha mẹ.
Stress khiến cha mẹ có những phản ứng thể chất, tâm lý, hành vi không mong muốn,
khiến họ gia tăng lo lắng, đau buồn, và có thể bị một số triệu chứng tâm thần, stress
hút kiệt nguồn năng lượng và ngăn cản khả năng tập trung vào công việc của họ”
(Abou-Dagga, 2013).
Theo số liệu thống kê cập nhật vào tháng 4 năm 2017 trên kênh truyền thông
của Tổ chức Y tế thế giới WHO, ước tính trung bình cứ 160 người thì sẽ có 1 người
mắc chứng tự kỷ (World Health Organization, 2017). Ở Mỹ, báo cáo năm 2014 cho
thấy 1 trong 59 trẻ mắc chứng tự kỷ. Ở Việt Nam, tuy chưa có công trình nghiên cứu
thống kê cũng như báo cáo công bố chính thức số liệu chính xác về trẻ tự kỷ nhưng
qua các ghi nhận thăm khám tại các bệnh viện, phòng khám khắp cả nước cho thấy
số trẻ được chẩn đoán là tự kỷ ngày càng gia tăng, riêng bệnh viện Nhi đồng 1, hằng
năm có khoảng 2.500 lượt khám đánh giá về tự kỷ, tương đương khoảng 1.000 –
1.200 em được chẩn đoán tự kỷ hoặc theo dõi mắc tự kỷ (Đậu Tuấn Nam và Vũ Hải
Vân, 2015). Điều này có thể dự báo cho việc gia tăng số lượng cha mẹ bị stress trong
quá trình nuôi dạy con tự kỷ vì cha mẹ của trẻ tự kỷ không chỉ đối mặt với những đau
buồn, thất vọng, hoang mang khi con mình có nhiều khiếm khuyết trong ngôn ngữ,
giao tiếp, tương tác xã hội, trí tuệ, hành vi mà cha mẹ còn phải đương đầu với những
khó khăn về mặt tài chính khi chi phí nuôi dưỡng, can thiệp cho trẻ rất tốn kém và
kéo dài trong khi chính sách hỗ trợ giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội từ phía Nhà nước,
chính quyền vẫn còn nhiều bất cập, chưa thỏa đáng.
Stress của cha mẹ có con tự kỷ nếu không được nhận biết, phát hiện sớm sẽ gây
ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc
sống của cha mẹ mà còn cản trở, tác động xấu đến việc can thiệp giúp trẻ tiến bộ và
3
hòa nhập vào cuộc sống. Do đó, việc nghiên cứu về thực trạng các biểu hiện stress,
các tác nhân gây ra stress cho cha mẹ có con tự kỷ để qua đó đưa những đề xuất giúp
họ có thể ứng phó và giảm stress là việc làm cần thiết, đáng được quan tâm.
Tuy nhiên, hiện nay những đề tài nghiên cứu chuyên sâu về biểu hiện stress của
cha mẹ có con tự kỷ vẫn còn rất thiếu, chỉ có một số công trình nghiên cứu về thái độ,
tâm trạng, sự thích ứng hoàn cảnh của cha mẹ khi có con tự kỷ.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi chọn nghiên
cứu đề tài: “Biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng các biểu hiện stress, các tác nhân gây stress cho cha mẹ có
con tự kỷ. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp nhằm giảm stress cho cha mẹ có
con tự kỷ.
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Cha mẹ có con tự kỷ.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
4.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu thực trạng biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ trên các
mặt cảm xúc, nhận thức, hành vi và thể lý, các tác nhân gây stress cho cha mẹ có con
tự kỷ, cách ứng phó và nhu cầu về sự hỗ trợ xã hội của cha mẹ có con tự kỷ.
4.2. Giới hạn khách thể nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu trên 64 người là cha, mẹ có con tự kỷ.
4.3. Giới hạn địa bàn nghiên cứu
4
Đề tài nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Cha mẹ có con tự kỷ có biển hiện stress trong quá trình nuôi dạy con tự kỷ.
Có sự khác nhau về các mặt biểu hiện stress và mức độ biểu hiện stress trong
nhóm khách thể.
Có nhiều tác nhân gây ra stress cho cha mẹ có con tự kỷ trong đó đặc điểm của
trẻ là tác nhân gây stress nhiều nhất cho cha mẹ.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan về stress, tự kỷ, biểu hiện stress của
cha mẹ có con tự kỷ.
6.2. Khảo sát thực trạng biểu hiện stress, tác nhân gây stress cho cha mẹ có con
tự kỷ.
6.3. Đề xuất các biện pháp nhằm giảm stress cho cha mẹ có con tự kỷ.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan đến vấn đề stress, tự kỷ,
biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài. Sử dụng bảng câu hỏi để khảo
sát biểu hiện stress, tác nhân gây stress cho cha mẹ có con tự kỷ. Qua đó, đề xuất một
số biện pháp để giảm stress ở cha mẹ có con tự kỷ.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Phương pháp này được thực hiện nhằm tìm hiểu rõ, sâu sắc và toàn diện biểu
hiện stress, tác nhân gây stress cho cha mẹ có con tự kỷ qua một số trường hợp cụ
5
thể.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Sử dụng phương pháp phỏng vấn với 1 người cha, 1 người mẹ có tham gia trả
lời bảng hỏi nhằm thu thập thông tin, phản ứng, quan điểm của cha mẹ về stress, tự
kỷ đồng thời hiểu sâu hơn về biểu hiện stress, tác nhân gây stress, cách ứng phó stress
và nhu cầu hỗ trợ xã hội của cha mẹ có con tự kỷ.
7.2.4. Phương pháp quan sát
Quan sát cha mẹ có con tự kỷ trong quá trình trả lời bảng hỏi, trả lời phỏng vấn
để nắm bắt sự thay đổi về tâm trạng, cử chỉ, lời nói, thái độ của cha mẹ về stress, về
tự kỷ, qua đó có thông tin chính xác và đầy đủ về biểu hiện stress, tác nhân gây stress,
cách ứng phó stress và nhu cầu hỗ trợ xã hội của cha mẹ có con tự kỷ.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu thống kê làm cơ sở để bình luận số
liệu thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỂU HIỆN STRESS
CỦA CHA MẸ CÓ CON TỰ KỶ
6
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu về biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Stress của cha mẹ có con tự kỷ là vấn đề được các nhà nghiên cứu trên thế giới
quan tâm qua nhiều công trình nghiên cứu. Các khía cạnh khác nhau liên quan đến
stress của cha mẹ có con tự kỷ được các nhà nghiên cứu đề cập đến qua các nghiên
cứu, bài báo, bài viết. Cụ thể như sau:
1.1.1.1. Hướng nghiên cứu về mức độ stress của cha mẹ có con tự kỷ
Tác giả Baker-Ericzen, Brookman-Frazee và Stahmer (2005) trong bài nghiên
cứu với tiêu đề “Mức độ stress và khả năng thích ứng của cha mẹ có con tự kỷ và cha
mẹ không có con tự kỷ” đã cho thấy cả cha và mẹ của trẻ tự kỷ đều báo cáo có sự gia
tăng đáng kể về mức độ stress so với những cha mẹ của trẻ phát triển bình thường.
Bên cạnh đó, nghiên cứu còn tiến hành thực nghiệm để tìm hiểu về sự thay đổi mức
độ stress của cha mẹ trước và sau khi trẻ tham gia vào các chương trình can thiệp.
Kết quả cho thấy rằng sau khi trẻ tham gia vào các chương trình can thiệp, người mẹ
báo cáo giảm đáng kể stress liên quan đến trẻ nhưng không giảm được các vấn đề
liên quan đến cá nhân mình. Không có thay đổi nào được phát hiện ở nơi người cha
(Abou-Dagga, S., 2013).
Tác giả Hastings (2003) nghiên cứu về sự khác biệt về mức độ stress giữa người
cha và người mẹ có con tự kỷ. Mười tám người mẹ và mười tám người cha có con tự
kỷ tham gia khảo sát. Bảng câu hỏi về nguồn lực và căng thẳng – bảng ngắn (QRS-S)
được sử dụng để đánh giá sự stress của cha mẹ. Khảo sát cho thấy rằng người mẹ báo
cáo mức độ căng thẳng cao hơn người cha. Ngoài ra, kết quả khảo sát còn cho thấy
những người mẹ đã ly hôn bị ảnh hưởng nhiều hơn những người mẹ đang trong tình
trạng hôn nhân. Tương tự, một nghiên cứu được thực hiện bởi Tehee và cộng sự
(2009) cũng chỉ ra rằng những người mẹ bị stress hơn người cha trong việc chăm sóc
7
con tự kỷ. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn cho thấy những người mẹ đơn thân có mức
độ stress cao hơn so với những người mẹ sống chung với người bạn đời. Soltanifar
và cộng sự (2015) nghiên cứu các mức độ căng thẳng khác nhau giữa cha và mẹ của
trẻ tự kỷ. Trong nghiên cứu của họ, 42 cặp vợ chồng có con từ 2 đến 12 tuổi được
chẩn đoán mắc chứng rối loạn tự kỷ đã được phỏng vấn sử dụng bảng Chỉ số stress
trong việc nuôi dạy con (Parenting Stress Index – PSI). Nghiên cứu cho thấy người
mẹ có mức độ stress cao hơn người cha (Al-Oran and AL-Sagarat, 2016).
Tác giả Koegel và cộng sự (1992) là những người đầu tiên nghiên cứu mối liên
hệ giữa tuổi người mẹ và stress trong việc nuôi dạy con tự kỷ. Nghiên cứu được tiến
hành với 50 người mẹ có con được chẩn đoán là rối loạn tự kỷ, với tuổi trung bình là
5,98 tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy những người mẹ dưới 30 tuổi cho thấy mức
độ căng thẳng cao hơn so với những người mẹ trên 30 tuổi. Ngoài ra, kết quả cho
thấy những người mẹ có con dưới 6 tuổi có mức độ stress cao hơn những người mẹ
có con trên 6 tuổi. Cùng đề tài này, nhóm tác giả Duarte và cộng sự (2005) cũng đã
tiến hành nghiên cứu mối liên hệ giữa tuổi của người mẹ và stress khi nuôi dạy con.
Trong nghiên cứu này, các cuộc phỏng vấn được tiến hành với 31 người mẹ có con
bị rối loạn tự kỷ với tuổi trung bình là 6,2 năm. Tuổi của mẹ được chia thành ba nhóm
từ 20 đến 30 tuổi, từ 31 đến 40 tuổi, và trên 40 tuổi. Các tác giả báo cáo rằng những
người mẹ dưới 31 tuổi có mức độ căng thẳng cao hơn so với những người mẹ trên 31
tuổi. Ngoài ra, kết quả cho thấy những người mẹ có con dưới 6 tuổi có mức độ stress
cao hơn những người mẹ có con trên 6 tuổi (Al-Oran and AL-Sagarat, 2016).
Tác giả Fleischmann (2004) đã báo cáo rằng việc chẩn đoán tự kỷ càng sớm thì
mức độ stress của cha mẹ càng cao. Tác giả Keen và cộng sự (2010) tập trung vào
những căng thẳng liên quan đến thời gian ban đầu khi trẻ được chẩn đoán là tự kỷ.
Nghiên cứu cho thấy việc chẩn đoán sớm có liên quan đến sự gia tăng mức độ căng
8
thẳng của cha mẹ. Quá trình chẩn đoán mất quá nhiều thời gian, các kế hoạch chăm
sóc không phải lúc nào cũng có sự tham gia của phụ huynh, nhiều kế hoạch không
bao gồm dữ liệu can thiệp… là những yếu tố có liên quan đáng kể đến mức căng thẳng
của cha mẹ. Tương tự, tác giả Hastings và Johnson (2001) đã tiến hành một nghiên
cứu để kiểm tra sự tương quan giữa thời điểm trẻ được chẩn đoán là tự kỷ và mức độ
stress của cha mẹ. Tổng cộng có 141 phụ huynh của trẻ tự kỷ tham gia khảo sát. Thời
gian trung bình kể từ khi chẩn đoán là 13 tháng. Các kết quả nghiên cứu cho thấy
rằng việc chẩn đoán sớm chứng tự kỷ có liên quan đáng kể với sự gia tăng mức độ
căng thẳng của cha mẹ (Al-Oran and AL-Sagarat, 2016).
Tác giả Phetrasuwan và Miles (2009) trong nghiên cứu của mình đã chỉ mối
tương quan giữa trình độ học vấn, tình trạng tài chính với stress của cha mẹ trong
việc nuôi dạy con tự kỷ, cha mẹ có trình độ học vấn thấp và thu nhập hàng tháng thấp
báo cáo mức độ stress cao hơn. Tương tự, tác giả Wang và cộng sự (2013) cũng đã
tiến hành khảo sát 150 phụ huynh có con tự kỷ và kết quả cho thấy những người mẹ
có con tự kỷ có mức độ stress cao và mức độ stress này có liên quan đến thu nhập
hàng tháng thấp, trình độ học vấn thấp. (Al-Oran and AL-Sagarat, 2016)
1.1.1.2. Hướng nghiên cứu về biểu hiện stress cho cha mẹ có con tự kỷ
Biểu hiện stress của cha mẹ có con tự kỷ được đề cập đến trong nghiên cứu của
tác giả Abou-Dagga (2013) về “Stress và sức bật của cha mẹ có con tự kỷ ở dãi Gaza”.
Các biểu hiện stress của cha mẹ được thể hiện qua bốn mặt: cảm xúc, nhận thức, hành
vi và thể lý.
Các biểu hiện về cảm xúc: Buồn rầu, ủ rũ, khó chịu, thiếu kiên nhẫn, không có
khả năng thư giãn, cảm giác căng thẳng, cảm thấy bị choáng ngợp, cảm giác cô đơn
và cô lập, cảm giác sợ, trầm cảm, cảm thấy không có gì vui.
9
Các biểu hiện về nhận thức: Có vấn đề về ghi nhớ, do dự, không quyết đoán,
không có khả năng tập trung, khó khăn trong việc suy nghĩ, sự suy đoán kém, chỉ
nhìn thấy tiêu cực, suy nghĩ lo lắng thường trực, mất tính khách quan, suy nghĩ lo xa,
sợ hãi tương lai.
Các biểu hiện về hành vi: Ăn nhiều hơn hoặc ít hơn, ngủ quá nhiều hoặc quá ít,
phản ứng thái quá trước các vấn đề bất ngờ, cô lập bản thân với người khác, chần chừ,
bỏ bê trách nhiệm, sử dụng rượu, thuốc lá hoặc thuốc để thư giãn, thói quen khi hồi
hộp (cắn móng tay, nhịp chân, bậm môi, nghiến răng) và gia tăng hành động quá mức
(mua sắm, chơi game…).
Các biểu hiện về thể lý: Đau ngực, nhịp tim nhanh, tiêu chảy hoặc táo bón, buồn
nôn, chóng mặt, mất ngủ, tăng hoặc giảm cân, các vết loét da (phát ban, chàm), giảm
hoặc mất hứng thú tình dục, căng cơ bắp, thường xuyên cảm lạnh (Abou-Dagga, S.,
2013).
1.1.1.3. Hướng nghiên cứu về tác nhân gây stress cho cha mẹ có con tự kỷ
Tác giả Phetrasuwan và Miles (2009) đã nghiên cứu nguồn gây stress cho cha
mẹ có con tự kỷ. Trong nghiên cứu này, mẫu gồm có 108 phụ huynh có con được
chẩn đoán mắc chứng tự kỷ. Những người tham gia được yêu cầu hoàn thành các
bảng khảo sát về Tác nhân gây stress cho cha mẹ (PSS), bảng câu hỏi thông tin cá
nhân (độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, thu nhập) và thang chẩn đoán CARS. Kết
quả nghiên cứu cho thấy các triệu chứng về hành vi là nguồn gây ra stress cho cha
mẹ trong quá trình nuôi dạy con (Al-Oran and AL-Sagarat, 2016).
Tác giả Tomanik và đồng sự (2004) cho rằng các yếu tố gây mức độ stress cao
của cha mẹ là hành vi xã hội không phù hợp của trẻ bao gồm hành động hung hăng
đối với bản thân hoặc người khác, hành động lặp đi lặp lại hoặc rập khuôn. Theo tác
giả Osborne và tác giả Reed (2009) đã khảo sát mối liên hệ giữa các vấn đề về hành
10
vi của trẻ và stress của cha mẹ trong một mẫu bao gồm 137 phụ huynh có con tự kỷ
sử dụng thang đánh giá tự kỷ Gilliam (GARS) và bảng câu hỏi về Nguồn lực và stress
(QRS-F). Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa stress của cha mẹ và các vấn đề
về hành vi của trẻ (hành vi rập khuôn, kỹ năng giao tiếp, tương tác xã hội và những
rối loạn về phát triển) (Al-Oran and AL-Sagarat, 2016).
Tác giả Osborne và tác giả Reed (2010) nghiên cứu về stress và hành vi tự nhận
thức trong quá trình nuôi dạy con tự kỷ của cha mẹ. Mối tương quan giữa stress và
hành vi tự nhận thức trong quá trình nuôi dạy con tự kỷ của 138 cha mẹ được nghiên
cứu trong 9-10 tháng. Kết quả cho thấy ngoài việc nhận thức được sự yếu kém trong
giao tiếp của con, phần lớn cha mẹ không nhận ra được những mặt hạn chế khác trong
việc chăm sóc, nuôi dạy con tự kỷ. Stress của cha mẹ liên quan chặt chẽ đến sự tự
nhận thức, mức độ giao tiếp, và thiết lập giới hạn. Ở các cha mẹ của trẻ nhỏ (dưới 4
tuổi), mức độ stress ban đầu của cha mẹ có liên quan đến việc tự nhận thức kém, mức
độ giao tiếp hạn chế với trẻ. Việc có sự tự nhận thức tốt ngay từ ban đầu về kỹ năng
thiết lập giới hạn sẽ làm cho mức độ stress của cha mẹ thấp hơn. Những mối quan hệ
này giúp giải thích stress của cha mẹ có liên quan đến các vấn đề hành vi của trẻ và
phát triển các chiến lược hành vi thích ứng của cha mẹ để đối phó với việc gia tăng
stress trong quá trình nuôi dạy con tự kỷ (Abou-Dagga, S., 2013).
Tác giả Tehee và đồng sự (2009) nghiên cứu về tương quan của sự hỗ trợ và
tiếp cận thông tin/giáo dục với mức độ stress cho cha mẹ có con tự kỷ. Các bảng câu
hỏi được thiết kế đánh giá tổng thể nhận thức về stress, stress và cách ứng phó, hỗ trợ
xã hội, số lượng thông tin/giáo dục của 23 người mẹ và 19 người cha của đối tượng
được chẩn đoán tự kỷ ở độ tuổi từ 3 đến 18 tuổi. Kết quả cho thấy có mối quan hệ
tích cực giữa số lượng thông tin được tiếp cận và chất lượng hỗ trợ nhận được của
cha mẹ với mức độ stress của cha mẹ (Abou-Dagga, S., 2013).
11
1.1.1.4. Hướng nghiên cứu về cách ứng phó stress của cha mẹ có con tự kỷ
Tác giả Mancil và đồng sự (2009) quan tâm sâu sắc đến việc xác định các chiến
lược ứng phó mà cha mẹ sử dụng để ứng phó với những tác nhân gây stress trong quá
trình nuôi dạy con tự kỷ. Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc phỏng vấn các bậc
cha mẹ để tìm ra những chiến lược ứng phó mà họ đang sử dụng và phát hiện ra mức
độ hiệu quả khác nhau (Abou-Dagga, S., 2013) .
Tác giả Benson (2010) nghiên cứu này tìm hiểu về mối quan hệ giữa sức khỏe
tâm thần và cách thức ứng phó của phụ huynh trẻ tự kỷ trên hai phương diện đó là
tập trung vào vấn đề hay cảm xúc. Nghiên cứu được tiến hành trên 113 người mẹ có
con tự kỷ thông qua việc trả lời bảng phỏng vấn COPE. Nghiên cứu này cung cấp
thêm dữ liệu, thông tin về cách thức ứng phó cũng như mối tương quan giữa các hình
thức ứng phó với kết quả có được nơi người mẹ có con tự kỷ (Abou-Dagga, S., 2013).
Tác giả Lyon và cộng sự (2010) nghiên cứu đã kiểm tra tác động của mức độ
nghiêm trọng trong triệu chứng tự kỷ và các chiến lược ứng phó của cha mẹ đối với
stress trong quá trình nuôi dạy con. Các triệu chứng tự kỷ của trẻ và các chiến lược
ứng phó của cha mẹ (theo định hướng công việc, định hướng cảm xúc, sự giải trí, và
phân tán tập trung) được đánh giá là dự báo của bốn loại căng thẳng của cha mẹ (vấn
đề cha mẹ và gia đình, bi quan, đặc điểm của trẻ và sự bất lực về thể chất). Nghiên
cứu thực hiện trên 77 người chăm sóc chính cho trẻ. Kết quả cho thấy mức độ nghiêm
trọng của triệu chứng tự kỷ ở trẻ là yếu tố tiên đoán mạnh nhất và nhất quán nhất với
stress của cha mẹ. Bên cạnh đó, việc nâng cao hiểu biết về các chiến lược ứng phó ít
nhiều hiệu quả và dưới những điều kiện mà một số chiến lược ứng phó có thể mang
lại lợi ích hoặc có hại cho nhóm phụ huynh này có liên quan trực tiếp đến việc điều
trị và các nỗ lực giáo dục của phụ huynh (Abou-Dagga, S., 2013).
12
1.1.1.5. Hướng nghiên cứu về nhu cầu về sự hỗ trợ xã hội của cha mẹ có
con tự kỷ
Tác giả Benson và Dewey (2018) trong nghiên cứu “Stress và nhu cầu của cha
mẹ có con tự kỷ” cho rằng nghiên cứu về stress trong việc nuôi dạy con tự kỷ và
những nhu cầu của cha mẹ được coi là quan trọng nhất đối với việc giảm stress. Kết
quả của nghiên cứu cho thấy 60% cha mẹ có con tự kỷ trải nghiệm stress. Các nguồn
lực quan trọng, nhu cầu cần thiết để giảm stress cho cha mẹ có con tự kỷ là nhu cầu
về sự hỗ trợ tài chính chiếm tỷ lệ cao, cũng như nhu cầu có được sự hỗ trợ của các
thành viên khác trong gia đình và sự hỗ trợ của các chuyên gia. Nhìn chung, bảng
xếp hạng các nhu cầu của những người cha và người mẹ tương tự nhau, tuy nhiên, có
sự khác biệt đáng kể trong bảng xếp hạng nhu cầu giáo dục, can thiệp tại nhà của
người cha cao hơn đáng kể so với người mẹ. Sự khác biệt đáng kể trong việc xếp
hạng thứ tự mức độ của các nhu cầu để giảm thiểu stress giữa các cha mẹ có mức độ
stress khác nhau. Cha mẹ có mức độ stress thấp xếp hạng nhu cầu thông tin cao hơn
và sự cần thiết của nhu cầu hỗ trợ từ nhà thờ thấp hơn. Cha mẹ có con tự kỷ ở độ tuổi
đi học xếp loại nhu cầu cần sự hỗ trợ của người thân, liên lạc với các phụ huynh khác,
sự hiểu biết và chấp nhận của cộng đồng cao hơn đáng kể so với cha mẹ có con tự kỷ
ở độ tuổi mầm non. Ngược lại, cha mẹ có con tự kỷ ở độ tuổi mầm non xếp loại nhu
cầu chẩn đoán sớm, nhất quán, được huấn luyện, can thiệp tại nhà cao hơn đáng kể
so với cha mẹ có con tự kỷ ở độ tuổi đi học. Cha mẹ có con được chẩn đoán là tự kỷ
trong vòng một năm cho thấy có nhiều cảm giác không đủ năng lực, bị cô lập, bị hạn
chế và không khỏe hơn so với cha mẹ có con đã được chẩn đoán hơn một năm
(Benson, B., & Dewey, D., 2018).
Tác giả Hartley và Schultz (2015) trong nghiên cứu “Nhu cầu được trợ giúp của
cha mẹ có con tự kỷ” cho thấy trong quá trình nuôi con tự kỷ, cha mẹ mong muốn có
13
được sự hỗ trợ chính thức và không chính thức. Các hỗ trợ không chính thức bao gồm
những lời khuyên,sự giúp đỡ các công việc hàng ngày và sự hỗ trợ tinh thần mà cha
mẹ có con tự kỷ nhận được từ gia đình, bạn bè và người phối ngẫu của mình. Hỗ trợ
chính thức bao gồm sự tương tác của cha mẹ với các chuyên gia bao như các bác sĩ
nhi khoa, các chuyên gia trị liệu ngôn ngữ, vật lý, hành vi và các giáo viên giáo dục
đặc biệt. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn cho thấy việc hiểu được nhu cầu cần được hỗ
trợ của cha mẹ có ý nghĩa quan trọng, làm giảm stress trong việc nuôi dạy con tự kỷ
và nâng cao chất lượng và niềm vui cuộc sống cho cha mẹ (Hartley, L., & Schultz,
M., 2015).
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Bài viết “Phòng chống trạng thái căng thẳng trong đời sống và lao động” vào
năm 1976 của Tô Như Khuê được xem như là một trong những nghiên cứu mở đầu
cho việc nghiên cứu đề tài stress ở Việt Nam. Đến năm 1986, Phạm Ngọc Rao và
Nguyễn Hữu Nghiêm trong tác phẩm “Stress trong thời đại văn minh” đã khái quát
lịch sử nghiên cứu stress và đưa ra những dấu hiệu nhận biết stress, hậu quả của stress
có thể gây ra cho con người trong xã hội văn minh. Năm 1994, Đặng Phương Kiệt và
Nguyễn Khắc Viện trong tác phẩm “Tâm lý học và đời sống” đã bàn luận về vấn đề
stress liên quan đến trẻ em, thanh thiếu niên, học sinh. Trong đó, các tác giả đã chỉ ra
các nguồn gốc gây ra stress, mức độ stress, những cách phản ứng của stress và hậu
quả do stress gây ra. Những lý luận ban đầu về stress trong các tác phẩm trên có thể
nói là cơ sở tham khảo quý báu cho sự phát triển của các công trình nghiên cứu về
stress ở Việt Nam sau này. Cụ thể vấn đề stress đã được nghiên cứu mở rộng với
những đối tượng khác nhau như học sinh, sinh viên, giáo viên, công nhân, người quản
lý, nhân viên y tế, bệnh nhân… thông qua các hội thảo khoa học, công trình nghiên
cứu, luận văn, luận án, bài viết khoa học như:
14
Viện sức khỏe tâm thần thuộc bệnh viện Bạch Mai tổ chức hội thảo khoa học
“Những rối loạn có liên quan đến stress ở trẻ em và thanh thiếu niên” năm 1997 để
nêu lên vấn đề stress và hậu quả của stress đối với đối tượng là trẻ em và thanh thiếu
niên (Đào Thị Duy Duyên, 2010).
Nguyễn Thành Khải (2001) với luận án tiến sĩ “Nghiên cứu stress ở cán bộ quản
lý” cho thấy các cán bộ quản lý đều bị stress ở các mức độ khác nhau, stress biểu hiện
qua các mặt tâm lý, sinh lý, có nhiều nguyên nhân gây stress cho cán bộ trong đó chủ
yếu là nguyên nhân gặp khó khăn trong công việc (Trịnh Viết Then, 2016).
Đào Thị Duy Duyên (2010) nghiên cứu đề tài “Vấn đề stress của công nhân ở
một số khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh”. Kết quả nghiên
cứu cho thấy đa số công nhân cảm thấy thỉnh thoảng bị stress, có sự khác biệt về mức
độ stress theo điều kiện kinh tế, tình trạng tăng ca, tình trạng sức khỏe. Biểu hiện
stress của công nhân thể hiện qua 4 mặt thể chất – sinh lý, cảm xúc, nhận thức – hoạt
động thần kinh và hành vi – hoạt động thường ngày. Cách ứng phó stress của công
nhân phần lớn là làm làm những việc bản thân thấy thích và có hứng thú có tác dụng
giải trí, ít sử dụng sự hỗ trợ từ bên ngoài như từ lãnh đạo, quản lý hoặc các tổ chức
xã hội, trung tâm tham vấn tâm lý (Đào Thị Duy Duyên, 2010).
Nguyễn Trung Tần (2012) với đề tài “Stress của nhân viên y tế tại bệnh viện
tâm thần Tiền Giang” cho thấy phần lớn nhân viên y tế tự đánh giá stress ở mức thỉnh
thoảng, có sự khác biệt về mức độ stress theo thời gian công tác và điều kiện kinh tế.
Biểu hiện stress của các nhân viên y tế có những biểu hiện ở các mức độ khác nhau
về mặt thể chất, cảm xúc và hành vi. Có nhiều nguyên nhân gây stress cho nhân viên
y tế trong đó nguyên nhân gây stress nhiều nhất chủ yếu từ công việc. Cách ứng phó
stress của nhân viên y tế phần lớn là cải thiện môi trường sinh hoạt, môi trường sống,
môi trường việc làm để tạo sự thoải mái, ít sử dụng sự hỗ trợ từ bên ngoài như từ các
15
tổ chức, đoàn thể hoặc trung tâm tham vấn tâm lý (Nguyễn Trung Tần, 2012).
Trịnh Viết Then (2016) với luận án “Stress ở giáo viên mầm non” cho thấy đa
số giáo viên mầm non bị stress ở mức độ nhẹ, có sự khác biệt về mức độ stress giữa
các giáo viên ở các yếu tố như: trình độ chuyên môn, loại hình nhà trường, thâm niên
công tác, độ tuổi, loại hình hợp đồng lao động với trường, cam kết cá nhân với nhà
trường, thu nhập trung bình tháng. Có nhiều tác nhân gây stress cho giáo viên mầm
non trong đó tác nhân liên quan đến đáp ứng nhu cầu cá nhân, liên quan đến trẻ, có
mức độ tác động mạnh nhất. Giáo viên mầm non sử dụng nhiều cách ứng phó khác
nhau trong đó ứng phó tập trung vào vấn đề được giáo viên lựa chọn sử dụng nhiều
nhất. Trải nghiệm stress của giáo viên mầm non thể hiện qua thể chất, nhận thức, cảm
xúc, và hành vi. Stress dẫn đến nhiều hệ quả liên quan đến cá nhân giáo viên và tổ
chức nhà trường. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ stress của giáo viên trong
đó sự hỗ trợ từ đồng nghiệp, yếu tố hỗ trợ từ phụ huynh của trẻ, yếu tố tính lạc quan,
bi quan có mức độ dự báo cao nhất trong các yếu tố (Trịnh Viết Then, 2016).
Nhìn chung các nghiên cứu về stress ở Việt Nam được thực hiện với nhiều đối
tượng có những đặc thù, hoạt động nghề nghiệp khác nhau qua nhiều khía cạnh của
stress từ mức độ stress, biểu hiện stress, nguyên nhân và yếu tố ảnh hưởng đến stress
đến hậu quả và cách ứng phó với stress. Tuy nhiên việc nghiên cứu stress ở cha mẹ
nói chung và stress ở cha mẹ có con tự kỷ nói riêng vẫn còn hiếm hoi và khá mới mẻ.
Vấn đề tự kỷ được quan tâm nghiên cứu từ những năm 90 bởi trung tâm N-T
của cố bác sỹ Nguyễn Khắc Viện với những cuộc hội thảo về hội chứng tự kỷ và
những cách thức trị liệu do các bác sĩ tâm thần và các nhà tâm lý trị liệu Pháp đến
trình bày. Kế đến là những nghiên cứu, bài viết, bài báo, sách của một số bác sĩ,
chuyên gia như tác giả Nguyễn Văn Thành với loạt sách “Trẻ em tự bế, phương thức
giáo dục và dạy dỗ” (2006), “Nguy cơ tự kỷ từ 0 đến 7 tuổi” (2006), “Phát huy quan
16
hệ xã hội trong vấn đề giáo dục trẻ em tự kỷ” (2007); tác giả Ngô Xuân Điệp (2008)
với đề tài nghiên cứu “Nhận thức của trẻ tự kỷ”; tác giả Nguyễn Thị Mai Lan (2012)
với công trình “Nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân, các biện pháp giáo dục hoà nhập
cho trẻ tự kỷ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”; tác giả Nguyễn Thị Hoa Mai (2012)
với công trình “Những dấu hiệu cơ bản nhận biết hội chứng tự kỷ ở trẻ” (Lê Minh
Công & Ngô Xuân Điệp, 2012). Tuy nhiên, các nghiên cứu này phần lớn tập trung
vào quá trình chẩn đoán, nguyên nhân và các phương pháp trị liệu, can thiệp vấn đề
cho trẻ, còn vấn đề tinh thần, sức khỏe tâm thần của cha mẹ trong quá trình nuôi dạy
con tự kỷ chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều, có một số tác giả quan tâm đưa vào
các công trình nghiên cứu khoa học như sau:
Tác giả Nguyễn Thị Mẫn (2013) với công trình “Tâm trạng của cha mẹ có con
tự kỷ” đã nghiên cứu làm rõ thực trạng tâm trạng của cha mẹ khi có con tự kỷ trong
các khía cạnh về bản thân, tâm trạng về gia đình, tâm trạng về xã hội và những yếu
tố ảnh hưởng đến tâm trạng của họ như nhận thức, kinh tế, mối quan hệ trong gia
đình, địa vị xã hội. Từ đó, tác giả đề xuất một số biện pháp tâm lý giúp cha mẹ có con
tự kỷ có tâm trạng tích cực để thích ứng với hoàn cảnh mới nhanh hơn và góp phần
chăm sóc và giáo dục trẻ tự kỷ tốt hơn (Nguyễn Thị Mẫn, 2013).
Tác giả Đào Thị Sâm (2013) với công trình “Khảo sát thái độ của cha mẹ đối
với con có chứng tự kỷ tại thành phố Hồ Chí Minh” đã khảo sát thực trạng về thái độ
của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số biện
pháp nhằm giúp cha mẹ có những hiểu biết cần thiết về chứng tự kỷ và có thái độ tích
cực trong việc can thiệp cho con (Đào Thị Sâm, 2013).
Tác giả Phạm Thị Hòa (2014) với đề tài “Nghiên cứu sự thích ứng với hoàn
cảnh có con tự kỷ của cha mẹ ở Hà Nội” đã tiến hành nghiên cứu thực trạng thích
ứng của cha mẹ khi con được chẩn đoán là tự kỷ, một số yếu tố ảnh hưởng đến thực