BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
ĐỖ THANH XUÂN
SO SÁNH MỘT SỐ KHÁI NIỆM TRONG
TÂM LÝ HỌC VÀ DUY THỨC HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH – 2010
THƯ
VIỆN
LỜI TRI ÂN
Kính thưa Quý Thầy Cô,
Hôm nay, tôi đã tương đối hoàn thành Luận văn Cao học của mình. Tôi xin được bày tỏ lòng tri
ân đến Quý Thầy Cô đã nhiệt tình hướng dẫn trong suốt thời gian tôi tham dự khoá học. Đặc biệt, tôi
xin được bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS. TS. Trần Tuấn Lộ – ngưòi hướng dẫn khoa học – đã tận
tình hướng dẫn một đề tài mà tôi ấp ủ từ lâu. Chúng tôi cũng không quên gửi lời cảm ơn đến các vị
giáo sư, các giảng viên mà tôi từng đến tham khảo ý kiến.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời kính chúc sức khoẻ và thành công. Một lần nữa, tôi xin được gửi lời
tri ân đến tất cả Quý vị.
Học viên Đỗ Thanh Xuân
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Học viên
ĐỖ THANH XUÂN
1. Lý do chọn đề tài
Trong các trường Phật học, ở nước ta, hiện nay, vừa có dạy Tâm lý học đại cương vừa có dạy
Duy thức học. Nhưng hai môn đó được dạy mà không có sự liên hệ và so sánh với nhau.
Nhiều vị tăng ni hiện nay được đào tạo trong các trường đại học thế tục lẫn các trường Phật
học, do đó, họ được học cả hai môn nói trên. Trong quá trình thuyết pháp ở các cơ sở Phật giáo, nhiều
nhà sư muốn vận dụng cả Tâm lý học lẫn Duy thức học, vì trong đồng bào Phật tử cũng có những
người hiểu biết ít nhiều về Tâm lý học, nên việc thuyết pháp như vậy sẽ càng thuyết phục hơn đối với
những phật tử đó.
Thực tế nêu trên đã thúc đẩy tôi lựa chọn đề tài này (So sánh một số khái niệm trong Tâm lý
học và Duy thức học) để nghiên cứu.
2. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
2.1/ Mục đích nghiên cứu
2.1.1/ Phục vụ cho việc giảng dạy và học tập môn Tâm lý học đại cương và môn Duy thức học
trong các trường Phật học của nước ta hiện nay.
2.2.2/ Phục vụ cho việc thuyết pháp của các nhà sư ở những cơ sở Phật giáo.
2.2.3/ Góp phần phục vụ cho việc nghiên cứu và so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa Tâm
lý học và Duy thức học.
2.2/ Mục tiêu nghiên cứu
Nêu lên được sự giống nhau và sự khác nhau giữa một số khái niệm trong Tâm lý học và trong
Duy thức học liên quan tới nhận thức và ý thức về mặt giải phẫu, sinh lý, khái niệm (định nghĩa, phân
loại, cấu trúc, đặc điểm, thuộc tính, sự hình thành và phát triển, các cấp độ).
Từ đó, có thể kết luận rằng trong Duy thức học, ngoài những khái niệm thuần túy phục vụ cho
tín ngưỡng Phật giáo, còn có những khái niệm phản ánh hiện tượng tâm lý của con người đã được nêu
lên trong Tâm lý học.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1/ Khách thể: tài liệu Tâm lý học và Duy thức học nói về những khái niệm liên quan tới nhận
thức và ý thức.
3.2/ Đối tượng nghiên cứu:
Sự giống nhau và khác nhau trong một số khái niệm nói trên của Tâm lý học và Duy thức học.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1/ Tìm hiểu các khái niệm về tâm lý vừa có trong Duy thức học vừa có trong Tâm lý học và
lựa chọn một số trong số đó để so sánh với nhau theo từng đôi một.
4.2/ Phân tích và so sánh các cặp khái niệm đã lựa chọn để thấy sự giống nhau và sự khác
nhau.
4.3/ Tham khảo ý kiến của một số chuyên gia Tâm lý học và Phật học cũng như của một số
giảng viên Tâm lý học và Duy thức học trong các trường Phật học để hạn chế những sai sót và nâng
cao thêm chất lượng nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1/ Các phương pháp nghiên cứu tài liệu:
5.1.1/ Lựa chọn các tài liệu và các khái niệm để nghiên cứu
5.1.2/ Phân tích từng khái niệm.
5.1.3/ So sánh các cặp khái niệm.
5.1.4/ Tổng hợp sự phân tích và so sánh ở trên để thấy được sự giống nhau và sự khác nhau.
5.2/ Các phương pháp nghiên cứu với chuyên gia:
Tác giả đã phỏng vấn và trao đổi ý kiến với một số chuyên gia Tâm lý học và Duy thức học ở
Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1/ Duy thức học là một hệ thống tư tưởng vừa về triết lý vừa về tâm lý của Phật giáo. Trong
luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến một số thuật ngữ, khái niệm về tâm lý của Duy thức học mà thôi,
không đề cập đến những quan niệm có tính chất tôn giáo – tín ngưỡng và triết học trong Duy thức học
của Phật giáo.
6.2/ Tâm lý học là khoa học và môn học đang được nghiên cứu và giảng dạy trong các trường
đại học và cao đẳng v.v… trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó có Tâm lý học đại cương, Tâm lý
học phát triển, Tâm lý học nhân cách, Tâm lý học xã hội v.v…; riêng môn Tâm lý học đại cương cũng
đang được giảng dạy ở các trường Phật học. Trong luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến một số thuật
ngữ, khái niệm của Tâm lý học tương ứng với một số thuật ngữ, khái niệm về tâm lý của Duy thức học
mà thôi.
6.3/ Những khái niệm mà tác giả của luận văn này nghiên cứu để phân tích và so sánh chỉ là
tám cặp khái niệm tương ứng (mỗi cặp khái niệm gồm một khái niệm của Tâm lý học và một khái niệm
của Duy thức học) sau đây:
Những khái niệm Tâm lý học
Những khái niệm Duy thức học
1
Thị giác
Nhãn thức
2
Thính giác
Nhĩ thức
3
Khứu giác
Tỵ thức
4
Vị giác
Thiệt thức
5
Mạc giác
Thân thức
6
Ý thức
Ý thức
7
Tự ý thức
Mạt-na thức
8
Vô thức
Tàng thức
6.4/ Trong luận văn này, tác giả chỉ so sánh một cách khách quan thuật ngữ và nội hàm của các
khái niệm, mà không đặt vấn đề phê phán đúng hay sai, nhất là về mặt triết học và tôn giáo – tín
ngưỡng.
6.5/ Trong luận văn này, những từ Tâm lý học đều có nghĩa chung là khoa học tâm lý học đang
được nghiên cứu và giảng dạy ở các trường đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân do Bộ Giáo dục
và Đào tạo quản lý. Còn những từ Duy thức học, dù có thể hiểu là Tâm lý học Phật giáo, nhưng không
bao giờ được thay thế bằng từ Tâm lý học để người đọc khỏi hiểu lầm là khoa học tâm lý học đã nói ở
trên.
7. Giả thuyết nghiên cứu
Vì Tâm lý học và Duy thức học đều có nội dung nói về tâm lý con người, nên có thể so sánh
với nhau ngoài những cái riêng khác nhau, có thể có những cái chung gần gũi với nhau, thậm chí giống
nhau trong một số khái niệm và quan niệm.
8. Cái mới của luận văn
-Trên cơ sở phân tích nội hàm của 8 khái niệm tương ứng với nhau giữa Tâm lý học và Duy
thức học, cái mới mà luận văn này đóng góp là sự so sánh 8 cặp khái niệm nói trên để thấy được những
gì là tương đối giống nhau và những gì là khác nhau giữa chúng trong từng cặp.
9. Cấu trúc của luận văn
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Giới hạn nghiên cứu
7. Giả thuyết nghiên cứu
8. Cấu trúc của luận văn
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Lịch sử nghiên cứu những vấn đề và cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài.
1.1/ Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
1.2/ Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài.
Chương 2: Phân tích một số khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học.
2.1/ Phân tích tám khái niệm trong Tâm lý học.
2.2/ Phân tích tám khái niệm trong Duy thức học.
Chương ba: So sánh một số khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học.
3.1/ So sánh “5 loại cảm giác – tri giác” trong Tâm lý học và “5 thức trước” trong Duy thức
học.
3.2/ So sánh “ý thức” trong Tâm lý học và “ý thức” trong Duy thức học.
3.3/ So sánh “tự ý thức” trong Tâm lý học và “mạt-na thức” trong Duy thức học.
3.4/ So sánh “vô thức” trong Tâm lý học và “tàng thức” trong Duy thức học.
C. PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Chương 1: Lịch sử nghiên cứu vấn đề và cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài
1.1/ Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1/ Duy thức học là gì?
Duy thức học (tiếng Phạn là Yogàcàra, tiếng Anh là The theory of mere-consciouness) là một
môn Phật học bao gồm một số bài học (giới Phật giáo gọi là bài tụng hay bài kệ) về thức.
Duy thức học cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do thức phóng chiếu, ngoài thức đang cảm
nhận thì không có gì hiện hữu, không có hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan chỉ là sự trình
hiện vì không có tự thể (vô ngã) và không cố định, không bất biến (vô thường). Thức do vô minh nên
tin vào những gì mà nó tiếp xúc là thật, nhưng kỳ thực, đó là do nó phóng chiếu ra. Thức vì căn cứ vào
sự trình hiện để phân biệt nhị nguyên nên nhầm lẫn có chủ thể và khách thể và vì vậy, chủ thể và khách
thể đều không thật. Nếu sự phân biệt nhị nguyên đó được nhận diện (tức là khi thức (consciousness)
chuyển thành trí (direct cognition) thông qua thiền định), thì tất cả mọi nhầm lẫn về chủ thể và khách
thể chấm dứt, đó là giác ngộ, tức là không bị thức phóng chiếu.
Theo Duy thức học, mọi sự vật, hiện tượng là sự trình hiện. Trong quan niệm này thì trình hiện
là trình hiện cho một chủ thể, không có chủ thể thì không có trình hiện, cũng như không có người mơ
thì không có giấc mơ. Trong vũ trụ, mọi sự vật không có tính chất riêng tư, chúng không đến không đi,
chúng không thật có sinh có diệt, chúng chỉ xuất hiện trong tương quan với mọi sự xung quanh và với
người đang tương tác với chúng. Vì thế giới là một sự trình hiện, một dạng xuất hiện dưới mắt của một
chủ thể nên cái “khách quan” phải cần một chủ thể nhận thức mới có. Vì vậy, theo Duy thức học, người
ta có thể tìm hiểu được thế giới thực tại nếu nắm bắt được tính chất của chủ thể, nghĩa là nếu biết rõ
chủ thể, thì sẽ biết rõ thực tại của chủ thể đó. Như vậy, trình hiện là sự xuất hiện của thế giới trong
tương quan với chủ thể.
Theo Duy thức học thì mọi hiện tượng tâm vật, thực tại bên ngoài lẫn hoạt động tâm lý dựa
trên ba trình hiện của thức: thứ nhất là sáu thức nhận biết (cũng gọi là sáu thức trước), thứ hai là thức
tư duy (cũng gọi là thức thứ bảy hay Mạt-na thức) và thứ ba là thức tàng chứa (cũng gọi là thức thứ
tám hay Tàng thức hay A-lại-da thức).
Như vậy, thức chỉ toàn bộ hoạt động “tinh thần”, từ năm giác quan, ý thức đến các tầng lớp
tiềm thức, vô thức mà thuật ngữ gọi là mạt-na thức, tàng thức. Tàng thức là nguồn gốc của các thức
khác. Đặc tính của nó là nhận thức được sự vật và chính mình. Nó là chỗ tàng chứa những kinh nghiệm
của cá thể với cảm xúc, ước mong, tư duy…, nơi chứa đựng những thói quen cố hữu, những khả năng
đã thuần thục, những mơ ước chưa thành. Tàng thức chính là động lực, là năng lực của tái sinh.
Vì thế, trong triết học Phật giáo, thức vừa có vai trò của năng lượng, vừa là nguồn gốc của cái
biết, cái thấy, nó làm chủ thể “cảm ứng” với khách thể. Cả chủ thể lẫn khách thể đều là sự biến hiện
của thức khi thức vô minh vọng động mà tự tách mình ra làm đôi, làm một chủ thể nhận thức và một
khách thể bị nhận thức. Trên một mặt nhất định, ta có thể nói: chính thức là yếu tố tạo tác ra thế giới,
mặt khác ta cũng có thể nói thức thấy thế giới đúng như “nghiệp cảm” của nó.
Hạt giống1 (chủng tử) ở trong tàng thức biến hiện thành thế giới mà ta gọi là thực tại vật lý. Hạt
giống cũng biến hiện trong mỗi cá thể để thành các dạng tâm lý như nhận thức, khả năng, ý thích, ước
vọng, tư tưởng. Xuất phát từ vọng thức sai lầm, người ta thấy mình có một cái tôi, đồng thời thấy thế
giới bên ngoài tồn tại khách quan. Trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể đó (mà tất cả chung
quy chỉ là thức biến hiện), cá nhân càng tiếp tục gieo rắc và nuôi dưỡng chúng để cung cấp lại cho tàng
thức.
Thân mạng của một cá nhân bao gồm thân thể, điều kiện tâm lý, khả năng và trình độ, nó nói
lên biệt nghiệp của cá nhân đó. Môi trường xung quanh, gồm có gia đình, xã hội, thế giới, trong đó cá
thể đang sống, nó phản ánh cộng nghiệp của cá nhân đó. Biệt nghiệp và cộng nghiệp đó có mối liên hệ
mật thiết với nhau và đều là biến hiện của thức. Thức của mỗi cá thể như thế nào thì thân của nó được
tạo ra thế đó, vũ trụ được “vẽ vời”, được trình hiện như thế đó.
Nghiệp và các tác động của nghiệp là: tất cả mọi kinh nghiệm của con người trong cuộc sống
được lưu giữ trong tàng thức như một thứ vết tích và những vết tích đó cần phải được chứng thực.
Theo đạo Phật, mỗi hoạt động trong đời sống của chúng ta, trong thế giới ba chiều cũng như
trong các thực tại phi vật chất khác, đều để lại “dấu vết” cả. Tất cả các biến cố đem lại hiểu biết và kinh
nghiệm, dù đó là năng lực, tư duy, thói quen, hành động, yêu thương, thù hận, xúc cảm, ức chế… cũng
thế. Nói chung là toàn bộ đời sống trên ba bình diện thân, khẩu, ý đều để lại dấu vết, đều để lại hạt
giống trong tàng thức cả. Một khi chúng để lại hạt giống thì tàng thức biến hiện cho cá thể đó được
chứng thực, nếm trải, chứng nghiệm những dấu vết đó trong thế giới riêng của mình và chiêu cảm
những hoàn cảnh nhất định đến với mình.
1 Hạt giống là những thông tin được tích luỹ trong tàng thức, đó cũng chính là nghiệp.
Vì thế, theo quan niệm nghiệp lực, kẻ giết người sẽ bị giết hại, kẻ dối trá sẽ bị lừa đảo, kẻ ích
kỷ sẽ bị cô đơn, kẻ bủn xỉn sẽ bị nghèo khổ, kẻ ham học sẽ được sáng dạ… (thiện ác đáo đầu chung
hữu báo). Những hoàn cảnh đó xuất hiện một cách “tự động”, không cần ai xem xét và dàn xếp. Chúng
đều là những sự trình hiện của thức đối với cá thể và cơ chế cộng nghiệp sẽ đem những cá thể có liên
hệ với nhau lại gần nhau, trong đó nhiều thế giới cùng trình hiện, lồng vào nhau mà không hề ngăn
ngại.
Trong sự tác động này của nghiệp, điều bí nhiệm nhất là mối quan hệ giữa cộng nghiệp (nghiệp
chung của một nhóm người, một xã hội và cả loài người) và biệt nghiệp (nghiệp riêng của mỗi cá thể).
Chúng đan kết vào nhau vô ngại, biến hóa thiên hình vạn trạng và tạo cảm tưởng như chỉ có một thế
giới, một thực tại. Nghiệp lực tạo thành tâm lý và thể chất của mỗi cá thể, nghiệp lực tạo thành môi
trường xung quanh, kết thành gia đình và xã hội. Từ đó tạo nên những giả hợp to lớn hơn như quốc gia,
loài người, các hành tinh và toàn bộ vũ trụ.
Con người có một cộng nghiệp là kiếp người nên thân thể của họ giống nhau, với tất cả các bộ
phận, với những số lượng chính xác về cơ bắp và khớp xương, về các cơ quan nội tạng, về sự vận động
của cơ thể. Những phát hiện về “gen” của con người cho thấy mức độ “giống nhau” giữa loài người lên
trên mức 99,9%. Điều này làm ta có thể nghĩ genom là sự thể hiện về mặt vật chất của “nghiệp”. Phải
chăng con số 99,9% nói lên mức độ “cộng nghiệp về mặt thân thể” của loài người?
Dưới tác dụng của vô minh, của hạt giống, của nghiệp lực, tàng thức biến hiện là cho cá thể đó
cảm nhận có thế giới bên ngoài như một thực thể khách quan và có đời sống của chính mình, của người
nhận thức chủ quan. Mỗi cá thể thông thường lại chấp chặt thế giới đó là thực có, bản thân mình là một
cái tôi thực có. Qua đó mà cá thể lại thu nhận thêm kinh nghiệm, tạo tác thêm ước vọng, bồi dưỡng
thêm năng lực, tăng trưởng thêm nghiệp lực và tiếp tục chứa chấp nó vào trong tàng thức.
Một biến cố xảy ra vừa là kết quả của một biến cố cũ, vừa là nguyên nhân một biến cố tương
lai. Cuộc sống là một dòng tâm thức bất tận, không đầu không đuôi. Nếu hôm nay ta nhức đầu thì có lẽ
tại hôm qua ta uống rượu quá nhiều chứ không do một lẽ bất công nào cả. Và ngay hôm nay ta có thể
chấm dứt uống rượu để ngày mai ta khỏi nhức đầu, đó là sự tự do mà mỗi cá thể đều có và có ngay bây
giờ.
Theo đạo Phật thì quả thật mỗi cá thể cảm nhận một thế giới riêng với thời gian và không gian
riêng, thế nhưng các thế giới đó lồng vào nhau không bị ngăn ngại. Tùy theo nghiệp lực của cá thể hay
từng nhóm cá thể mà các biến cố tác động lẫn nhau, thúc đẩy để sự vật sinh thành và hoại diệt theo
thuyết duyên khởi. Thời gian và không gian là những cộng nghiệp then chốt nhất. Những biến cố đó sẽ
“lọt” vào thế giới của một cá thể nhất định (thí dụ cá thể nọ gặp được người bạn tốt, tìm được một việc
làm như ý) hay “lọt” vào thế giới của một nhóm cá thể (thí dụ một tai nạn xảy ra chung cho cả nhóm).
Thế giới chúng ta có thể đồng thời được xem là một thế giới hay nhiều thế giới. Nếu lấy cái
chung của mọi vọng thức làm nền tảng thì chỉ có một thế giới duy nhất, nếu lấy cái riêng của mỗi dòng
tâm thức thì mỗi cá thể là một thế giới. Cái chung và cái riêng, cái đồng và cái dị đều không có tự tính,
đều do quan hệ, theo góc nhìn mà đặt tên, đều là giả danh cả. Vì thế, vấn đề có một thế giới hay nhiều
thế giới, có một hay nhiều thức tàng thức là điều mà ta chỉ có thể đứng trên lập trường Trung quán mới
thấy rõ được. Tất cả đều chỉ là sự cảm nhận, thế giới cũng như thức không có tự tính gì cả.
Duy thức học cho rằng thực tại chỉ là những hình ảnh xuất hiện trong thời gian và không gian.
Chúng tác động lẫn nhau để sinh thành theo những quy luật nhất định, nhưng chúng không có một chủ
thể, một chất liệu chung. Chúng chỉ là củi và tro, hai trạng thái nối tiếp nhau, không có một cái gì đi từ
củi qua tro. Thế giới hiện tượng không hề độc lập tồn tại trên cơ sở tự tính riêng, mà nó là khách thể
xuất hiện cùng một lúc với chủ thể. Khách thể không có tự tính riêng biệt, nếu chủ thể diệt thì nó diệt
theo.
Mỗi cá nhân có một thế giới riêng, có một thực tại riêng, không có một thực tại nào là tuyệt đối
cho tất cả cá thể, cho tất cả loài hữu tình. Mỗi thực tại của mỗi cá thể vì thế đều là tương đối. Thế
nhưng, dựa trên cộng nghiệp của một nhóm cá thể (một xã hội, một quốc gia hay cả loài người), một
thực tại nhất định được trình hiện, phù hợp với cộng nghiệp đó và được xem là có giá trị cho nhóm đó.
Theo đó, thực tại vật lý mà nhà khoa học cứ đinh ninh là độc lập với chính mình chẳng qua là một thế
giới được trình hiện chung cho cả loài người, cho loài hữu tình có một nghiệp chung là mang thân
người.
Cộng nghiệp của loài người làm ta cảm nhận một thực tại vật lý, với vũ trụ, thế giới đa dạng
đang hiển hiện trước mắt ta. Mỗi người cảm nhận nó một cách riêng biệt, nhưng hành xử trong nó và
ngôn ngữ về nó thì lại như nhau. Đó là lý do sâu kín làm cho mọi người nhầm tưởng có một thực tại
độc lập ở bên ngoài.
Vì lẽ trên, muốn hiểu tính chất của thế giới “bên ngoài”, ta cần biết rõ cơ chế nào, tiêu chuẩn
nào đã làm cho mỗi cá thể thấy một vật nhất định là thực tại, vật khác không phải là thực tại.
Đạo Phật cho rằng có nhiều thực tại trong vũ trụ. Từ trong thức của ta lưu xuất vô số dạng hình
của thức. Tất cả các dạng hình đó đều có thực tại riêng của chúng và có “giá trị”, tức là hễ chúng có tác
động là có thực tại. Như thế, giấc mơ vẫn là thực tại. Thế nhưng chúng ta không xem chúng là thực tại
vì chúng ta chỉ tập trung lên một thứ thực tại duy nhất. Đó là thực tại phù hợp với thân của chúng ta.
Thân thể của con người là thân vật chất, nó là một tập hợp của những phần tử mà ta gọi là tế bào,
nguyên tử và phân tử. Thân thể của con người có thể nhận thức được bằng năm giác quan nên chỉ
những gì được nhận thức bằng năm giác quan mới được ta thừa nhận là “thực tại”.
Vì thế, Thân thể của con người có một thực tại phù hợp với nó, đó là một thực tại có thể được
nhận thức bằng năm giác quan. Năm giác quan vốn dựa vào thân mà tồn tại. Thân người còn có một
điều đặc biệt nữa là chỉ cảm nhận một không gian ba chiều và một thời gian trôi chảy có trước có sau.
Thực tại là gì cũng mặc, thân ta chỉ biết cảm nhận như thế, không thể khác. Thế nên ta phải nói chính
xác là, thực tại trình hiện với chúng ta như thế, thực tại “lọt” vào không gian ba chiều của chúng ta để
chúng ta thấy nó như thế, để chúng ta cảm nhận nó có diễn biến theo thời gian. Cuối cùng, vật gì được
năm giác quan nhận thức được và được cộng nghiệp thừa nhận là thực tại thì nó là có. Vì thế mà ta
thấy những gì diễn ra lúc tỉnh táo là thực còn trong mơ là giả.
Ngày nay khi nền vật lý hiện đại xem khối lượng là một dạng của năng lượng, xem một vật
nằm im thật ra là năng lượng đang tụ hội, xem vật thể là một “biến cố”, ta có thể nói cách nhìn đó rất
phù hợp với quan điểm Duy thức học. Vì đối với Duy thức học, mọi biến cố và vật thể trong thế giới ba
chiều của chúng ta đều là sự phóng chiếu, sự biến hiện của thức cả. Chúng là những hoạt động của thức
trong tầm nhìn của ta vốn chỉ tập trung trong thế giới vật chất, điều đó có nghĩa là phần lớn thực tại đều
không được chúng ta biết đến, chúng nằm dưới một mức độ mà chúng ta cho là “thực có”. Thế nhưng
thực tại vật chất cũng không hề bị tách lìa khỏi toàn bộ thực tại đó mà ngược lại, thực tại vật lý phản
ánh một cách trung thực sự hoạt động của cái toàn thể.
Vì thế, theo Duy thức học, không ai khác giúp ta, ngoài chính chúng ta. Nếu thay đổi bản thân
mình thì thế giới và cả thực tại vật lý cũng thay đổi theo. Kết luận này không đơn thuần là xuất phát từ
những nguyên tắc luân lý hay từ lòng hiếu hòa như nhiều người thường nghĩ, mà đó là nhận thức luận
về tính chất của thế giới và con người. Thế giới hiện tượng là thế giới trình hiện với bản thân ta, không
thể bỏ nó mà về với ta được. Nó chính là ta, chính xác hơn là một phần của ta. Đạo Phật quan niệm hãy
nhìn thế giới xung quanh (y báo) và thân thể (chánh báo) mà thấy chúng chính là tấm gương phản ánh
đúng như tâm thức của ta đang là. 1
Duy thức học chia sự vật, hiện tượng ra làm năm nhóm:
1 II.1, 301-307, 322, 323, 329, 335-337, 367, 368.
-Tâm pháp (hay còn gọi là tâm vương): gồm có 8 loại hiện tượng tâm lý chủ đạo. Đây cũng là
tám khái niệm của Duy thức học được đề cập đến trong luận văn này để so sánh với tám khái niệm của
Tâm lý học.
-Tâm sở hữu pháp (hay còn gọi là tâm sở): gồm có 51 loại hiện tượng tâm lý phụ thuộc.
-Sắc pháp: gồm có 11 sự vật thuộc về vật lý.
-Tâm bất tương ưng hành pháp: gồm có 24 sự vật, hiện tượng không thuộc tâm lý cũng không
thuộc vật lý
-Vô vi pháp: gồm có 5 sự vật, hiện tượng không bị các điều kiện chi phối.
1.1.2/ Lịch sử nghiên cứu Duy thức học và vấn đề so sánh với Tâm lý học
Duy thức học được nghiên cứu và trình bày bởi nhiều nhà Phật học nổi tiếng, tiêu biểu là:
-Vô Trước sinh sống trong khoảng thế kỷ thứ tư sau Tây lịch, ở phía Bắc Ấn Độ, là người đặt
nền móng cho Duy thức học. Các tác phẩm tiêu biểu có liên quan đến Duy thức học là: Nhiếp Đại thừa
luận, Hiển dương thánh giáo luận, Thuận trung luận, Kim cương kinh luận, Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tập
luận, Lục môn giáo thọ tập định luận.
-Thế Thân (315 – 395) là người ở phía Bắc Ấn Độ, là em của Vô Trước. Các tác phẩm tiêu biểu
có liên quan đến Duy thức học là: A-tỳ-đạt-ma Câu xá luận, Duy thức nhị thập tụng (20 bài kệ về thức),
Duy thức tam thập tụng (30 bài kệ về thức), Luận Tỳ-bà-sa, Thành nghiệp luận. Các tác phẩm này phân
loại và phân tích các yếu tố cơ bản của sự chứng nghiệm và thực tại, gồm: thiền định, quan niệm vũ trụ
luận, học thuyết về nhận thức, nguyên nhân và sự chuyển hóa các vấn đề đạo đức, học thuyết về luân
hồi và quan trọng nhất là học thuyết về nghiệp. Theo Thế Thân, những gì mà con người nhận thức về
thế giới khách quan không gì khác hơn là sự phóng chiếu của tâm thức. Theo đó, đối với ông, con
người thường nhầm lẫn sự nhận biết về thế giới với chính bản thân thế giới. Từ đó, ông đề nghị cần
phải giác ngộ, tránh khỏi những phóng chiếu sai lầm của thức.
-An Huệ (sống vào khoảng thế kỷ thứ tư) là người miền Nam Ấn Độ. Các tác phẩm tiêu biểu có
liên quan đến Duy thức học là: Đại thừa trung quán thích luận, Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận, Duy
thức tam thập tụng thích luận. Các tác phẩm của ông phân tích sâu Duy thức tam thập tụng và cố gắng
giữ lại nguyên trạng học thuyết của Vô Trước và Thế Thân.
-Hộ Pháp (530-561) là người Nam Ấn Độ. Các tác phẩm tiêu biểu có liên quan đế Duy thức
học là: Quảng ngũ uẩn luận, Nhị thập Duy thức luận thích, Tam thập Duy thức luận thích. Các tác
phẩm của ông chủ yếu là chú thích và mở rộng các tác phẩm về Duy thức học đã có trước.
-Huyền Trang (600 – 664) là người Trung Quốc. Các tác phẩm dịch thuật tiêu biểu có liên quan
đến Duy thức học là: Hiển dương thánh giáo luận tụng, Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận, Đại thừa
ngũ uẩn luận, Du-già sư địa luận, Giải thâm mật kinh,Duy thức tam thập luận, A-tỳ-đạt-ma Câu xá
luận, Đại thừa thành nghiệp luận, Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tập luận, Thành Duy thức luận, Duy thức nhị
thập luận, Bát thức quy củ tụng. Các tác phẩm của ông chủ yếu là dịch, soạn dịch, hệ thống và cô đọng
lại những vấn đề tinh túy của Duy thức học.
-Khuy Cơ (632 – 682) là người Trung Quốc, là đệ tử của Huyền Trang. Ông dịch Duy thức nhị
thập tụng, Duy thức tam thập tụng ra Hán ngữ và và hệ thống hóa lại và viết Thành Duy thức luận để
phát triển Duy thức học và được gọi với một tên khác tại Trung Quốc là Pháp tướng tông lấy mạch tư
tưởng của Hộ Pháp làm chủ đạo.
-Nhất Hạnh (Việt Nam) nghiên cứu Duy thức học và biên soạn thành 50 bài tụng mang tính
thực tế và được gọi với một tên khác là Duy biểu học.
Trong tác phẩm Duy biểu học, Nhất Hạnh đã soạn lại và đưa ra 50 bài kệ về Duy thức học có
tính thực tế để áp dụng cho các thiền sinh. Trong tác phẩm này, nổi bật là luận điểm: trong tiếng Phạn
có hai từ ‘vijñàna’ và ‘vijnapti’ có thể dịch thành thức. Tiền tố từ ‘vi’ có nghĩa là phân biệt
(perception), xét đoán, nhận thức. ‘Vijnapti’ có thể dịch là biểu (manifestation, perception,
announcing), mà cũng có thể dịch là thức. Vì vậy, nếu gọi là duy thức thì chỉ mới lột tả được nghĩa
phân biệt trong khi từ nguyên vừa có nghĩa phân biệt vừa có nghĩa biểu hiện, cho nên ông đề xuất dịch
là duy biểu để bổ sung nghĩa biểu hiện.
Suốt quá trình nổ lực hiện đại hóa Duy thức học, khái niệm ý thức (nghĩa hẹp) trong Tâm lý
học được ông sử dụng tương đương với khái niệm chánh niệm để trị liệu các nội kết. Khái niệm nội kết
được ông sử dụng rất nhiều để chỉ cho các hiện tượng tâm lý bị dồn nén vốn không xa lạ gì với Tâm lý
học. Ngoài ra, ông còn khẳng định một phần của tàng thức trong Duy thức học tương đương với vô
thức trong Tâm lý học, ông đề cập thường xuyên đến vấn đề tự biểu, cộng biểu với cốt lõi là nghiệp
bằng cách diễn đạt khá giống với vô thức cá nhân, vô thức tập thể của C. Jung và E. Fromm.
Như vậy, có thể thấy rằng Nhất Hạnh ít nhiều đã có sự liên hệ giữa ý thức và chánh niệm, giữa
vô thức và tàng thức. Đối với 6 khái niệm còn lại (nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức và
mạt-na thức), trong tác phẩm của ông, người ta thấy sự liên hệ với Tâm lý học là không rõ ràng về mặt
giải phẫu, sinh lý và khái niệm.
-Thích Tâm Thiện (Việt Nam)
Cũng với nổ lực hiện đại hóa Duy thức học, Thích Tâm Thiện, với Tâm lý học Phật giáo, đã cố
gắng trình bày theo logic mới, khác hẳn với các logic trong lịch sử Duy thức học. Tác phẩm của ông
thể hiện mong muốn giải quyết các vấn đề có tính quy mô rộng lớn của thực tiễn xã hội hơn là giải
quyết các vấn đề chuyên môn thuật ngữ. Do đó, cả 8 khái niệm (nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức,
thân thức, ý thức, mạt-na thức và tàng thức) trong tác phẩm của ông không có sự rõ ràng khi liên hệ với
Tâm lý học về mặt giải phẫu, sinh lý và khái niệm.
Tóm lại, trong lịch sử nghiên cứu, một số nhà nghiên cứu Duy thức học đã có sự so sánh với
Tâm lý học nhưng không nhiều lắm. Đặc biệt, sự so sánh đó chủ yếu là so sánh tổng thể, so sánh về
mặt Triết học chứ không thuần tuý chuyên môn về Tâm lý học.
1.2/ Cơ sở lý luận của đề tài
1.2.1/ Cơ sở lý luận của việc lựa chọn đề tài
a) Tâm lý học hiện đại, nhất là Tâm lý học Mác-xít, đã phê phán tính duy tâm, tính siêu hình
hoặc tính duy vật máy móc của các học thuyết Tâm lý học trước và sau Mác; qua đó, khẳng định rằng
“tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong não thông qua chủ thể”, “tâm lý là chức năng
của não”, v.v… Sự phê phán đó phải được tiến hành trên cơ sở so sánh Tâm lý học Mác-xít và Tâm lý
học phi Mác-xít (trong đó có Tâm lý học Phật giáo), nhưng sự so sánh đó vẫn là sự so sánh về mặt triết
học của Tâm lý học. Như thế, có thể nói rằng, chưa có sự so sánh về mặt tâm lý học thuần túy, hiểu
theo nghĩa là sự so sánh giữa khái niệm này với khái niệm kia (từ định nghĩa khái niệm cho đến các
kiến thức Tâm lý học thuộc về khái niệm đó). Đề tài này là đề tài so sánh không phải về mặt triết học
mà là về mặt Tâm lý học thuần túy giữa một số khái niệm của Tâm lý học hiện đại và một số khái niệm
tương ứng của Duy thức học (Tâm lý học Phật giáo).
b) Duy thức học là môn Phật học về thức, do đó, ngoài những khái niệm và quan niệm về triết
học, đạo đức, tôn giáo v.v… còn có cả những khái niệm và quan niệm về tâm lý.
c) Khi trong một trường Phật học vừa dạy Duy thức học vừa dạy Tâm lý học cho tăng ni sinh,
thì tất yếu sẽ có các câu hỏi phát sinh trong giảng viên cũng như trong học viên là: “Tại sao lại phải học
thêm Tâm lý học (một môn không thuộc về Phật học)?” và “Những khái niệm và quan niệm giữa hai
môn này có liên quan gì với nhau, có gì giống nhau và có gì khác nhau?”. Việc so sánh nếu được đặt ra
và thực hiện thì chất lượng của việc học tập hai môn này sẽ được cao hơn; cũng có thể nói, hiểu biết về
sự so sánh cũng rất bổ ích cho các nhà nghiên cứu và các giảng viên Tâm lý học và Duy thức học.
d) Một luận điểm nữa thúc đẩy tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu là luận điểm cho rằng
việc dạy Tâm lý học đại cương trong các trường Phật học là sự tạo tiền đề khoa học cho sự dạy và học
Duy thức học, một môn học mang tính tôn giáo. Và đó cũng là luận điểm cho rằng Phật giáo – với tính
chất vô thần – là tôn giáo duy nhất có thể song hành với khoa học, trong đó có khoa học tâm lý.
1.2.2/ Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài
Luận văn này được nghiên cứu và viết với tính chất là đề tài của một luận văn tốt nghiệp Cao
học Tâm lý học của trường Đại học Sư phạm TPHCM, chứ không phải là một luận văn về Duy thức
học trong một trường Phật học. Do đó, cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài này vẫn là quan niệm về tâm
lý, về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu tâm lý đã và đang được giảng dạy ở bậc cao học
Tâm lý học của trường Đại học Sư phạm TPHCM mà cơ sở triết học của nó là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác. Cụ thể là những luận điểm sau đây:
-Mỗi con người là sự thống nhất của 3 mặt sinh lý (cơ thể), xã hội (lý lịch) và tâm lý.
-Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể và do đó,
có tính phản ánh, tính xã hội, tính lịch sử và tính chủ quan của chủ thể.
-Mọi hiện tượng tâm lý đều có cơ sở tự nhiên (sinh lý thần kinh) và cơ sở xã hội (nền văn hóa
của xã hội, các quan hệ xã hội, giao tiếp xã hội và hoạt động xã hội) của từng cá nhân và từng nhóm
xã hội.
-Những khái niệm Tâm lý học như: nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính, ý thức, tự ý thức, vô
thức là cơ sở lý luận để nghiên cứu những khái niệm Duy thức học được đề cập để so sánh (tám khái
niệm: nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức và tàng thức).
-Ngoài những kiến thức được học trong các tài liệu Tâm lý học Việt Nam, tác giả luận văn
cũng tham khảo thêm những giáo trình Tâm lý học hiện đại của Mỹ để có thêm những kiến thức mới,
hiện đại về Tâm lý học nói chung và về những khái niệm được đề cập tới trong luận văn này nói riêng.
Chương 2: Phân tích một số khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học
Những khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học được phân tích trong chương này là
những khái niệm có sự giống nhau và khác nhau nhất định. Đó là tám khái niệm thị giác, thính giác,
khứu giác, vị giác, mạc giác, ý thức, tự ý thức, vô thức trong Tâm lý học và tám khái niệm nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức, tàng thức trong Duy thức học.
2.1/ Phân tích tám khái niệm trong Tâm lý học
Trong tám khái niệm đã nêu ở trên của Tâm lý học thì thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác,
mạc giác là những cảm giác (và tri giác) thuộc về nhận thức cảm tính. Vì thế, trước hết, tác giả luận
văn xin được nêu ở đây quan niệm của Tâm lý học về cảm giác, tri giác, sự chuyển hóa từ cảm giác
thành tri giác và nhận thức cảm tính.
2.1.1/ Nhận thức cảm tính
2.1.1.1/ Cảm giác
a) Định nghĩa
Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng
đang trực tiếp tác động vào một giác quan nào đó của ta.
b) Phân loại
Có hai loại cảm giác:
-Những cảm giác bên ngoài, gồm: cảm giác nhìn (thị giác), cảm giác nghe (thính giác), cảm
giác ngửi (khứu giác), cảm giác nếm (vị giác), cảm giác da (mạc giác).
-Những cảm giác bên trong, gồm: cảm giác cơ thể, cảm giác vận động và cảm giác thăng bằng.
2.1.1.2/ Tri giác
a) Định nghĩa
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật,
hiện tượng đang trực tiếp tác động vào một hay nhiều giác quan nào đó của ta.
b) Phân loại
-Tri giác được hình thành từ một loại cảm giác: tri giác nhìn, nghe, ngửi, nếm, da.
-Tri giác được hình thành từ nhiều loại cảm giác: tri giác không gian, tri giác thời gian, tri giác
vận động, tri giác xã hội, tri giác con người.
2.1.1.3/ Sự chuyển hóa cảm giác thành tri giác
Sự chuyển hóa này thường nhanh đến mức ta không cảm thấy được rằng cảm giác có trước, tri
giác có sau, mà ta tưởng rằng cảm giác và tri giác là một. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra theo 4 bước
sau: các giác quan tiếp nhận kích thích, chuyển hóa năng lượng vật lý thành xung thần kinh, phát sinh
những cảm giác trên vùng tương ứng của vỏ não, các xung thần kinh lan truyền sang vùng liên hợp để
các cảm giác liên hợp và tổng hợp lại thành ấn tượng hay hình ảnh trọn vẹn có ý nghĩa gọi là tri giác.
2.1.1.4/ Nhận thức cảm tính
Nhận thức là quá trình hoạt động tâm lý của con người để biết được một sự vật hay một hiện
tượng nào đó là như thế nào.
Có hai loại nhận thức:
-Nhận thức cảm tính (gồm những cảm giác và tri giác) là nhận thức chỉ phản ánh những thuộc
tính bề ngoài, cụ thể của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan.1
-Nhận thức lý tính là nhận thức cao hơn, được thực hiện trên cơ sở đã có nhận thức cảm tính về
sự vật hay hiện tượng đó và bằng sự tư duy hoặc tưởng tượng để phản ánh bản chất bên trong của sự
vật hay hiện tượng đó.
2.1.2/ Thị giác (cảm giác và tri giác nhìn)
2.1.2.1/ Cơ sở sinh lý của cảm giác nhìn
a) Giải phẫu mắt
* Cấu tạo của cầu mắt
Cầu mắt nằm trong hốc mắt của xương sọ, phía ngoài được bảo vệ bởi các mí mắt, lông mày và
lông mi nhờ tuyến lệ luôn luôn tiết nước mắt làm mắt không bị khô. Cầu mắt vận động được là nhờ cơ
vận động mắt
Cầu mắt gồm ba lớp: Lớp ngoài cùng là màng cứng có nhiệm vụ bảo vệ phần trong của cầu
mắt, phía trước của màng cứng là màng giác trong suốt để ánh sáng đi qua vào trong cầu mắt; tiếp đến
là lớp màng mạch có nhiều mạch máu và các tế bào sắc tố đen tạo thành một phòng tối trong cầu mắt
1 I.12, 67.
(như phòng tối của máy ảnh); lớp trong cùng là màng lưới (võng mạc), trong đó chứa tế bào thần kinh
thị giác, bao gồm hai loại: tế bào nón và tế bào que.
* Cấu tạo của màng lưới
-Các tế bào nón tiếp nhận các kích thích ánh sáng mạnh và màu sắc. Các tế bào que có khả
năng tiếp nhận kích thích ánh sáng yếu giúp ta nhìn rõ về ban đêm. Các tế bào nón tập trung chủ yếu ở
điểm vàng (nằm trên trục mắt), càng xa điểm vàng số lượng tế bào nón càng ít và chủ yếu là các tế bào
que. Mặt khác, ở điểm vàng, mỗi tế bào nón liên hệ với một tế bào thần kinh thị giác qua một tế bào hai
cực, nhưng nhiều tế bào que mới liên hệ được với một tế bào thần kinh thị giác. Chính vì vậy, khi
muốn quan sát một vật cho rõ phải hướng trục mắt về phía vật quan sát để ảnh của vật hiện trên điểm
vàng.
Còn điểm mù là nơi đi ra để vào não của các sợi trục các tế bào thần kinh thị giác, không có tế
bào thụ cảm thị giác nên nếu ảnh của vật rơi vào đó, ta sẽ không nhìn thấy gì cả.
b) Sinh lý của sự tạo ra cảm giác nhìn:
Ta nhìn thấy được vật là do các tia sáng phản chiếu từ vật đó đi vào mắt qua lỗ đồng tử tới tận
màng lưới, qua một môi trường trong suốt gồm màng giác, thủy dịch, thể thủy tinh, dịch thủy tinh.
Lượng ánh sáng vào trong phòng tối của cầu mắt nhiều hay ít là nhờ lỗ đồng tử ở mống mắt
(lòng đen) dãn rộng hay co hẹp (điều tiết ánh sáng).
Nhờ khả năng điều tiết của thể thủy tinh (như một thấu kính hội tụ) mà ta có thể nhìn rõ vật ở
xa cũng như khi tiến lại gần. Vật càng gần mắt, thể thủy tinh càng phồng lên để nhìn cho rõ.
Các tia sáng từ vật qua thể thủy tinh tới màng lưới sẽ tác động lên các tế bào thụ cảm thị giác
làm hưng phấn các tế bào này và truyền tới tế bào thần kinh thị giác, xuất hiện luồng thần kinh theo
dây thần kinh thị giác về vùng vỏ não tương ứng ở thùy chẩm của đại não cho ta cảm nhận về hình ảnh
của vật, tức là hình ảnh tâm lý ở trong não, là cảm giác nhìn (thị giác) về vật đó. Hình ảnh trên màng
lưới là hình ảnh vật lý lộn ngược so với sự vật ở bên ngoài.
Ta nhìn được là nhờ các tia sáng từ vật tới mắt đi qua thể thủy tinh tới màng lưới sẽ kích thích
các tế bào thụ cảm ở đây vào não (thùy chẩm) để cho ta nhận biết về vị trí, hình dạng, độ lớn và màu
sắc của vật.
Ở phía sau não có một vùng được gọi là vỏ não thị giác nguyên thủy, vùng này nằm tại vỏ não
vùng chẩm chuyên xử lý các thông tin đã được mã hóa thần kinh từ hai mắt truyền tới. Tại đây, não
“nhìn thấy” cái mà mắt đã thu thập được. Những xung động thần kinh từ các tế bào thị giác trên được
truyền đi theo dây thần kinh thị giác để tới vùng chẩm của vỏ não trong đó có một dây của con mắt này
phải đi qua chéo thị giác để giao nhau theo hình chữ X với một dây của con mắt kia; như vậy, phần bên
trái của thùy chẩm xuất hiện hình ảnh của các sự vật ở bên phải của chủ thể và ngược lại.
2.1.2.2/ Cảm giác nhìn:
Cảm giác nhìn là loại cảm giác nảy sinh do ánh sáng tác động vào mắt. Theo lý thuyết vật lý
hiện đại, cảm giác thị giác là cảm giác hình thành do tác động của sóng điện từ có bước sóng từ 390
đến 780 Mm lên mắt.1 Cảm giác này cho biết vị trí, hình thù, khối lượng, độ sáng, độ xa, màu sắc của
sự vật. Nó giữ vai trò cơ bản trong nhận thức thế giới bên ngoài của con người (90% lượng thông tin từ
bên ngoài đi vào não là qua mắt). Cảm giác nhìn có đặc điểm không mất ngay sau khi một kích thích
mạnh ngừng tác động (được gọi là hậu ảnh hay lưu ảnh, kéo dài chừng 1/5 giây).2
1 I.2, 70.
2 I.12, 72.
Tóm lại, cảm giác nhìn là một quá trình tâm lý phản ánh một thuộc tính riêng lẻ của sự vật
hiện tượng khi sóng ánh sáng (sóng điện từ) phát ra từ sự vật đó tác động vào mắt.
2.1.2.3/ Tri giác nhìn:
I.M.Xetrenop đã chứng minh sự giống nhau khách quan giữa các vật, các hình ảnh vật lý của
vật trên võng mạc mắt với hình ảnh trong ý thức. Con người không cảm giác được những gì đang diễn
ra trong mắt khi nhìn: họ nhìn thấy cái đang nằm trước mắt. Có thể so sánh tính khách quan hóa của
hình ảnh với việc xây dựng hình ảnh của vật bằng gương phẳng, nhưng đây là chiếc gương ý thức, xây
dựng các hình ảnh đứng trước nó, một hình ảnh mà nó đã nhìn thấy, phóng chiếu ra bên ngoài và hòa
lẫn với vật đang được nhìn thấy, và trùng khớp với nó.
Trải nghiệm thị giác là một quá trình chọn lọc. Có nhiều tín hiệu đến và cạnh tranh với nhau để
được xử lý trong não thì làm thế nào ta có thể tránh khỏi nhầm lẫn và tập trung vào cái gì là quan
trọng? Các đối tượng được ta chú ý lựa chọn như thế nào, mắt và tay ta hướng tới như thế nào để thao
tác chúng? Khả năng với lấy, nắm lấy và thao tác các đối tượng được tri giác là một kỳ công do có
những tế bào đặc hiệu trong hệ thần kinh trung ương. Một số tế bào giúp ta hướng sự chú ý đến một số
vật nào đó, một số tế bào khác lại giúp ta hướng cặp mắt về một vật được quan tâm nhiều nhất, còn một
số khác nữa lại giúp ta cử động các chi để nắm giữ và thao tác các vật.
Trong giai đoạn đầu của quá trình chọn lọc này có sự tách biệt hình với nền. Hệ thị giác phân
tích khung cảnh để biết các ranh giới và sự tương phản nhằm phân biệt hình với nền. Trong giai đoạn
hai của quá trình này, những bộ phận hoặc những nét đặc biệt của những hình được chọn lọc để phân
tích kỹ hơn. Đó là giai đoạn chú ý của tri giác diễn ra bằng cách tập trung vào một hoặc hai vật cùng
một lúc.
Như vậy, tri giác nhìn là một quá trình tâm lý được chuyển hóa từ những cảm giác nhìn, phản
ánh trọn vẹn những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào mắt sau khi
tách biệt hình ra khỏi nền và chọn lọc đối tượng.
2.1.2.4/ Thị giác
Thị giác là một loại nhận thức cảm tính phản ánh một hoặc nhiều thuộc tính bề ngoài của sự
vật hiện tượng khi sóng ánh sáng (sóng điện từ) phát ra từ sự vật, hiện tượng đó đang trực tiếp tác
động vào mắt và tạo ra ở trong não (thùy chẩm) những cảm giác hoặc tri giác về sự vật, hiện tượng đó.
2.1.3/ Thính giác (cảm giác và tri giác nghe)
2.1.3.1/ Cơ sở sinh lý của cảm giác nghe
a) Giải phẫu tai
Tai được chia ra: tai ngoài, tai giữa, tai trong.
-Tai ngoài gồm: vành tai có nhiệm vụ hứng sóng âm, ống tai hướng sóng âm. Tai ngoài được
giới hạn với tai giữa bởi màng nhĩ (có đường kính khoảng 1cm).
-Tai giữa là một khoang xương, trong đó có chuỗi xương tai bao gồm xương búa, xương đe và
xương bàn đạp khớp với nhau. Xương búa được gắn vào màng nhĩ, xương bàn đạp áp vào một màng
giới hạn tai giữa với tai trong (gọi là màng cửa bầu dục, có diện tích nhỏ hơn màng nhĩ 18 – 20 lần).
Khoang tai thông với hầu nhờ có vòi nhĩ nên bảo đảm áp suất hai bên màng nhĩ được cân bằng.
-Tai trong gồm có hai bộ phận:
+Bộ phận tiền đình và các ống bán khuyên thu nhận các thông tin về vị trí và sự chuyển động
của cơ thể trong không gian.
+Ốc tai thu nhận các kích thích của sóng âm. Ốc tai bao gồm ốc tai xương, trong có ốc tai
màng. Ốc tai màng là một ống màng chạy dọc suốt ốc tai xương và cuốn quanh trụ ốc hai vòng rưỡi,
gồm màng tiền đình ở phía trên, màng cơ sở ở phía dưới và màng bên áp sát vào vách xương của ốc tai
xương. Màng cơ sở có khoảng 24.000 sợi liên kết dài ngắn khác nhau: dài ở đỉnh ốc và ngắn dần khi
xuống miệng ốc. Chúng giăng ngang từ trụ ốc sang thành ốc.
Trên màng cơ sở có cơ quan Coocti, trong đó có các tế bào thụ cảm thính giác.
b) Sinh lý của sự tạo ra cảm giác nghe
Sóng âm từ nguồn âm phát ra được vành tai hứng lấy, truyền qua ống tai vào làm rung màng
nhĩ, rồi truyền qua chuỗi xương tai vào làm rung màng “cửa bầu” và cuối cùng làm chuyển động ngoại
dịch rồi nội dịch trong ốc tai màng, tác động lên cơ quan Coocti.
Tùy theo sóng âm có tần số cao (âm bổng) hay thấp (âm trầm), mạnh hay yếu mà sẽ làm cho
các tế bào thụ cảm thính giác của cơ quan Cooti ở vùng này hay vùng khác trên màng cơ sở hưng phấn,
truyền về vùng phân tích tương ứng ở não cho ta nhận biết về các âm thanh đó.
Như vậy, tai là bộ phận tiếp nhận âm thanh. Sóng âm vào tai làm rung màng nhĩ, truyền qua
chuỗi xương tai vào tai trong gây sự chuyển động ngoại dịch rồi nội dịch trong ốc tai màng và tác động
lên các tế bào thụ cảm thính giác của cơ quan Cooti nằm trên màng cơ sở ở vùng tương ứng với tần số
và cường độ của sóng âm làm các tế bào này hưng phấn chuyển thành xung thần kinh truyền về vùng
thính giác ở thùy thái dương của não cho ta nhận biết về âm thanh đã phát ra.
2.1.3.2/ Cảm giác nghe
Sóng âm thanh tác động lên bộ máy thính giác. Từ đó, cảm giác nghe có thể được tạo ra bởi
quá trình dao động chu kỳ cũng như bởi quá trình dao động phi chu kỳ với tần số và biên độ dao động
thay đổi không đều. Loại dao động chu kỳ phản ánh trong âm nhạc, còn loại dao động phi chu kỳ phản
ánh trong tạp âm1. Cảm giác nghe phản ánh những thuộc tính của âm thanh, tiếng nói: cao độ (tần số
dao động), cường độ (biên độ dao động) và âm sắc (hình thức dao động)2. Ngoài ra, cảm giác âm thanh
thay đổi theo độ thăng trầm, độ to nhỏ và theo âm sắc.3
Như vậy, cảm giác nghe là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật
thông qua cao độ, cường độ và âm sắc của sóng âm thanh đang được phát ra từ sự vật đó và đang tác
động vào tai.
2.1.3.3/ Tri giác nghe
Tri giác nghe là một quá trình tâm lý được chuyển hóa từ cảm giác nghe, phản ánh trọn vẹn
các thuộc tính bề ngoài của sự vật thông qua những cảm giác đã có về cao độ, cường độ và âm sắc của
âm thanh đang được phát ra từ sự vật đó và đang tác động vào tai.
2.1.3.4/ Thính giác
1 I.2, 66.
2 I.12, 72.
3 I.8, 208
Thính giác là một loại nhận thức cảm tính phản ánh một hay nhiều thuộc tính bề ngoài của sự
vật thông qua cao độ, cường độ và âm sắc của âm thanh phát ra từ sự vật đó đang trực tiếp tác động
vào giác quan tai.
2.1.4/ Khứu giác (cảm giác và tri giác ngửi)
2.1.4.1/Cơ sở sinh lý của cảm giác ngửi
a) Giải phẫu mũi
Mũi là giác quan để ta có cảm giác ngửi thấy mùi. Trong mũi có xoang mũi là nơi có các tế bào
thần kinh khứu giác chuyên tiếp nhận các kích thích của các phân tử hóa học của vật chất bốc hơi hoặc
của các hạt rất nhỏ trong không khí được hít vào mũi và chạm vào xương mũi.
Khả năng ngửi mùi là kết quả của sự hoạt hóa các tế bào nhận cảm khứu giác ở mũi, các tế bào
này được chứa trong lớp màng nhầy khứu giác ở khoang mũi .
b) Sinh lý của sự tạo ra cảm giác ngửi
Cảm giác ngửi bao gồm một chuỗi các hoạt tính sinh hóa học phát sinh các xung động thần
kinh và truyền tín hiệu điện vào não để phát sinh ở đó cảm giác ngửi thấy mùi gì đó (thơm, thối, hôi,
tanh, v.v…). Mùi, dưới dạng những phân tử hóa học tương tác với protein thụ thể trên màng của các tế
bào lông rung ở mũi. Một khi khởi động, các xung động thần kinh này truyền thông tin mùi đến hành
khứu nằm ngay trên các thụ thể và ngay dưới thùy trán của vỏ não làm nhiệm vụ chuyên môn hóa trong
xử lý thông tin về mùi là khứu não, một trong những bộ phận nguyên thủy của não. Những tín hiệu
khứu giác trực tiếp đi tới trung tâm khứu giác của não.
Hệ thống khứu giác đóng một vai trò rõ ràng qua việc kích thích khẩu vị và tập tính ăn uống.
2.1.4.2/ Cảm giác ngửi
Cảm giác ngửi là một quá trình tâm lý phản ánh một thuộc tính riêng lẻ của sự vật thông qua
các mùi (hay các phân tử hóa học) của sự vật đó đang tác động vào mũi
2.1.4.3/ Tri giác ngửi
Tri giác ngửi là một quá trình tâm lý được chuyển hóa từ các cảm giác ngửi, phản ánh trọn vẹn
thuộc tính bề ngoài của sự vật thông qua các mùi (hay các phân tử hóa học) của sự vật đó đang tác
động vào mũi.
2.1.4.4/ Khứu giác