TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
BIỆN CHỨNG GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. MỞ ĐẦU
Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nội dung quan trọng và là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác – Lênin. Nhận thức đúng đắn và sâu sắc nội dung biện chứng giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa to lớn đối với đời sống và sự phát triển của xã hội nói chung và đối với công tác lãnh đạo quản lý của cán bộ, đảng viên nói riêng.
Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ vận dụng sáng suốt biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, Đảng ta đã căn cứ vào thực tiễn đất nước để không ngừng hoàn thiện lý luận, đường lối, chủ trương, lãnh đạo Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, đạt được những thành quả quan trọng trong thời kỳ đổi mới, hội nhập. Sự lãnh đạo đúng đắn đó bắt nguồn từ việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Với nhận thức như vậy, chúng ta có thể thấy rằng nhận thức biện chứng giữa lý luận và thực hiện có ý nghĩa thời sự, cấp thiết. Do đó, tôi lựa chọn vấn đề biện chứng giữa lý luận và thực tiễn làm đề tài tiểu luận kết thúc môn học của mình.
Tiểu luận tập trung nghiên cứu và làm rõ nội dung biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, vận dụng mối quan hệ biện chứng đó vào công tác lãnh đạo quản lý và bản thân. Để đạt được mục tiêu nêu trên, tiểu luận tập trung làm rõ hệ thống khái niệm, những nội dung cơ bản và ý nghĩa phương pháp luận đối với công tác lãnh đạo quản lý và bản thân.
Cơ sở lí luận của đề tài tiểu luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong nghiên cứu lý luận chính trị. Trong đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp luận của việc nghiên cứu, thực hiện đề tài luận án. Ngoài cơ sở lí luận và phương pháp luận nêu trên, tác giả còn sử dụng các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, logic, quy nạp, diễn dịch, thống kê, so sánh… nhằm tìm kiếm, phân tích các kết quả nghiên cứu có sẵn để miêu tả, khái quát hoá toàn cảnh về chủ đề nghiên cứu từ các góc độ khác nhau.
2. NỘI DUNG
2.1. Một số khái niệm cơ bản
– Khái niệm lý luận
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận là hệ thống những tri thức, được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các sự vật hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống, nguyên lý, quy luật, phạm trù. Lý luận là kết quả của quá trình phát triển cao của nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.
Lý luận có 3 đặc trưng: 1) Lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lô gic chặt chẽ; 2) Cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn. Lý luận là những tri thức được khái quát từ những tri thức kinh nghiệm. Không có trí thức kinh nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận; 3) Lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất sự vật hiện tượng. Lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nhờ đó nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của SVHT.
– Khái niệm thực tiễn
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là một phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính lịch sử – xã hội của con người nhằm mục đích cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Do vậy, thực tiễn có ba đặc trưng sau:
+ Một là, thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất, chứ không phải là hoạt động tinh thần (hay còn gọi là hoạt động lý luận). Đó là những hoạt động mà con người phải sử dụng công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm thay đổi chúng. Ví dụ hoạt động sản xuất ra của cải vật chất như xây nhà, đắp đê, trồng lúa,v.v…
+ Hai là, thực tiễn là những hoạt động có tính lịch sử – xã hội. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là hoạt động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người, và trải qua những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định. Trình độ và hình thức của hoạt động thực tiễn có sự thay đổi qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử xã hội.
+ Ba là, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người tiến bộ. Đặc trưng này nói lên tính mục đích, tính tự giác của hoạt động thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất để tác động và tự nhiên, xã hội nhằm cải tạo, biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích, phục vụ cho nhu cầu của mình.
Thực tiễn có ba hình thức cơ bản gồm:
+ Thứ nhất, hoạt động sản xuất vật chất. Đây là những hoạt động sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người, là hoạt động quyết định sự tồn tại và phát triển của XH loài người, thông qua đó con người ngày càng hoàn thiện.
+ Thứ hai, hoạt động chính trị – xã hội, hoạt động cải tạo các quan hệ chính trị – xã hội. Đây là hoạt động của con người trong các lĩnh vực chính trị – xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, hoàn thiện các thiết chế xã hội.
+ Thứ ba, hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức hoạt động thực tiễn đặc biệt vì trong thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện nhân tạo để vận dụng thành tựu KHCN vào nhận thức và cải tạo thế giới. Vai trò của hình thức hoạt động này ngày càng quan trọng do sự phát triển của KHCN.
2.2. Nội dung biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Quan điểm của triết học Mác – Lênin về biện chứng giữa lí luận và thực tiễn không chỉ ở chỗ vạch rõ vai trò quyết định của thực tiễn đối với lí luận, coi thực tiễn là cơ sở, là tiêu chuẩn, là mục đích quan trọng của lí luận với thực tiễn, mà còn nêu rõ vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Lý luận không phản ánh hiện thực một cách thụ động mà có vai trò như kim chỉ nam vạch phương pháp hành động có hiệu quả nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Kế thừa quan điểm của triết học Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”.
Nội dung biện chứng giữa lý luận với thực tiễn trong triết học Mác – Lênin gồm những vấn đề cơ bản sau:
2.2.1. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận; lý luận hình thành, phát triển từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, trước hết, là khẳng định thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận.
– Một là, thực tiễn là cơ sở lý luận. Thông qua thực tiễn được thể hiện ở hoạt động sản xuất vật chất, chính trị – xã hội và thực nghiệm khoa học, nhận thức của con người được hình thành và phát triển. Đó cũng là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên, xã hội làm giới tự nhiên, xã hội bộc lộ những thuộc tính, những tính qui luật để cho con người nhận thức. Lúc đầu con người chỉ thu nhận được những tài liệu cảm tính, sau đó tiến hành so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phản ánh bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng, từ đó hình thành các khoa học, lý luận. Theo đó, thực tiễn là cơ sở của nhận thức của lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp, dù ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều có nguồn gốc và bị quyết định bởi thực tiễn.
– Hai là, thực tiễn là động lực của lý luận. Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới con người còn biến đổi bản thân mình, phát triển năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng có khả năng nhận thức, khám phá bí mật của thế giới, làm phong phú, sâu sắc hơn tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Các ngành khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội và thực nghiệm khoa học của xã hội.
– Ba là, thực tiễn là mục đích của lý luận. Nhận thức, lý luận không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản là giải thích về thế giới về con người mà phải phục vụ thực tiễn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Sự ra đời của các ngành khoa học và hệ thống lý luận của nó chỉ có ý nghĩa thật sự khi tri thức của khoa học được vận dụng vào thực tiễn, biến đổi giới tự nhiên xã hội và bản thân con người.
– Bốn là, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Vì vậy, C.Mác đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt đến chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vân đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người đã chứng minh chân lý”. Thông qua thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức của nhân loại; những những lý luận nào chưa phù hợp thực tiễn sẽ tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại.
Phân tích vai trò của thực tiễn đối với lý luận yêu cầu chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực thực tiễn đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn. Quá trình hình thành và phát triển của nhận thức tất yếu dẫn đến sự hình thành và phát triển của lý luận. Đó không chỉ là là sự tổng kết khái quát lịch sử nhận thức của con người mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Nhu cầu của thực tiễn xét cho cùng là nhu cầu những tri thức mới và sự vận dụng nó trong hoạt động sản xuất, hoạt động chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học làm biến đổi hiện thực khách quan nhằm thoả mãn nhu cầu nói chung của con người.
2.2.2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận, lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục được bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn không chỉ khẳng định vai trò của thực tiễn đối với lý luận mà còn thấy được vai trò của lý luận có ý nghĩa chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
– Một là, thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với sự vận động phát triển của tồn tại xã hội, triết học Mác đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện khách quan nhất định, tư tưởng con người, đặc biệt là tư tưởng khoa học có thể vượt trước tồn tại xã hội. Theo đó, lý luận không chỉ có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, biện pháp thực hiện mà còn có khả năng dự báo xu hướng phát triển, những thành công, những rủi ro, những hạn chế có thể xảy ra trong quá trình hoạt động của con người. Như vậy, lý luận có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Chính vì vậy, C. Mác đã cho rằng: “Vũ khí phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đã chỉ ra những qui luật vận động tất yếu của xã hội loài người nói chung, của xã hội tư bản nói riêng và tính tất yếu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết đó trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí lý luận sâu sắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của Mác là cơ sở lý luận về thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học cho các ngành khoa học xã hội nghiên cứu xã hội như là một quá trình lịch sử tự nhiên. Ngày nay, thực tiễn của lịch sử và tri thức về lịch sử của nhân loại đã có nhiều bổ sung và phát triển mới so với khi học thuyết hình thái kinh tế – xã hội ra đời. Tuy vậy, những cơ sở khoa học mà họa thuyết hình thái kinh tế – xã hội của Mác đã đem đến khoa học xã hội thì vẫn có những giá trị đích thực.
Giá trị của chân lý của lý luận không chỉ mang tính tuyệt đối, tính tương đối mà còn có tính cụ thể. Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta cần phân tích một cách cụ thể mỗi tình hình cụ thể. Nếu vận dụng máy móc, giáo điều kinh viện chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến kết quả của hoạt động thực tiễn.
– Hai là, lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục được bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn của con người trên cơ sở thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy có phong phú, đa dạng nhưng không phải không có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn được khái quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ là phương pháp, mà còn là định hướng mục tiêu, mô hình và biện pháp giải quyết các mối quan hệ của hoạt động thực tiễn.
Lý luận mặc dù là logic của thực tiễn, tuy nhiên, lý luận có thể lạc hậu hơn so với thực tiễn. Do đó, vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta bám sát diễn biến của thực tiễn và thông qua thực tiễn để tiếp tục bổ sung và phát triển lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, tính năng động và sáng tạo của lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Về vấn đề này, Lênin đã nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những ở tính phổ biến, mà cả ở tính hiện thực trực tiếp”.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của biện chứng giữa lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam và công tác lãnh đạo quản lý, bản thân
3.1. Ý nghĩa đối với cách mạng Việt Nam
Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa phương pháp luận to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Có thể rút ra ba ý nghĩa cơ bản sau:
– Một là, lý luận phải bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được kinh nghiệm của thực tiễn.
Thực tiễn là cái được phản ánh, lý luận là cái phản ánh. Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển và biến đổi. Bám sát thực tiễn không chỉ phản ánh phù hợp thực tiễn, mà còn phải so sánh, đối chiếu, phân tích để chọn lọc những thực tiễn mang tính khách quan, tính quy luật làm cơ sở cho quá trình hình thành lý luận. Kinh nghiệm hoạt động của con người là cơ sở hình thành lý luận. Lý luận phải khái quát được kinh nghiệm của loài người thì lý luận mới có tính khoa học và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Đối với cách mạng Việt Nam, Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 đánh giá: “công tác lý luận còn có những hạn chế, khuyết điểm, lý luận còn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn”. Nghị quyết cũng nêu rõ phương châm của công tác lý luận trong tình hình mới: “Lý luận phải gắn chặt với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng và phục vụ yêu cầu phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn; nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, định hướng nghiên cứu trong từng thời kỳ. Kiên trì thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc; đồng thời, tiếp thu các thành tựu mới, tinh hoa của nhân loại”.
– Hai là, hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, vận dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
Sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử luôn được lý luận khái quát, nhở khả năng phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật mà lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của mình. Trong điều kiện nước ta hiện nay, coi trọng lý luận có nghĩa là phải vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học của nhân loại vào điều kiện thực tiễn của đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn, máy móc. Sự phát triển của khoa học công nghệ là thành quả của loài người. Do đó, con đường phát triển ngắn nhất và bền vững nhất hiện nay của các quốc gia, dân tộc là tranh thủ thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ để phát triển đất nước.
Lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin khi được vận dụng vào thực tiễn nước ta phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể, gắn với các mục tiêu, nhiệm vụ và yêu cầu khách quan do thực tiễn đặt ra. Do đó, việc chúng ta tiếp thu thành quả của tư duy nhân loại trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước; tiếp thu thành quả xây dựng nhà nước pháp quyền, cơ chế quản lý khoa học công nghệ, văn hoá xã hội… để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
– Ba là, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Một trong những biểu hiện của sự vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Nếu bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hoá những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng một cách máy móc vào hiện tại khi điều kiện đã thay đổi, thì bệnh giáo điều lại tuyệt đối hoá lý luận, tuyệt đối hoá kiến thức sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng lý luận một cách máy móc, không tính toán được điều kiện lịch sử – cụ thể.
Để khắc phục bệnh kinh nghiệm cần phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tức là bám sát thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung và vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, phải hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi vì sự vận động và biến đổi của cơ chế thị trường đòi hỏi mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó, điều chỉnh và đưa ra những quyết sách kinh doanh phù hợp, khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm.
Để khắc phục bệnh giáo điều cần phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Điều đó có nghĩa là lý lluận phải gắn với thực tiễn, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, kiếm chứng trong thực tiễn và không ngừng hoàn thiện, phát triển với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có thực tiễn thì thành lý luận suông”.
3.2. Ý nghĩa đối với công tác lãnh đạo quản lý, bản thân
Bản thân tôi hiện đang công tác tại trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, vừa tham gia công tác lãnh đạo, quản lý với tư cách là Bí thư Đoàn trường, Chủ tịch Hội Sinh viên Đại học Huế và các chức vụ kiêm nhiệm khác, vừa làm công tác chuyên môn là giảng dạy lý luận chính trị cho sinh viên chuyên ngành Giáo dục Chính trị và sinh viên không chuyên các môn Tư tưởng Hồ Chí Minh và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, vấn đề biện chứng giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với bản thân tôi trên cả hai cương vị là lãnh đạo quản lý và công tác giảng dạy.
– Đối với công tác lãnh đạo quản lý
Trong công tác lãnh đạo quản lý với tư cách là cán bộ Đoàn Thanh niên – Hội Sinh viên, việc nắm vững lý luận chính trị nói chung, chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và lý luận về Đoàn Thanh niên – Hội Sinh viên hết sức cần thiết trước những yêu cầu và sự vận động, biến đổi của thực tiễn công tác Đoàn – Hội. Do đó, để hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác lãnh đạo quản lý nêu trên cần phải quán triệt biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Trước hết, phải nắm vững lý luận chính trị nói chung, chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cơ bản để tổ chức, thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Bên cạnh đó, cần phải trang bị hệ thống tri thức lý luận về công tác quản lý nhằm xây dựng tổ chức đoàn thể vững mạnh; nắm vững tri thức lý luận về Đoàn Thanh niên – Hội Sinh viên để điều hành công tác, hoạch định chương trình, kế hoạch công tác Đoàn – Hội.
Nhiệm vụ người cán bộ Đoàn – Hội nói chung là vận động, tổ chức thực hiện Nghị quyết, Điều lệ của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên. Nhiệm vụ người cán bộ trong trường học gắn chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Nhà trường (học tập, giảng dạy, phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm,…), nhiệm vụ chính trị địa phương (tham gia phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng) mà Nhà trường đóng trên địa bàn. Do đó, người cán bộ Đoàn – Hội phải vững lý luận và bám sát thực tiễn, thông qua thực tiễn công tác để hoàn thiện lý luận.
– Đối với công tác giảng dạy lý luận chính trị
Bản thân tôi hiện đang tham gia công tác giảng dạy các học phần lý luận chính trị của nhà trường. Do đó, tôi nhận thức được rằng, việc giảng dạy cần quán triệt sâu sắc nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Trong giảng dạy lý luận chính trị, các vấn đề lý luận và thực tiễn phải được giảng viên trình bày một cách thống nhất, làm sao để lý luận triết học thường xuyên liên hệ chặt chẽ với thực tiễn xã hội, thực tiễn giáo dục, phản ánh kịp thời sự biến đổi của đời sống xã hội. Đất nước ta đang thời kỳ đổi mới với những thay đổi rất nhanh chóng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục cũng đang có những chuyển biến tích cực và mạnh mẽ. Những thay đổi trong đời sống thực tiễn phải được cập nhật kịp thời và đưa vào trong nội dung bài giảng của mình. Tri thức chính trị không phải là những vấn đề xong xuôi, cứng nhắc, mà nó đầy tính sáng tạo và luôn được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động.
Tuy nhiên, các kết luận nghiên cứu lý luận chính trị không phải là những lời giải đáp trực tiếp cho từng vấn đề cụ thể vô cùng phong phú, đang dạng mà là cơ sở có giá trị định hướng về mặt phương pháp luận. Do đó, trong quá trình giảng dạy, cần phân tích làm cho người học nắm được cơ sở lý luận, khía cạnh phương pháp luận của các vấn đề cần truyền đạt, từ đó họ có thể lý giải được những vấn đề thực tiễn.
Khi trình bày các nội dung tri thức lý luận chính trị, cần lấy những ví dụ minh họa mang tính thực tiễn, liên hệ lý luận với thực tiễn. Tuy nhiên, không nên trình bày theo kiểu minh họa, thuyết minh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, mà phân tích một cách có căn cứ lý luận; vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để luận giải các vấn đề thực tiễn. Giảng dạy lý luận chính trị là làm cho sinh viên hiểu được, nắm được cơ sở lý luận, khía cạnh phương pháp luận của đường lối, chủ trương, chính sách đang thực thi trong đời sống, từ đó có thể tự phân tích, nhận định, đánh giá những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh.
Đối với sinh viên sư phạm, cần chú trọng liên hệ, đối chiếu lý luận chính trị với thực tiễn giáo dục, với quá trình đổi mới giáo dục – đào tạo ở nước ta. Trong giảng dạy lý luận chính trị, cần định hướng cho sinh viên vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để luận giải mục tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục. Chẳng hạn, trên cơ sở trình bày nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, giảng viên cần chỉ ra quan điểm giáo dục toàn diện (nội dung giáo dục phải bảo đảm tính toàn diện); trên cơ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cần làm sảng tỏ nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội; hoặc khi trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, đạo đức và con người cần làm rõ những tính chất, chức năng của văn hoá, những giá trị của các chuẩn mực đạo đức cách mạng và yêu cầu của con người mới xã hội chủ nghĩa để sinh viên phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện… Nội dung tự học, tự nghiên cứu, thảo luận nhằm vào mục đích rèn luyện năng lực vận dụng kiến thức lý luận chính trị vào nghiên cứu các khoa học chuyên ngành và phân tích các vấn đề thực tiễn. Có như vậy, giảng dạy lý luận chính trị mới trở nên thiết thực, bổ ích đối với sinh viên; trang bị cho họ lý luận và phương pháp luận biện chứng duy vật để phân tích các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn xã hội, thực tiễn giáo dục của đất nước.
III. KẾT LUẬN
Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là một trọng những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng. Đây không chỉ là nguyên tắc được đề xuất trong nhận thức luận, mà còn là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin cho quá trình hình thành tri thức khoa học, tri thức lý luận và phương pháp luận cho hoạt động cải tạo hiện thực khách quan vì mục đích tiến bộ xã hội.
Quán triệt quan điểm Mácxit về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn nói chung mà còn là yêu cầu khách quan đối với việc cải tạo xã hội, đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Thành quả của hơn 30 năm đổi mới đất nước từ Đại hội VI (1986) đã chứng minh sự quán triệt về mặt nhận thức và hành động của Đảng ta về biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Đối với cán bộ, đảng viên nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ làm công tác chính trị, tư tưởng, tuyên giáo, việc nắm vững biện chứng lý luận và thực tiễn càng có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao năng lực tổ chức, lãnh đạo, quản lý và hoàn thành tốt nhiệm vụ trước Đảng và nhân dân giao phó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Triết học Mác – Lênin, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội
Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.