9745_Các giải pháp phát triển vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường hàng không của Vietnam Airlines

luận văn tốt nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
——-o0o——-

Khóa luận tốt nghiệp

ĐỀ TÀI:

CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VẬN TẢI HÀNG HOÁ
XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG CỦA
VIETNAM AIRLINES

Họ và tên sinh viên : THẨM THUÝ HÀ
Lớp
: Anh 1
Khoá
: K42A – KT&KDQT
Giáo viên hướng dẫn : ThS. NGUYỄN LỆ HẰNG

Hà Nội, tháng 11/2007
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
1
LỜI NÓI ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, với chính sách mở của nền kinh tế của Nhà nước,
nền kinh tế nước ta có những bước phát triển vượt bậc, điều này làm cho nhu cầu
về vận tải hàng không (VTHK) trở nên quan trọng và thiết yếu hơn bao giờ hết.
Vận tải hàng không Việt Nam không chỉ đơn thuần là vận chuyển hành khách
nữa mà cần phải nhanh chóng phát triển, thích ứng với cả nhu cầu vận chuyển
hàng hoá nhất là vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu đang ngày một tăng lên
nhanh chóng.
Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines – VNA) với tư cách
là nòng cốt của Ngành hàng không dân dụng Việt Nam trong những năm qua đã
có những bước tiến đáng kể trong lĩnh vực vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu. Tuy
nhiên với xuất phát điểm thấp, năng lực tài chính hạn hẹp như hiện nay thì sự tồn
tại và phát triển trên một thị trường vận tải hàng hoá có tính cạnh tranh quốc tế
rất khốc liệt, với nhiều đối thủ khổng lồ, có tiềm lực cạnh tranh và kinh nghiệm
dày dạn như Air France, Singapore Airlines, Cathay Pacific… là cả một bài toán
lớn đặt ra đối với Hãng.
Trong bối cảnh như vậy, Hãng hàng không quốc gia Việt Nam phải có sự nỗ
lực rất lớn nhằm khắc phục những khó khăn vốn có của mình để có thể tồn tại và
phát triển trên thị trường vận tải hàng hoá quốc tế, đồng thời đáp ứng được
những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Vì vậy, việc nghiên cứu về vận tải hàng không, đặc biệt là đi sâu nghiên cứu
vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không của Hãng hàng không
quốc gia Việt Nam để từ đó tìm ra các giải pháp cần thiết cho sự củng cố và phát
triển là điều rất quan trọng và cần thiết.
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
2
Với mong muốn tìm hiểu hoạt động vận tải của Hãng hàng không quốc gia
Việt Nam trong bối cảnh nhiều cơ hội và nhiều thách thức của nền kinh tế mở
cửa, căn cứ vào các tài liệu và số liệu thực tế về tình hình vận tải hàng hoá xuất
nhập khẩu của Hãng trong những năm gần đây, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Các
giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không
của Vietnam Airlines” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu tìm hiểu lý luận chung về vận tải hàng không;
Phân tích, đánh giá thực trạng vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu của Hãng
hàng không quốc gia Việt Nam. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực
vận tải hàng hoá quốc tế của Hãng.
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động vận tải nói chung và vận tải hàng
hóa xuất nhập khẩu nói riêng trong phạm vi Hãng hàng không quốc gia Việt
Nam
Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng nhiều phương pháp như:
phương pháp hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp, dự báo để luận giải các vấn
đề.
Kết cấu của khoá luận
Tên khoá luận: Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu
bằng đường hàng không của Vietnam Airlines
Ngoài các phần Lời nói đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, khoá luận được
chia thành 3 chương:
Chương I: Vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không quốc tế
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
3
Chương II: Thực trạng vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu của Hãng hàng không
quốc gia Việt Nam
Chương III: Giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Hãng hàng không quốc gia Việt Nam
Do thời gian nghiên cứu không lâu, năng lực bản thân còn hạn chế nên
khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong các thầy cô đóng góp ý
kiến, hướng dẫn thêm để khoá luận có thể hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Lệ Hằng cùng các thầy cô
Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện để em
có thể hoàn thành khoá luận này.
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
4
CHƢƠNG I: CHUYÊN CHỞ HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU
BẰNG ĐƢỜNG HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ

I) Khái quát chung về vận tải hàng không (VTHK)
1. Khái niệm
Vận tải hàng không nói theo nghĩa rộng là sự tập hợp các yếu tố kinh tế kỹ
thuật nhằm khai thác việc chuyên chở bằng máy bay một cách có hiệu quả. Nếu
nói theo nghĩa hẹp là thì VTHK là sự di chuyển của máy bay trong không gian
hay cụ thể hơn là hình thức vận chuyển hành khách, hàng hoá, hành lý, bưu kiện
từ một địa điểm này đến một địa điểm khác bằng máy bay.
Đối tượng chuyên chở bằng đường hàng không: Đối tượng chuyên chở
của VTHK 3 loại chính (trừ hành khách là đối tượng không được trình bày ở
đây), đó là:
Thư, bưu kiện (Air mail): gồm thư từ, bưu kiện, bưu phẩm dùng để biếu
tặng, vật kỷ niệm… Đây là những mặt hàng này thường đòi hỏi phải vận chuyển
nhanh và an toàn cao.
Hàng chuyển phát nhanh (Express): gồm các loại chứng từ, sách báo, tạp
chí và đặc biệt là hàng hoá cứu trợ khẩn cấp…
Hàng hoá thông thường (Air Freight): Là những hàng hóa thích hợp vận
chuyển bằng máy bay. Trong tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng máy
bay thì 80% là hàng hoá thông thường, 16% là hàng chuyển phát nhanh và 4% là
bưu phẩm, bưu kiện.
Hàng hóa thông thường được vận chuyển bằng máy bay gồm các loại sau
đây:
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
5
Hàng hoá có giá trị cao (High Value Commodity): gồm những hàng hoá
có giá trị từ 1.000 USD/kg trở lên; vàng, bạch kim, đá quý, các sản phẩm bằng
vàng, bạch kim, đá quý…, tiền, séc du lịch, thẻ tín dụng, chứng từ có giá; kim
cương, các đồ trang sức bằng kim cương…
Hàng hoá dễ hư hỏng do thời gian (Perisable): Gồm những loại hoa quả
tươi, thực phẩm đông lạnh…
Hàng hoá nhạy cảm với thị trường ( Market Sensitive Air Freight): Gồm
những loại hàng mốt, hàng thời trang (Fashion Goods)…
Động vật sống (Live Animals): gồm những động vật nuôi trong nhà, vườn
thú…Động vật sống khi vận chuyển đòi hỏi phải kiểm dịch, chăm sóc đặc biệt và
phải vận chuyển nhanh để đảm bảo chất lượng.
2. Đặc điểm của vận tải hàng không
Vận tải hàng không đóng một vai trò quan trọng trong nội địa cũng như
trên quốc tế. Ngày nay, vận tải hàng không đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới
tạo thành mạng lưới ngày càng thông suốt nối các quốc gia với nhau. Vận tải
hàng không với những đặc trưng riêng của mình đã và đang phục vụ đắc lực cho
thương mại quốc tế.
 Ưu điểm:
+ Tuyến đường trong vận tải hàng không là không trung và hầu như là
đường thẳng, không phụ thuộc vào địa hình, mặt đất, mặt nước, không phải đầu
tư xây dựng: Tuyến đường trong VTHK được hình thành trong không gian căn
cứ vào định hướng là chính, cho nên nói khoảng cách giữa hai điểm vận tải chính
là nói đến khoảng cách giữa hai điểm đó. Tuy nhiên việc hình thành các đường
bay trực tiếp nối liền giữa hai sân bay cũng phụ thuộc ít nhiều vào điều kiện địa
lý, đặc thù khí tượng của từng vùng, nhưng cơ bản, tuyến đường di chuyển của
máy bay là tương đối thẳng nếu không kể đến sự thay đổi độ cao của máy bay
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
6
trong quá trình di chuyển. Thông thường, tuyến đường hàng không bao giờ cũng
ngắn hơn tuyến đường sắt và đường ô tô khoảng 20% và tuyến đường sông
khoảng 10%.
+ Tốc độ vận tải đường hàng không cao, thời gian vận chuyển ngắn. Nếu
chúng ta so sánh trên một quãng đường vận chuyển dài 500km, thì máy bay bay
mất 1 tiếng đồng hồ, còn tàu hỏa đi mất 8,3 tiếng, ô tô chạy mất khoảng 10 tiếng,
và đường thuỷ mất khoảng 27 tiếng.
+ Vận tải đường hàng không là an toàn nhất: So với các phương thức vận tải
khác thì vận tải đường hàng không ít tổn thất nhất, vì do thời gian vận chuyển
ngắn nhất, trang thiết bị phục vụ vận chuyển hiện đại nhất, máy bay bay ở độ cao
trên 9.000m trên tầng điện ly, nên trừ lúc cất cánh, hạ cánh, máy bay hầu như
không chịu tác động bởi các điều kiện thiên nhiên như: sét, mưa bão.. trong hành
trình chuyên chở.
+ Vận tải hàng không luôn đòi hỏi sử dụng công nghệ cao: Do tốc độ cao và
chủ yếu chỉ chuyên chở hành khách và hàng hoá trị giá cao, hàng giao ngay,
hàng cứu trợ khẩn cấp,… nên VTHK đòi hỏi độ an toàn tuyệt đối trong quá trình
vận chuyển. Hơn nữa, VTHK không cho phép sai sót do tính nghiêm trọng của
tai nạn huỷ diệt nên VTHK đòi hỏi những tiêu chuẩn rất khắt khe về công nghệ
và kỹ thuật. Có thể nói, VTHK luôn ứng dụng một cách triệt để và thường xuyên
những đổi mới kỹ thuật và công nghệ tiên tiến nhất.
+ Vận tải đường hàng không cung cấp các dịch vụ có tiêu chuẩn chất lượng
cao hơn hẳn so với các phương thức vận tải khác và đơn giản hoá về thủ tục,
giấy tờ do máy bay bay thẳng, ít qua các trạm kiểm tra, kiểm soát,…
 Nhược điểm:
Vận tải hàng không có nhiều ưu điểm so với các phương thức vận tải khác
song cũng không tránh khỏi những mặt hạn chế nhất định:
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
7
+ Cước vận tải hàng không cao nhất, do chi phí trang thiết bị hiện đại, chi
phí sân bay, chi phí khấu hao máy bay, chi phí dịch vụ khác rất cao. Nếu so sánh
cước vận chuyển 1Kg hàng hoá trên cùng một tuyến đường từ Nhật Bản đến
Luân Đôn, thì cước phí bằng máy bay mất 5,5USD, trong khi đó bằng tàu biển
chỉ mất 0,7 USD. So sánh với cước phí vận tải đường sắt và ô tô thì cước phí vận
tải đường hàng không vẫn cao gấp từ 2 đến 4 lần. Do giá cước cao nên vận tải
hàng không bị hạn chế đối với việc vận chuyển những mặt hàng có trị giá thấp,
nguyên liệu, sản phẩm nông nghiệp do cước phí chiếm một tỷ lệ quá lớn trong
giá hàng ở nơi đến làm cho giá hàng quá cao, không có sức cạnh tranh. Vận tải
hàng không chỉ thích hợp với việc vận chuyển những mặt hàng có giá trị cao,
hàng cứu trợ khẩn cấp, hàng đòi hỏi giao ngay,…
+ Vận tải đường hàng không bị hạn chế đối với việc chuyên chở hàng hoá
có khối lượng lớn, hàng hóa cồng kềnh, do máy bay có trọng tải và dung tích
không lớn.
+ Vận tải đường hàng không đòi hỏi đầu tư lớn về cơ sở vật chất kỹ thuật,
phương tiện máy bay, sân bay, đào tạo nhân lực, xây dựng hệ thống kiểm soát
không lưu, đặt chỗ toàn cầu, chi phí tham gia các Tổ chức quốc tế về hàng
không…
3. Vị trí của vận tải hàng không
Hiện nay, xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế thế giới, phân công lao
động quốc tế cùng với việc bùng nổ của TMQT trên phạm vi toàn cầu dẫn tới
giao lưu hàng hoá giữa các nước ngày càng tăng. Vận tải hàng không tuy ra đời
muộn nhưng nhanh chóng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng đối với nền kinh
tế thế giới nói chung và buôn bán quốc tế nói riêng.
Tuy chỉ chuyên chở khoảng 1% tổng khối lượng hàng hoá trong buôn bán
quốc tế nhưng lại chiếm khoảng 20% trị giá hàng hoá trong mua bán quốc tế.
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
8
Đối với các nước phát triển, vận tải hàng không chỉ chuyên chở một khối lượng
hàng hoá nhỏ hơn 1% nhưng lại chiếm khoảng 30% trị giá. Điều này chứng tỏ
vận tải hàng không có vai trò rất lớn đối với việc vận chuyển hàng hoá đặc biệt
là hàng hoá có giá trị cao
Với ưu thế tuyệt đối về tốc độ so với các phương tiện vận tải khác, vận tải
hàng không chiếm vị trí số 1 trong chuyên trở hàng hoá cần giao khẩn cấp, hàng
giao ngay như: hàng mau hỏng, hàng cứu trợ khẩn cấp, súc vật sống và các loại
hàng nhạy cảm với thời gian,…
Vận tải hàng không chiếm vị trí quan trọng trong giao lưu kinh tế giữa
các nước, là cầu nối giữa các nền văn hoá của các dân tộc, là phương tiện chính
trong du lịch quốc tế.
Vận tải đường hàng không là mắt xích quan trọng để liên kết các phương
thức vận tải, tạo ra khả năng kết hợp các phương thức vận tải nhằm khai thác tối
đa lợi thế của các phương thức vân tải.
4. Cơ sở vật chất kỹ thuật của vận tải hàng không

Cảng hàng không (Airport)
Theo ICAO, cảng hàng không là toàn bộ diện tích trên mặt đất, thậm chí
cả mặt nước cộng với toàn bộ các cơ sở hạ tầng gồm một hay nhiều đường cất hạ
cánh, các toà nhà, nhà ga, kho tàng liên quan đến sự di chuyển của hành khách
và hàng hoá do máy bay chuyên chở đến cũng như sự di chuyển của máy bay.
Như vậy, cảng hàng không là nơi đỗ cũng như cất hạ cánh của máy bay và
là nơi cung cấp cơ sở vật chất cũng như các dịch vụ cho hành khách và hàng hoá.
Cảng hàng không gồm một số khu vực chính như: đường cất hạ cánh, khu vực
đỗ và cất giữ máy bay, khu vực điều khiển bay, khu vực quản lý hành chính, khu
vực chờ đưa đón khách, khu vực kho hàng và các trạm giao nhận hàng hoá, nơi
bảo dưỡng máy bay, nơi chứa nhiên liệu, và các khu vực dịch vụ khác,…
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
9
Khu vực giao nhận hàng hoá thường gồm:
Trạm giao nhận hàng hoá xuất khẩu: là nơi tiến hành kiểm tra hàng hoá,
làm thủ tục thông quan, lập chứng từ về hàng hoá, giao hàng hoá xuất khẩu,
đóng hàng hoá vào các công cụ vận tải, xếp hàng lên máy bay, lưu kho trước khi
xếp lên máy bay,…
Trạm giao nhận hàng nhập khẩu: là nơi làm thủ tục thông quan, kiểm tra
và giao hàng cho người nhận hàng,…
Trạm giao hàng chuyển tải: là nơi tập trung hàng hoá chuyển tải, nơi tiến
hành các thủ tục để giao cho các hãng hàng không chuyển tiếp… Người kinh
doanh dịch vụ ở đây thường là các hãng hàng không thành viên của IATA làm
đại lý cho nhau.

Máy bay (Aircraft/Airplane)
Máy bay là cơ sở vật chất chủ yếu của vận tải đường hàng không. Tuỳ
thuộc vào mục đích, tình năng kỹ thuật, nước sản xuất, máy bay được chia thành
nhiều loại khác nhau.
Căn cứ vào đối tượng chuyên chở có:
Máy bay chở khách (passenger aircraft): là máy bay dùng chủ yếu để
chuyên chở hành khách, đồng thời có thể chuyên chở một lượng ít hàng hoá và
hành lý của hành khách ở boong dưới. Loại này thường có tần suất bay rất cao và
có tiện nghi tốt để phục vụ hành khách.
Máy bay chở hàng (all cargo aircraft): là máy bay chủ yếu dùng để
chuyên chở hàng hoá. Loại máy bay này có ưu điểm là chở được khối lượng
hàng hoá lớn và chủng loại hàng hoá chuyên chở cũng đa dạng hơn so với máy
bay chở khách. Tuy nhiên, loại máy bay này có nhược điểm là tần suất bay thấp
hơn, chi phí hoạt động nhiều, chỉ thích hợp với các hãng hàng không có tiềm
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
10
năng lớn và kinh doanh ở những khu vực có luồng hàng luân chuyển lớn và ổn
định.
Máy bay hỗn hợp (combine aircraft): là loại máy bay vừa chuyên chở
hành khách vừa chuyên chở hàng hoá ở cả boong chính và boong dưới. Loại máy
bay này còn gọi là máy bay thay đổi nhanh tuỳ theo số lượng hành khách hoặc
hàng hoá cần chuyên chở.
Căn cứ vào động cơ có: Máy bay động cơ piston, động cơ tua bin cánh
quạt, động cơ tua bin phản lực,… Những máy bay hiện đại ngày nay đều sử dụng
động cơ phản lực.
Căn cứ vào nước sản xuất máy bay chủ yếu có: Máy bay do Mỹ, Nga,
Pháp, Hà Lan… sản xuất. Trên thị trường máy bay dân dụng trên thế giới, máy
bay của Mỹ chiếm khoảng 64%, riêng Boeing đã chiếm 62% thị trường máy bay
trên thế giới, Châu Âu chiếm khoảng 34%.
Căn cứ vào số ghế trên máy bay có: Máy bay loại nhỏ (từ 50 đến dưới
100 ghế), máy bay loại trung bình (từ 100 ghế đến dưới 200 ghế), máy bay loại
lớn (từ 200 ghế trở lên). Đối với loại máy bay chở hàng hoá, người ta có thể căn
cứ vào số ghế quy đổi thành tấn hàng hoá mà máy bay có thể chuyên chở được.

Các thiết bị xếp dỡ và vận chuyển hàng hoá
Hiệu quả của VTHK phụ thuộc rất nhiều vào trang thiết bị của sân bay và
đây cũng là một trong những yếu tố để các chủ hàng lựa chọn khi gửi hàng. Các
sân bay khác nhau có các trang thiết bị phục vụ xếp dỡ hàng hoá cũng khác nhau,
nó phụ thuộc vào sân bay và các luồng hàng đến sân bay. Các thiết bị xếp dỡ tại
sân bay gồm hai loại chính là các thiết bị xếp dỡ hàng hoá lên xuống máy bay và
các thiết bị vận chuyển hàng hoá từ và tới máy bay.
Các loại thiết bị chủ yếu bao gồm:
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
11
Xe vận chuyển container/pallet trong sân bay (container/pallet
transporter): dùng để vận chuyển container và pallet từ và tới máy bay; vận
chuyển container/pallet trong nội bộ sân bay.
Xe nâng (forklift truck): dùng để nâng container/pallet lên xe vận chuyển
container/pallet hay lên thiết bị nâng, hạ container lên xuống máy bay khi xếp dỡ hàng.
Thiết bị nâng container/pallet (high loader): dùng để xếp dỡ container hay
pallet lên hay ra khỏi máy bay, sau đó chuyển sang xe vận chuyển
container/pallet hay sang forklift truck để vận chuyển về kho hay nơi tập kết
hàng trong khu vực sân bay.
Băng truyền hàng rời (self propelled conveyor): dùng để chuyển hàng rời
lên hay xuống máy bay.
Dooly: là giá đỡ hay rơ moóc, dùng để đặt container hay pallet lên trên và
dùng đầu xe kéo để di chuyển container hay pallet trong sân bay.
Các thiết bị xếp hàng theo đơn vị (unit load device): Là các công cụ hay
thiết bị dùng để ghép các kiện hàng nhỏ hay các kiện hàng riêng biệt thành các
kiện hàng lớn theo tiêu chuẩn nhất định phù hợp với cấu trúc của các khoang
chứa hàng trên máy bay. Gồm có:
Pallet: là một bục phẳng có kích thước tiêu chuẩn dùng để tập hợp hàng
hoá trên đó nhằm thuận lợi cho việc xếp dỡ, bảo quản trong suốt quá trình
chuyên chở. Theo bảng xếp hạng của IATA và Tạp chí Boing 1994, pallet gồm
những loại: pallet máy bay (aircraft pallet), pallet không chuyên dụng cho máy
bay (non aircraft pallet), Igloo.
Container máy bay (aircraft container): là loại container được chế tạo để
chuyên chở hàng hoá bằng máy bay. Các container này có bề ngoài phù hợp với
vỏ máy bay và hệ thống ngăn giữ xếp dỡ hàng hoá của máy bay và sân bay. Gồm
hai loại chính:
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
12
+ Container theo tiêu chuẩn của IATA: là những container sản xuất
chuyên dùng để chở hàng hoá bằng máy bay, không thích hợp với chuyên chở
hàng hoá bằng các công cụ vận tải khác như ô tô, tàu biển.
+ Container đa phương thức (intermodal container): loại container này
không chỉ dùng cho chuyên chở hàng hóa bằng máy bay, nó có thể dùng cho cả
vận tải thuỷ, bộ. Đối với máy bay, loại này được chuyên chở trên boong chính.
II.
Quá trình phát triển của vận tải đƣờng hàng không quốc tế
1. Lịch sử phát triển của vận tải đƣờng hàng không quốc tế
So với các phương thức vận tải khác, vận tải đường hàng không là một
ngành vân tải còn non trẻ. Nếu vận tải đường biển đã hình thành và phát triển từ
thế kỷ thứ V trước Công nguyên,thì vận tải đường hàng không mới chỉ ra đời và
phát triển từ những năm đầu của thế kỷ XX.
Người đầu tiên có công đặt nền móng cho việc nghiên cứu chế tạo máy bay
là Hoạ sĩ, Nhà vật ký thiên tài Leonardo Devinci (1452 – 1519). Ông đã có công
nghiên cứu về chuyển động bay của chim. Dựa trên nguyên tắc đó, ông đã thiết
kế ra cánh máy bay. Kỷ nguyên hàng không hiện đại bắt đầu khi người đầu tiên
đã bay lên không trung bằng một khí cầu nóng vào ngày 21/11/1783, do anh em
nhà Montgolfier thiết kế, kể từ đó các chuyến bay bằng khí cầu ngày càng tăng
đáng kể cả về số lượng chuyến bay và khoảng cách bay trong suốt thế kỷ 19 và
vẫn tiếp tục cho đến hiện tại.
Năm 1809 ở Anh, George Caylay đã đưa ra thiết kế cánh máy bay. Năm
1843 – 1848 Henson và String Fellow (Anh) đã sáng chế và cho bay thử mẫu
máy bay một lớp cánh quạt không người lái và thí nghiệm trong một nhà máy
kín, chạy bằng hai cánh quạt và động cơ hơi nước. Nó bay được khoảng 40m.
Năm 1852-1855, Herni Giffard (Pháp) sáng chế ra khinh khí cầu điều khiển được
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
13
hướng bay và sử dụng động cơ 3 HP, bay cao được 183m. Năm 1852, Francois
Letur chế tạo ra dù điều khiển được.
Năm 1868 tại Pháp, Le Bois sáng chế ra tàu lượn đầu tiên, có thể bay lên
cao tới 91m trong vài phút. Năm 1891-1896 tại Đức, Otto Lilin Thal sáng chế ra
chiếc tàu có thể vừa bay vừa lượn bằng tre, mây, và bìa giấy tạo ra tiền đề dẫn
tới thành công trong chuyến bay thử nghiệm trên bầu trời. Năm 1896, Langlay,
Giáo sư Đại học Washington chế tạo ra máy bay dùng động cơ hơi nước. Năm
1897 tại Đức, Wolfert sáng chế ra khinh khí cầu chạy bằng động cơ xăng, điều
khiển được. Sau đó, ông cũng chết vì tai nạn trong khi bay thử nghiệm. Năm
1900 tại Đức, Zepplin đã chế tạo ra khí cầu có 2 động cơ xăng 15 HP, vỏ bằng
nhôm cứng gọi là Z1. Năm 1906, Z1 được cải tiến thành Z4, sử dụng 2 động cơ
xăng 85 HP. Trong thời gian 1911-1913, các khinh khí cầu đã chuyên chở được
19.109 hành khách.
Năm 1903, Anh em nhà Wright đã chế tạo được máy bay 2 tầng cánh gỗ,
động cơ xăng, 12 HP. Hai anh em Wright được coi là những người đầu tiên trong
lịch sử chế tạo ra động cơ bay ngày nay chúng ta gọi là máy bay.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1919) đã thúc đẩy sự phát triển của
ngành hàng không để phục vụ nhu cầu vận tải quân sự. Ngành hàng không đã
bắt đầu phát triển nhanh và đạt được nhiều thành tựu về thời gian, khoảng cách,
độ cao, tốc độ và an toàn trong khi bay.
Sự tiến bộ lớn của khoa học công nghệ đã mở rộng sự phát triển của lĩnh
vực hàng không trong suốt những năm 1920-1930. Năm 1927 tại Mỹ, Charles
Linberght đã bay trên máy bay cánh quạt loại động cơ 22 HP vượt Đại Tây
Dương hết 33,5 giờ. Một trong số những thiết kế máy bay thành công nhất của
thời kỳ giữa 2 cuộc đại chiến là Douglas DC-3, nó đã trở thành máy bay dân
dụng loại lớn đầu tiên mang lại lợi nhuận chỉ bằng hình thức vận chuyển hành
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
14
khách. Do sự bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ II, nhiều thành phố và đô thị
lớn đã xây dựng các sân bay, và có nhiều phi công đủ trình độ đã gia nhập quân
đội để lái máy bay chiến đấu. Chiến tranh đã mang lại nhiều sự cách tân cho
hàng không, bao gồm những máy bay phản lực đầu tiên và tên lửa nhiên liệu
lỏng. Năm 1944 nước Đức đã chế tạo thành công máy bay quân sự phản lực Me
262A.
Giai đoạn 1936-1945, do sự bức bách của nhu cầu chiến tranh, vận tải
đường hàng không đã phát triển mạnh. Tuy nhiên, trong thời gian này, vận tải
đường hàng không chỉ phục vụ chuyên chở thư tín và nhu cầu quân sự.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, vận tải đường hàng không có những
bước tiến lớn do những thành tự khoa học kỹ thuật mang lại. Ngành hàng không
thế giới phải chịu ơn Sir Frank Whittle rất nhiều vì ông có công sáng chế loại
động cơ phản lực. Thiết bị này đã làm nên một cuộc cách mạng trong vận
chuyển hành khách bằng đường không, mở đầu thời kỳ đưa máy bay đến gần với
công chúng hơn. Những chiếc máy bay dân dụng loại lớn dùng động cơ phản lực
khoẻ và nhanh có thể chở được hàng trăm hành khách và khối lượng hàng hoá
lớn trên mỗi chuyến bay. Khả năng này đã mở đường cho một ngành công
nghiệp mới. Vận tải đường hàng không bắt đầu chuyển sang các mục đích dân
sự. Cũng từ đây, cuộc cạnh tranh kiểm soát không lưu trong vận tải đường hàng
không ngày càng gay gắt. Đây chính là tiền đề cho ngành vận tải hàng không dân
dụng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu trong giai đoạn tiếp theo.
2. Vận tải đƣờng hàng không quốc tế từ năm 1945 tới nay
Trong khoảng thời gian từ năm 1945 tới nay, VTHK đã phát triển một cách
nhanh chóng, điều đó được thể hiện qua một số mặt dưới đây:

Sự đổi mới và áp dụng công nghệ mới để sản xuất, chế tạo, điều khiển máy bay:
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
15
Động cơ máy bay được cải tiến ngày càng hiện đại, có sức đẩy lớn. Đầu
tiên là động cơ piston, sau đó là động cơ tua bin cánh quạt và ngày nay là tua bin
phản lực…
Vật liệu chế tạo máy bay cũng thay đổi. Ngày nay, người ta dùng
composit để chế tạo khung máy bay, vừa nhẹ, vừa bền hơn nhiều lần so với các
vật liệu truyền thống là gỗ, nhôm, sắt. Điều này cho phép giảm được trọng lượng
của máy bay, tăng sức chở hàng hoá và tăng số ghế hành khách chuyên chở…
Máy tính điện tử và công nghệ thông tin hiện đại được áp dụng trong
điều khiển bay trên không và cả mặt đất. Nhờ áp dụng công nghệ tiên tiến, vật
liệu mới nên máy bay-công cụ chính của vận tải đường hàng không-bền hơn, có
sức chứa lớn hơn, tốc độ cao hơn và an toàn hơn. Đây là yếu tố rất quan trọng và
là cơ sở cho sự phát triển nhanh chóng của vận tải đường hàng không trên thế
giới.

Đối tượng chuyên chở đa dạng và khối lượng vận tải ngày càng tăng lên:
Những năm trước chiến tranh thế giới lần thứ II, vận tải đường hàng
không chủ yếu phục vụ nhu cầu vận tải quân sự. Sau chiến tranh, sự phát triển
của vận tải đường hàng không vẫn không xa rời mục tiêu quân sự, song vận tải
đường hàng không chuyển sang mục tiêu chính là vận chuyển hành khách và
hàng hoá.
Trong những năm qua, vận tải đường hàng không thế giới đã phát triển
rất mau chóng. Từ năm 1960 đến nay, ngành hàng không dân dụng thế giới đã
tăng 20 lần tính theo Tấn-Km thực hiện, trong khi đó tổng sản phẩm quốc nội
của thế giới chỉ tăng 3,7%. Các hãng hàng không châu Á – Thái Bình Dương có
mức tăng trưởng cao nhất so với các khu vực khác của thế giới với tốc độ tăng
trưởng hàng năm trung bình 8,5% đối với hành khách và 10% đối với hàng hoá
và dự báo vẫn tiếp tục tăng trưởng ở mức cao nhất trong những năm đầu của thế
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
16
kỷ XXI. Năm 1945, mới có 9 triệu hành khách đi lại trên các chuyến bay thương
mại, chỉ chiếm 0,5% dân số thế giới lúc bấy giờ. Năm 1987, ngành vận tải hàng
không dân dụng quốc tế lần đầu tiên đạt tới con số 1 tỷ lượt hành khách/năm.
Năm 1994, số hành khách đi lại bằng máy bay dân dụng đạt 1,3 tỷ người chiếm
khoảng 25% dân số thế giới.
Trong hơn 50 năm qua, ngành hàng không dân dụng quốc tế đã chuyên
chở được 25 tỷ lượt người, 36.000 tỷ hành khách-Km và 350 triêu tấn hàng hoá.
Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của ngành hàng không dân dụng thế
giới là 10,5% tính từ năm 1945 đến nay
Đối tượng vận chuyển trong vận tải đường hàng không quốc tế cũng ngày
càng đa dạng. Những năm trước đây, do chi phí vận tải đường hàng không quá
cao, vì thế vận tải đường hàng không chủ yếu phục vụ những hành khách công
vụ, vận chuyển thư tín và những loại hàng hoá có giá trị cao. Ngày nay, đối
tượng vận chuyển của vận tải đường hàng không gồm hành khách, hàng hoá
thông thường, thậm chí hơn 40% hàng hoá của Mỹ có giá trị từ 0 đến 16 USD/1
Kg được vận chuyển bằng máy bay.

Số lượng máy bay, sân bay và các hãng hàng không tăng lên nhanh chóng
Do nhu cầu chuyên chở hành khách và hàng hoá ngày càng tăng, nên số
lượng máy bay vận tải cũng ngày càng tăng lên. Từ chỗ cải tạo máy bay quân sự
để chuyên chở hành khách và hàng hoá, thì nay máy bay được đóng mới nhiều
và ngày càng hiện đại, sức chở lớn và phù hợp với nhu cầu đa dạng của chuyên
chở hành khách và hàng hoá.
Theo Outlook-Boeing 1995, hiện nay trên thế giới có khoảng 360 hãng
hàng không, 6.000 sân bay. Số lượng máy bay khai thác hàng năm khoảng
11.500 chiếc. Hàng năm ngành hàng không dân dụng thế giới có doanh thu 700
tỷ USD và tạo công ăn việc làm cho khoảng 31 triệu người. Sự phát triển của vận
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
17
tải đường hàng không quốc tế đã dẫn đến sự ra đời của các Tổ chức quốc tế về
vận tải hàng không như ICAO, IATA,… cũng như các Công ước, Hiệp định,
Nghị định thư về vân tải đường hàng không quốc tế.
3. Những nét đặc trƣng của vận tải đƣờng hàng không quốc tế
Vận tải đường hàng không quốc tế có những nét đặc trưng so với các ngành
vận tải khác:
3.1. Vận tải đường hàng không quốc tế mang tính quốc tế cao
Do vận tải đường hàng không có tốc độ cao nên các quy định về thủ tục
giấy tờ, ngôn ngữ có liên quan đến hoạt động hàng không ở những nước khác
nhau thường tương tự như nhau và thống nhất trên phạm vi toàn cầu. Thực tế,
hầu hết các nước có ngành hàng không dân dụng đều thừa nhận hay áp dụng các
Quy tắc, Công ước quốc tế và những quy định của Hiệp hội vận tải hàng không
quốc tế (IATA).
3.2. Vận tải đường hàng không quốc tế là ngành kinh doanh tổng hợp
Vận tải đường hàng không quốc tế là một ngành đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn
về máy bay, sân bay, điều khiển bay và hàng loạt các dịch vụ hỗ trợ khác. Mặt
khác, thời gian thu hồi vốn thường rất dài, do đó lợi nhuận trực tiếp từ vận tải
đường hàng không thường rất thấp, thậm chí các hãng hàng không thuộc IATA
còn chịu thua lỗ kéo dài. Các hãng hàng không quốc tế không mong đợi lợi
nhuận cao trực tiếp từ việc chuyên chở hành khách và hàng hoá, mà họ thương
thu lợi nhuận từ nhiều nguồn kinh doanh khác như: dịch vụ khách sạn, du lịch,
dịch vụ kho hàng và các dịch vụ trên mặt đất để bù đắp. Vì vậy ngoài đầu tư vào
lĩnh vực vận chuyển, các hãng hàng không quốc tế còn đầu tư vào nhiều lĩnh vực
kinh doanh khác có liên quan hoặc tham gia vào nhiều liên doanh, liên kết khác.
Lợi nhuận thu được từ những lĩnh vực kinh doanh khác chính là nguồn vốn hỗ
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
18
trợ để ngành vận tải đường hàng không quốc tế bù đắp chi phí phát triển việc
chuyên chở hành khách và hàng hoá.
3.3. Vận tải hàng không có tốc độ tăng trưởng cao
Tốc độ tăng trưởng của ngành hàng không so với đa số các ngành khác là
tương đối cao, mức tăng trưởng trung bình hàng năm của các hãng hàng không
khai thác thường lệ là 14% trong giai đoạn 15 năm từ 1955-1969. Mức tăng
trưởng này đã giảm xuống dưới 10% từ năm 1970 và trong 10 năm tiếp theo đó
thì chỉ còn 8%. Tuy nhiên, đây vẫn là mức tăng trưởng cao hơn so với các ngành
khác. Trong các châu lục và khu vực trên thế giới thì khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương là khu vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất. Sự lớn mạnh của các
hãng hàng không thuộc khu vực này đã làm thay đổi hoàn toàn cơ cấu của ngành
HKQT. Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương sẽ chiếm hơn 1/2 việc kinh doanh của hàng không thế giới vào năm
2010.
3.4. Vận tải hàng không là ngành có lợi nhuận thấp
Vận tải hàng không là ngành đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn về máy bay, sân bay,
điều khiển bay, và hàng loạt các dịch vụ hỗ trợ khác. Tuy nhiên, vận tải hàng
không lại là ngành có tốc độ đổi mới công nghệ rất cao, ứng dụng tất cả các
thành tựu khoa học công nghệ mới nhất trên thế giới. Yêu cầu liên tục thay đổi,
bổ sung trang thiết bị hiện đại, công nghệ mới với số vốn lớn gây ra áp lực lớn
về mặt tài chính, vốn đối với các hãng hàng không. Mặt khác thời gian thu hồi
vốn của ngành hàng không thường rất dài, thậm chí là các hãng hàng không
thuộc Hiệp hội vận tải hàng không quốc tê (IATA) còn phải chấp nhận chịu thua
lỗ kéo dài. Đặc biệt, sự kiện ngày 11/9/2001, và ảnh hưởng của dịch SARS đã
khiến hàng không thế giới lao đao trong một thời gian dài, chỉ bắt đầu hồi phục
vào cuối năm 2004 : trong năm 2001-2004 các công ty hàng không thế giới thua
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
19
lỗ 36 tỷ USD, năm 2005 con số này là 6 tỷ USD, năm 2006 là 4 tỷ và có thể kéo
dài tới năm 2007.
3.5. Vận tải đường hàng không có xu hướng tự do hoá toàn cầu
Với tốc độ phát triển nhanh chóng của vận tải đường hàng không thế giới,
với số lượng hành khách vận chuyển hàng năm khoảng 1,5 tỷ người, với khối
lượng hàng hoá gần 30 triệu tấn hàng/năm và khai thác khoảng trên 10.000 máy
bay/năm thì rõ ràng ngành hàng không dân dụng quốc tế cần một sân chơi rộng
hơn, lớn hơn và một cơ chế quản lý thích hợp hơn, tức là cần sự tự do hoá hay cơ
chế phi điều tiết đối với ngành vận tải hàng không dân dụng.
Phi điều tiết, tự do hoá bầu trời là xu thế tất yếu đối với ngành hàng không
dân dụng quốc tế để tiến tới toàn cầu hoá. Nó là cơ hội, đồng thời cũng là thách
thức to lớn đối với các hãng hàng không của từng nước.
3.6. Xu hướng liên minh toàn cầu ngày càng rõ rệt
Trong quá trình thực hiện chính sách tự do hoá bầu trời, các hãng hàng
không lớn đã áp dụng các biện pháp khai thác khác nhau nhằm ngày càng mở
rộng mạng bay của mình trên thị trường vận tải đường hàng không quốc tế. Một
hãng hàng không hoạt động trên thị trường quốc tế có thể trực tiếp khai thác tất
cả các đường bay quốc tế mình được phép khai thác hoặc gián tiếp mở rộng
mạng bay thông qua các thoả thuận hợp tác thương mại với các hãng hàng không
nước ngoài. Để xây dựng một mạng bay toàn cầu nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải
khắp thế giới trong điều kiện chưa có tự do hoá hoàn toàn như hiện nay, một
hãng hàng không không thể cung cấp dịch vụ vận tải trên toàn mạng được, vì họ
có thể chưa được phép bay đến tất cả các điểm trên thế giới. Thêm vào đó, một
hãng hàng không dù lớn tới đâu cũng thường không đủ khả năng tài chính để
khai thác một mạng bay toàn cầu, cũng như để duy trì hoạt động của nhiều sân
bay trung chuyển ở nước ngoài có hiệu quả được. Do vậy, chỉ có thông qua liên
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
20
minh toàn cầu mới cho phép một hãng hàng không mở rộng đường bay mà
không cần đầu tư vốn một cách tương ứng, trái lại vẫn tận dụng được các cơ hội
để khai thác thị trường và tăng năng lực cạnh tranh.
4. Các tổ chức vận tải đƣờng hàng không quốc tế
4.1. Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế – ICAO
Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (International Civil Aviation
Orgaization – ICAO) là tổ chức cấp Chính phủ, được thành lập năm 1947 trên cơ
sở Công ước về hàng không dân dụng quốc tế.
Mục đích của ICAO là phát triển các nguyên tắc của ngành vận tải hàng
không quốc tế nhằm: Đảm bảo phát triển vận tải hàng không quốc tế an toàn và
có trật tự trên phạm vi toàn thế giới; Khuyến khích nghệ thuật chế tạo và khai
thác máy bay nhằm phục vụ mục đích hoà bình; Khuyến khích sự phát triển các
đường hàng không, các cảng hàng không và các thiết bị không vận cho hàng
không dân dụng quốc tế; đáp ứng các nhu cầu của nhân dân trên thế giới về vận
tải hàng không an toàn, điều hoà, hiệu quả và kinh tế; ngăn ngừa sự lãng phí do
cạnh tranh bất hợp lý; đảm bảo tôn trọng và toàn vẹn các quyền của các quốc gia
ký kết và mỗi quốc gia ký kết có cơ hội công bằng để khai thác các hãng hàng
không quốc tế; đẩy mạnh sự phát triển chung của ngành khoa học hàng không
trên mọi khía cạnh.
4.2. Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế – IATA
Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế – IATA (International Air Transport
Association) là một tổ chức phi chính phủ, thành lập năm 1945 tại Lahabana,
Cuba. Trụ sở chính tại Montreal, Canada. Thành viên của IATA gồm hai loại:
thành viên chính thức và thành viên liên kết.
Thành viên chính thức gồm các hãng hàng không quốc tế, kinh doanh
theo lịch. Thành viên liên kết là các hãng hàng không nội địa, kinh doanh theo
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
21
lịch. Thành viên liên kết không được quyền biểu quyết tại các Hội nghị hay các
diễn đàn của IATA.
Mục đích của IATA là: phát triển vận tải hàng không một cách đều đặn,
an toàn và hiệu quả vì lợi ích của tất cả mọi người trên trái đất; góp phần phát
triển thương mại bằng đường hàng không; góp phần thúc đẩy mối quan hệ tác
động qua lại giữa các xí nghiệp vận tải đường không, trực tiếp hoặc gián tiếp liên
quan đến vận tải đường không quốc tế; hợp tác chặt chẽ với ICAO và các tổ
chức quốc tế khác.
4.3. Hiệp hội các hãng hàng không Châu Á Thái Bình Dương – AAPA
Hiệp hội các hãng hàng không Châu Á Thái Bình Dương – AAPA (Asso
ciation of Asia Pacific Airlines) được thành lập năm 1965 tại Manila. Phillipines
bởi lãnh đạo của 6 hãng hàng không Châu Á. Ban đầu hiệp hội có tên gọi là Văn
phòng nghiên cứu của các hãng hàng không Phương Đông như một tổ chức độc
lập của các hãng hàng không từ múi giờ GMT+7 đến GMT+10
Đầu năm 1970, văn phòng này được đổi tên thành Hiệp hội các hãng
hàng không Phương Đông (Orient Airlines Association – OAA).
Hội nghị các chủ tịch hãng lần thứ 31, năm 1977 đã mở rộng phạm vi đại
lý của OAA đến GMT+12.
Hội nghị các chủ tịch hãng ngày 29/1/1996 tại Queensland, Australia đã
quyết định đổi tên tổ chức này thành hiệp hội các hãng hàng không Châu á – Thái
Bình Dương, nhưng vẫn giữ nguyên phạm vi địa lý đến GMT+12
Mục đích của AAPA là:
Cung cấp nguồn phân tích có chất lượng cao và có cơ sở thông tin hỗ trợ
các thành viên xem xét và thảo luận các cơ hội hợp tác song phương và đa
phương trong các lĩnh vực marketing, khai thác bay, an toàn không lưu và nhân
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
22
lực nhằm hoàn thiện hiệu quả kinh tế của các thành viên như một tập thể và của
mỗi thành viên nói riêng.
Tạo điều kiện gặp gỡ và cơ cấu uỷ ban cho tất cả các thành viên trao đổi
thông tin, quan điểm về các vấn đề cùng quan tâm. Qua đó cung cấp vấn đề về
chuyển giao công nghệ và kiến thức cho các hãng hàng không nhỏ, kém phát
triển hơn và các hãng hàng không với nhau.
Tạo một khuôn khổ hữu hiệu cho tất cả các thành viên cùng thảo luận các
biện pháp giảm nhẹ ảnh hưởng xấu gây thiệt hại của cạnh tranh không lành
mạnh, giải quyết tác động xấu của các quy định ngặt nghèo trong ngành và của
các chính phủ, đóng vai trò chủ đạo trong việc đưa ra tiếng nói chung của các
hãng Châu Á – Thái Bình Dương trên trường quốc tế vì quyền lợi của các hãng
hàng không Châu Á – Thái Bình Dương mạnh và thịnh vượng.
III.
Một số vấn đề pháp lý liên quan đến chuyên chở hàng hoá
bằng đƣờng hàng không quốc tế
1. Cơ sở pháp lý của vận tải hàng hoá bằng đƣờng hàng không quốc tế
Chuyên chở hàng hóa bằng đường hàng không quốc tế được điều chỉnh
bằng các công ước, Quy tắc, Nghị định thư về vận tải hàng không quốc tế.
Công ước Vác-xa-va 1929
“Công ước để thống nhất một số quy tắc liên quan tới vận tải hàng không
quốc tế” (The Convention for the Unification of Certain Rules Relating to
International Transport By Air), được ký kết tại Vác-xa-va năm 1929, gọi tắt là
“Công ước Vác-xa-va 1929”. Đây là một Công ước quốc tế chủ yếu về vận tải
hàng không quốc tế.
“Công ước Vác-xa-va 1929” gồm 5 chương với 41 điều khoản khác nhau.
Chương I gồm các khái niệm và phạm vi áp dụng của Công ước; Chương II gồm
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
23
những nội dung liên quan đến chứng từ vận chuyển, vé hành khách, hành lý và
phiếu gửi hàng; Chương III gồm những nội dung liên quan đến trách nhiệm của
người chuyên chở; Chương IV gồm những quy định liên quan đến chuyên chở
hỗn hợp; Chương V gồm những quy định chung về tham gia Công ước, bãi bỏ
Công ước.
Tuy nhiên, để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và sự
phát triển của vận tải hàng không nói riêng, Công ước đã được bổ sung, sửa đổi
nhiều lần. Những công ước, nghị định thư sửa đổi chủ yếu là:
Nghị định thư sửa đổi Công ước Vác-xa-va 1929
Nghị định thư sửa đổi Công ước để thống nhất quy tắc liên quan tới vận
tải hàng không quốc tế (Ptotocol to Amend the Convention for the Unification of
Certain Rules Relating to the International Transport by Air) ký tại Hague ngày
28/9/1955 nên gọi tắt là nghị định thư Hague 1955.
Công ước để bổ sung Công ước Vác-xa-va để thống nhất một số quy tắc
liên quan đến vận tải hàng không quốc tế được thực hiện bởi một người khác
không phải là người chuyên chở theo hợp đồng ( The Convention Supplementary
to the Warsawa Convention for the Unification of Certain Rules Relating to the
International Transport by Air Performed by a Person Other than the Contracting
Carrier) được ký kết tại Guadalajara ngày 18/9/1996, nên gọi tắt là Công ước
Guadalajara 1961.
Nghị định thư liên quan tới gia hạn Công ước Vác-xa-va và Nghị định
thư Hague (Agreement Relating to Liability Limitation of Warsaw Convention
and the Hague Protocol). Hiệp định này được thông qua tại Montrea ngày
13/5/1966, nên gọi tắt là Hiệp định Montreal năm 1966.
Nghị định thư sửa đổi Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc
liên quan tới vận tải hàng không quốc tế ký tại Vác-xa-va ngày 12/10/1929 được
Các giải pháp phát triển vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
hàng không của Vietnam Airlines
Thẩm Thuý Hà
Anh 1 – K42A – KT&KDQT
24
sửa đổi bởi Nghị định thư Hague ngày 28/9/1955 (The protocol to Amend the
Convention for the Unification of Certain Rules Relating to the International
Transport by Air Signed at Warsawa on 12 Octorber 1929 as Amended by the
Protocol done at the Hague on 28 Septtmber 1955). Nghị định thư này được ký
kết tại thành phố Guatemala ngày 8/3/1971, nên được gọi tắt là Nghị định thư
Guatemala 1971.
Nghị định thư bổ sung số 1:
Nghị định thư sửa đổi Công ước Vác-xa-va 1929 (Ptotocol to Amend the
Convention for the Unification of Certain Rules Relating to International
Transport By Air at Warsawa on 12 Octotber 1929). Nghị định thư này được ký
kết tại thành phố Montreal ngày 25/9/1975, nên gọi tắt là Nghị định thư Montreal
1975 só 1.
Nghị định thư bổ sung số 2
Nghị định thư sửa đổi Công ước Vác-xa-va 1929 được sửa đổi bằng Nghị
định thư Hague 1955 (Ptotocol to Amend the Convention for the Unification of
Certain Rules Relating to International Transport By Air at Warsawa on 12
Octotber 1929). Nghị định thư này được ký kết tại thành phố Montreal ngày
25/9/1975, nên gọi tắt là Nghị định thư Montreal 1975 số 2.
Nghị định thư bổ sung số 3:
Nghị định thư sửa đổi Công ước Vác-xa-va 1929 đã được sửa đổi bởi các
Nghị định thư Hague ngày 28/9/1955 và tại thành phố Guatemala ngày 8/3/1971
(Ptotocol to Amend the Convention for the Unification of Certain Rules Relating
to International Transport By Air at Warsawa on 12 Octotber 1929 Amended by
the Protocol done at the Hague on 28 September 1955 and at Guatemala City on
March 1971). Nghị định thư này được ký kết tại thành phố Montreal ngày
25/9/1975, nên gọi tắt là Nghị định thư Montreal 1975 số 3.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *