BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
————————-
Nguyễn Thanh Thủy
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
————————-
Nguyễn Thanh Thủy
Chuyên ngành : Tâm lý học
Mã số
: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ THU MAI
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
dữ liệu và kết quả được trình bày trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác
Tác giả luận văn
Nguyễn Thanh Thủy
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện và hoàn tất luận văn tôi nhận được sự
giúp đỡ và động viên khích lệ của bạn bè, đồng nghiệp và điều này thực
sự có ý nghĩa quan trọng đối với tôi. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến tập thể lớp Tâm lý học K21 đã luôn sát cánh bên tôi trong quá
trình thực hiện luận văn và luôn nhiệt tình chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm
cùng tôi.
Tôi đặc biệt chân thành cảm ơn Tiến Sỹ Trần Thị Thu Mai,
người hướng dẫn nhiệt tình và đầy trách nhiệm. Tôi biết ơn sâu sắc
những chỉ dẫn quan trọng về kiến thức chuyên môn cũng như về cách
thực hiện mà cô đã truyền đạt cho tôi.
Tp, Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2012
Tác giả
Nguyễn Thanh Thủy
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP
HỌC PHẦN “NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN”
………………………………………… 7
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ……………………………………………………………. 7
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
…………………………………… 7
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước …………………………………. 13
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về tính tích cực học tập ……………………. 16
1.2.1. Tính tích cực ……………………………………………………………………… 16
1.2.2. Tính tích cực học tập
………………………………………………………………. 22
1.2.3. Tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin”
………………………………………………………. 28
1.2.4. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi sinh viên ……………………………………….. 36
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP HỌC PHẦN
“NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC-LÊNIN” CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
…. 40
2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng ……………………………………………………. 40
2.1.1. Bước khảo sát thăm dò …………………………………………………………. 40
2.1.2. Bước khảo sát thực trạng ………………………………………………………. 41
2.2. Vài nét về trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh ………………………………………………………………………………….. 42
2.3. Đặc điểm đặc thù của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
thành phố Hồ Chí Minh ……………………………………………………………… 43
2.4. Việc giảng dạy học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin” ở trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh ………………………………………………………………………………….. 44
2.5. Kết quả khảo sát thực trạng tính tích cực học tập học phần “Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh viên trường
Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh ………………………. 44
2.5.1. Kết quả đánh giá về tính tích cực học tập học phần “Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh viên
trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh …….. 44
2.5.2. Những yếu tố tác động đến tính tích cực học tập học phần
“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của
sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh …………………………………………………………………………… 61
2.5.3. Kết quả học tập học phần của sinh viên trường Đại học Sư
phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh ………………………………… 76
2.6. Đề xuất biện pháp phát huy tính tích cực học tập học phần “Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –Lênin” của sinh viên trường
Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh ………………………. 78
2.6.1. Cơ sở đề xuất biện pháp
………………………………………………………… 78
2.6.2. Đề xuất một số biện pháp cụ thể
…………………………………………….. 78
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……………………………………………………………. 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………. 91
PHỤ LỤC …………………………………………………………………………………………… 1
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực học tập của sinh viên
……… 49
Bảng 2.2: Hoạt động của sinh viên đối với học phần “Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”
…………………………………………… 52
Bảng 2.3 : Xếp hạng các yếu tố theo tầm quan trọng ……………………………. 61
Bảng 2.4: Ảnh hưởng của các yếu tố đến tính tích cực học tập của sinh
viên
…………………………………………………………………………………. 63
Bảng 2.5: Đánh giá của sinh viên về các yếu tố
…………………………………… 65
Bảng 2.6: Tầm ảnh hưởng của các yếu tố đến tính tích cực học tập học
phần của sinh viên
…………………………………………………………….. 66
Bảng 2.7: Các yếu tố hội tụ nên một giờ giảng tích cực hóa người học ….. 68
Bảng 2.8: Tầm ảnh hưởng của các yếu tố đến tính tích cực học tập học
phần của sinh viên
…………………………………………………………….. 68
Bảng 2.9: Mức độ thực hiện hoạt động dạy của giảng viên
…………………… 69
Bảng 2.10: Mức độ thực hiện hoạt động dạy của giảng viên
…………………… 73
Bảng 2.11: Mức độ thực hiện hoạt động dạy của giảng viên
…………………… 74
Bảng 2.12: Kết quả học tập của sinh viên …………………………………………….. 77
Bảng 2.13: Học lực của sinh viên
………………………………………………………… 77
Bảng 2.14: Các biện pháp phát huy tính tích cực của sinh viên. ……………… 80
Bảng 2.15: Mức độ cần thiết của việc áp dụng các yếu tố
………………………. 81
Bảng 2.16 : Biện pháp phát huy tính tích cực học tập của sinh viên …………. 84
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 : Tầm quan trọng của học phần
…………………………………………. 45
Biều đồ 2.2 : Học phần là nền tảng cho môn học sau ……………………………. 46
Biểu đồ 2.3 : Học phần đem đến hiểu biết lịch sử, chính trị, xã hội ………… 47
Biểu đồ 2.4 : Học phần giúp hình thành thế giới quan cho sinh viên ………. 47
Biểu đồ 2.5 : Việc đến lớp của sinh viên
……………………………………………… 50
Biểu đồ 2.6 : Mức độ thực hiện việc phát biểu xây dựng bài của sinh viên 51
Biểu đồ 2.7 : Mức độ tập trung trong giờ học của sinh viên
…………………… 55
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trên đà đi lên hội nhập với nền kinh tế thế giới, nội
lực mạnh mẽ phải kể đến là nhờ có đội ngũ trẻ đang được sử dụng ngày một
hiệu quả. Những sản phẩm của giáo dục chính là nguồn nhân lực dồi dào cho
đất nước, như lời của chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy rằng: “Một năm bắt đầu
bằng mùa xuân, đời người bắt đầu bằng tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của xã
hội”.
Sinh viên là những tri thức tương lai của đất nước, họ là những người
đóng vai trò chủ chốt trong nền kinh tế trí thức hiện nay. Thế kỷ XXI là thế
kỷ của văn minh trí tuệ, sự phát triển khoa học kỹ thuật, nên rất cần những
con người trẻ tuổi, có trình độ và năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp nhận cái
mới rất nhanh và biết thay đổi linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự thay đổi
nhanh chóng của xã hội hiện đại. Họ cũng là những người làm chủ vận mệnh
của đất nước tương lai. Với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
từng bước hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức, trong những năm gần đây
chính phủ đã không ngừng gia tăng các nguồn lực đầu tư cho giáo dục và cải
cách giáo dục, tạo môi trường thuận lợi để sinh viên tham gia học tập.
Tuổi trẻ là nền tảng cho một đời người. Với những sinh viên, những
người đang ngồi trên ghế giảng đường Đại học, đây là khoảng thời gian vô
cùng quan trọng để tích lũy lâu dài kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp tư
duy và bản lĩnh chính trị. Từ điểm xuất phát này, con người trưởng thành và
bước vào đời. Nếu điểm xuất phát tốt họ sẽ đạt được những bước đi dài ổn
định và vững chắc trong tương lai, ngược lại con đường đi sẽ gặp khó khăn
trở ngại. Do đó, vấn đề học tập của người sinh viên mà đặc biệt là sự thích
thú, tích cực và sáng tạo trong học tập sẽ là yếu tố quyết định đến sự thành đạt
trong tương lai.
2
Trước những khó khăn, thử thách mà cuộc sống mới đặt ra, người sinh
viên càng phải thể hiện tính chủ động tích cực của mình không chỉ trong hoạt
động học tập ở nhà trường mà trong hoạt động sống nói chung. Tính tích cực
học tập là chủ đề được nhiều trường Đại học hiện nay quan tâm vì nó như một
minh chứng phản ánh tình hình học tập của sinh viên và trên cơ sở đó có thể
dự đoán được kết quả học tập của sinh viên. Từ đó có thể hình dung ra chất
lượng đầu ra của nhà trường.
Thực tế cho thấy nhiều nhà tuyển dụng cho rằng sinh viên sau khi tốt
nghiệp còn thiếu nhiều tri thức và kỹ năng cần thiết cho công việc một phần là
do sinh viên thiếu tích cực trong học tập và hoạt động sống nói chung ngay từ
khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Vì thế việc tìm hiểu tính tích cực trong
học tập của sinh viên là điều rất cần thiết.
Trong quá trình học tập tại Đại học hầu hết sinh viên các trường đều
phải học tập các môn thuộc chương trình đại cương, và một trong những môn
học đại cương mà các em sinh viên chưa tìm được sự hấp dẫn thực sự đó là
học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”. Đây không
chỉ là học phần bắt buộc về mặt đào tạo chính quy mà nó còn có ý nghĩa trang
bị cho người học những kiến thức nền tảng cho việc nhận thức ở mức độ cao
hơn về các môn học nói riêng và về tự nhiên và xã hội nói chung. Do đó việc
học tập môn học này một cách tích cực sẽ đem lại hiệu quả cho người học
trong việc đánh giá, nhìn nhận, tư duy logic và là tiền đề thuận lợi cho một kỹ
sư hay một giáo viên kỹ thuật trong tương lai.
Thực tế cho thấy, sinh viên kỹ thuật hiện nay chưa thực sự yêu thích
các môn học xã hội nói chung và học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin” nói riêng mặc dù các em đã ý thức được phần nào tầm
quan trọng của nó. Vì thế việc tìm hiểu về tính tích cực học tập học phần này
là việc làm cần thiết không chỉ đối với việc phát triển nhận thức cho người
3
học mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với chiến lược phát triển toàn diện
người học của trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh
Tính tích cực học tập của sinh viên đã có nhiều tác giả nghiên cứu
nhưng nghiên cứu về tính tích cực học tập đối với học phần “Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm
Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh thì chưa có ai nghiên cứu.
Từ những lý do nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tính
tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin” của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trên cơ sở đó đề tài đề xuất một số
biện pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mac – Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật thành phố Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu:
Tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh.
• Khách thể nghiên cứu:
– 330 sinh viên thuộc các Khoa: Điện – Điện Tử, Cơ Khí Động Lực, Cơ Khí
Chế Tạo Máy, Công Nghệ Thông Tin, Hóa Thực Phẩm, Công Nghệ May
& Thiết Kế Thời Trang.
– Giảng viên khoa Lý luận chính trị.
4
4. Giả thuyết nghiên cứu
– Sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật hiện nay đã thể hiện được
tính tích cực học tập đối với học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác –Lênin” nhưng chưa cao.
– Có nhiều yếu tố khách quan có tác động đến tính tích cực học tập học phần
“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –Lênin” nhưng yếu tố về nội
dung chương trình và phương pháp giảng dạy của giáo viên có tác động
trực tiếp và mạnh mẽ nhất.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Nghiên cứu các vấn đề lý luận về tính tích cực học tập học phần “Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”.
– Khảo sát thực trạng tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật thành phố Hồ Chí Minh và xác định các yếu tố chủ quan và khách
quan tác động đến tính tích cực học tập học phần. Từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập học phần cho sinh viên
trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM.
6. Phạm vi nghiên cứu
– Về nội dung: đề tài chỉ đề cập đến các chỉ báo thuộc về mặt nhận thức, thái
độ và biểu hiện hành vi của sinh viên trong tính tích cực học tập học phần
“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”.
– Khách thể khảo sát: sinh viên thuộc các Khoa: Điện- Điện Tử, Cơ Khí Chế
Tạo Máy, Công Nghệ Thông Tin và Công Nghệ May – Thiết Kế Thời
Trang và giảng viên khoa Lý luận chính trị.
– Thời gian nghiên cứu: đề tài được thực hiện từ tháng 1/2012 đến tháng
8/2012.
5
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp thu thập tài liệu:
Nghiên cứu các vấn đề có liên quan và xác định được khái niệm công cụ
của đề tài để từ đó xác định phương pháp nghiên cứu và công cụ nghiên cứu.
Cụ thể nghiên cứu các công trình nghiên cứu khoa học, các tài liệu có liên
quan đến tính tích cực học tập và tính tích cực học tập của sinh viên từ nhiều
nguồn đáng tin cậy. Nhằm xây dựng đề cương nghiên cứu và làm những vấn
đề lý luận làm cơ sở công cụ cho các giai đoạn nghiên cứu sau.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Sử dụng các bảng hỏi dành cho sinh viên và bảng hỏi dành cho giảng
viên nhằm tìm hiểu những biểu hiện của tính tích cực học tập của sinh viên và
những nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến tính tích cực học
tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh
viên.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn sinh viên và giảng viên ngẫu nhiên và bất kỳ về các nội
dung đã chuẩn bị trước liên quan đến biểu hiện của tính tích cực đối với học
phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” và những nguyên
nhân của nó nhằm thu thập thông tin.
7.2.3. Phương pháp quan sát
Thực hiện quan sát theo mẫu phiếu nhằm thu thập thông tin một cách
khách quan thông qua việc quan sát hoạt động học tập của sinh viên trong giờ
học ở trên lớp.
7.3. Phương pháp thống kê: sử dụng phần mềm thống kê SPSS để xử lý
số liệu đã thu thập từ các phương pháp trên.
6
8. Đóng góp mới của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần:
8.1. Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về tính tích cực học tập học phần
“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”
8.2. Đưa ra những minh chứng cho việc nhìn nhận và đánh giá về thực
trạng tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Kỹ
Thuật hiện nay.
8.3. Là căn cứ để đưa ra những giải pháp phù hợp cho việc phát huy tính
tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin” của sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật hiện
nay.
9. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 2 phần chính:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Lý luận về tính tích cực học tập học phần “Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”.
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát huy tính tích
cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố
Hồ Chí Minh.
Phần 3: Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục.
7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP
HỌC PHẦN “NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN”
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Những nghiên cứu về tính tích cực học tập của các tác giả trên thế giới
chủ yếu xuất hiện trong các tác phẩm nghiên cứu về Tâm lý học hoạt động và
nhân cách…Có thể thấy trong các trường phái Tâm lý học, các tác giả đã
nghiên cứu về tính tích cực ở mặt nguồn gốc, nội dung và biểu hiện. Theo
trường phái Tâm lý học Hoạt động, Tác giả A.N.Lêônchiep cho rằng: nếu
không có hoạt động thì cá nhân không thể tồn tại trong môi trường tự nhiên và
xã hội. Tính tích cực của cá nhân được bộc lộ, nảy sinh và hình thành trong
hoạt động [23].
Thuyết Hành vi mới của Tolman cho rằng tính tích cực chỉ là tính kiên
trì đạt tới mục đích và tính tích cực này được xem xét trong mối liên hệ nhân
quả của khách thể và mục đích. Còn Skinner lại cho rằng tính tích cực của
chủ thể được tạo ra trong hệ thống hành vi, một chuỗi phản ứng tạo tác nhắm
tới các củng cố đối với một nhu cầu nào đó của cơ thể.[13]
Theo X.L.Rubinxtein thì bất kỳ hoạt động nào của con người cũng xuất
phát từ chỗ nó như là một cá nhân, một chủ thể của hoạt động đó. Học tập là
một hoạt động mang tính tích cực. Nó có nguồn gốc là động cơ cá nhân. Nó là
quá trình thích nghi của cơ thể với môi trường. Nó chính là sự chuyển hóa các
kích thích của môi trường thành tính cách của cá nhân. Nó là quá trình tái tạo
những năng lực và chức năng người ở thế hệ trước, ở nhân loại thành cái
riêng của học sinh [dẫn theo 16].
A.N.Lêônchiep cho rằng hoạt động có đối tượng thực hiện mối liên hệ
giữa chủ thể và thế giới xung quanh bao giờ cũng là hoạt động có chủ thể.
8
Tính chất có chủ thể của tồn tại sống trước hết biểu hiện trong tính tích cực
của chủ thể, như vậy tính tích cực của chủ thể chính là việc chủ thể vươn tới
chiếm lĩnh đối tượng và thực hiện một cách đam mê [10]. Học tập là một
hoạt động đòi hỏi tính tích cực của chủ thể trong quá trình cá nhân chiếm lĩnh
tri thức.
K.D.Usinxki cho rằng cơ sở vững chắc cho mọi sự học tập có hiệu quả
là tính tích cực độc lập trong quá trình dạy học. Như vậy tính tích cực được
xem là hiện tượng diễn ra ở bên trong. Sự khác nhau giữa hoạt động nói
chung và tính tích cực nằm ở chỗ có hoặc không có hiệu quả của sự tác động
làm thay đổi cái bị tác động. Hoạt động được coi là quá trình hướng ra bên
ngoài còn tính tích cực là quá trình diễn ra ở bên trong. Do đó, tính tích cực
của hoạt động là do nhu cầu kích thích và nó hướng tới việc chủ thể tác động
vào đối tượng nhằm biến đổi đối tượng theo mục đích mà chủ thể đặt ra để
thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Đối tượng của hoạt động học tập là tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo…chúng có khả năng thỏa mãn nhu cầu nhận thức, học tập
của con người nên nó trở thành động cơ đích thực thúc đẩy con người tích cực
học tập [ dẫn theo 3].
Trong tác phẩm “Dạy trẻ học”, tác giả Robert Fisher đã giới thiệu công
trình nghiên cứu 10 chiến lược dạy học và đưa ra khung hình cho một chính
sách học tập tích cực cho học sinh, sinh viên. Đó là “1. Tư duy để học; 2. Đặt
câu hỏi; 3. Lập kế hoạch; 4. Thảo luận; 5. Vẽ sơ đồ nhận thức; 6. Tư duy đa
hướng; 7. Học tập hợp tác; 8. Kèm cặp; 9. Kiểm điểm; 10. Tạo nên một cộng
đồng học tập”. Tác giả đã nêu lên cách thức học tập hiệu quả và một hệ thống
bài tập để học sinh, sinh viên bộc lộ, hình thành và phát triển cách thức học
tập đó đồng thời tích cực lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của nhân loại và
biến nó thành kiến thức của bản thân [31].
9
V.Ôcôn trong tác phẩm “Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn đề”
cho rằng tính tích cực là lòng mong muốn hành động được nảy sinh một cách
không chủ định và gây nên những biểu hiện bên ngoài hoặc bên trong của sự
hoạt động [30].
Theo Kharlamôp: “Tích cực trong học tập có nghĩa là hoàn thành một
cách chủ động, tự giác, có nghị lực, có hướng đích rõ rệt, có sáng kiến và đầy
hào hứng, những hành động trí óc và tay chân nhằm nắm vững kiến thức, kĩ
năng, kĩ xảo, vận dụng chúng vào học tập và thực tiễn.”. Như vậy tích cực là
một đức tính quý báu rất cần thiết cho mọi quá trình nhận thức, là nhân tố
quan trọng tạo nên hiệu quả dạy học [20].
Theo quan điểm của các nhà Triết Học cổ đại thì tính tích cực là sự
thỏa mãn của cơ thể với môi trường. Theo quan điểm của Democrit (460-370
TCN) thì tính tích cực chịu sự tác động của các trạng thái tâm lý bên trong.
Theo quan điểm của Platon (428- 348 TCN) thì ý thức luôn mang tính tích
cực. Theo quan điểm của Arixtole (384-322 TCN) thì tính tích cực xuất phát
từ quá trình thỏa mãn của cơ thể đối với khách thể bên ngoài và mang tính tự
nhiên. Ông giải thích bản chất của lý trí và tính tích cực của lý trí bằng
phương pháp quyết định luận. Ông cho rằng tính tích cực của chủ thể thể hiện
ở việc cải tạo lại các hình thức của sự vật. như vậy tính tích cực gắn với việc
tạo ra các sự vật hiện tượng [13].
Các nhà Triết học Duy vật về sau như C.Mác, Ph.Ăngghen, B.A.
Bronôvic [13], …khi nói về tính tích cực đều cho rằng tính tích cực là thuộc
tính chung của vật chất, là sự tự biểu hiện của hoạt động, gắn liền với sự phát
triển. Tính tích cực có 3 giai đoạn phát triển: giai đoạn thứ nhất, là giai đoạn
chuyển biến từ tính cực là thuộc tính chung của vật chất đến tính tích cực là
đặc trưng của từng sự vật. Nó đảm bảo sự sống, tự tồn tại của sự vật, trong đó
sự khác biệt giữa hoạt động của loài người và hành vi của loài vật là tính tích
10
cực của con người gắn với sự sáng tạo trên cơ sở nhận thức và thích nghi từ tự
nhiên đến xã hội. Tính tích cực nhấn mạnh tính chủ thể của sự vật.
Giai đoạn tiếp theo là sự vận động tự thân của sự vật hiện tượng nhằm
thoát khỏi trạng thái nằm yên, quân bình để tạo ra những biến đổi mới. Lúc
này tính tích cực thể hiện trong sự biến đổi trong mối quan hệ giữa chủ thể và
khách thể.
Cuối cùng, tính tích cực là sự biến đổi các trạng thái bên trong dưới ảnh
hưởng của các tác động bên ngoài. Như vậy, sự vật hiện tượng nào cũng chứa
đựng tính tích cực và nhờ tính tích cực mà sự vật hiện tượng không ngừng
phát triển. Nó là động lực thúc đẩy bên trong của mỗi sự vật hiện tượng.
Bên cạnh đó các nhà Tâm lý học Xô Viết còn đưa ra 4 xu hướng về tính
tích cực [10].
Xu hướng thứ nhất, với các đại diện như: V.P.Ditrencô,
V.L.Rômanốp…cho rằng sự phát triển tính tích cực là sự phức tạp hóa các
chức năng của tính tích cực của chủ thể [10]. Biểu hiện đầu tiên của tính tích
cực là tính chủ định trong ý thức của chủ thể đối với thế giới bên ngoài. Mặt
khác tính tích cực của con người gắn với việc tiêu hao năng lượng trong hoạt
động, do đó tính tích cực luôn gắn với hoạt động sinh lý và hoạt động tâm lý.
Hơn thế nữa tính tích cực là sự sáng tạo của chủ thể đối với thế giới bên
ngoài.
Xu hướng thứ hai, với các đại diện như: P.I.Ganpêrin, A.Aliublinxkaia,
B.G.Iarôxepxki…cho rằng tính tích cực được thể hiện trong mức độ lĩnh hội
hành động. Ganpêrin [10 ] đưa ra 4 mức độ hành động thể hiện mức độ của
tính tích cực như sau:
1. Mức độ hành động đầu tiên chưa có tính tích cực.
2. Mức độ hành động sinh lý, bắt đầu có tính tích cực và được thể hiện
thông qua điều chỉnh hành động và tác động vào nguồn gốc phát sinh
11
hành động.
3. Mức độ hành động mang tính chủ thể, thể hiện tính tích cực rõ nét trong
việc thích nghi của chủ thể đối với điều kiện và hoàn cảnh mới.
4. Mức độ hành động của con người mang tính xã hội với sự ý thức rõ
ràng và đầy đủ về hành động xã hội của mình.
Theo Liublinxkaia [10] có 3 mức độ thể hiện tính tích cực. Đó là:
1. Hành động bắt chước
2. Hành động theo mẫu
3. Hành động độc lập và sáng tạo.
Như vậy tính tích cực của con người luôn gắn với hoạt động và mức
độ của nó tăng dần theo sự thích nghi và trưởng thành làm chủ của con người
đối với tự nhiên và xã hội. Trong đó mức độ cao nhất là hành động mang tính
sáng tạo và độc lập, gắn với việc tạo ra cái mới được nảy sinh từ sự nỗ lực và
phát huy khả năng làm việc trí não của chủ thể.
Xu hướng thứ 3, với các đại diện như: M.I.Lixina, A.N.Lêônchiep,
A.V.Dapôrôzet…[ 11] đưa ra biểu hiện của tính tích cực, đó là:
1. Tính tích cực luôn gắn với hành động cụ thể.
2. Tính tích cực phản ánh sự sẵn sàng thực hiện nhu cầu của chủ thể.
3. Nhu cầu là nguồn gốc và tạo ra động lực cho tính tích cực. Không có
nhu cầu thì không có tính tích cực.
Như vậy theo xu hướng thứ 3 thì tính tích cực chỉ là sự sẵn sàng và nỗ
lực thực hiện các nhu cầu của bản thân chủ thể mà chưa có sự đánh giá về tính
chất của nhu cầu và cấp độ của nhu cầu.
Xu hướng thứ 4, với các đại diện: L.M.Ackhanghenxki (Liên Xô),
R.Mile (CHDC Đức), I.A.Nhetophilic (Tiệp Khắc), M.Mikhalich (Ba Lan),
I.Lich (Hungary) [1] cho rằng tính tích cực có 4 chỉ số là:
1. Tính giá trị của hành động và tính tự nguyện.
12
2. Tính hiệu quả của hoạt động mà tính tích cực hướng tới.
3. Tính sáng tạo trong hoạt động
4. Tính phát triển.
Có thể nói theo xu hướng thứ 4, tính tích cực được phân định theo 4 chỉ
số nhấn mạnh đến tính chủ thể và tính sáng tạo trong hoạt động. Đây là những
yếu tố nằm bên trong chủ thể và nó do chủ thể quyết định.
Kết luận về 4 xu hướng trên theo các nhà Tâm lý học Xô Viết có thể
thấy tính tích cực được bàn đến ở đây có các dấu hiệu như: luôn gắn với hoạt
động cụ thể của con người, nhu cầu là nguồn gốc bên trong của tính tích cực,
luôn gắn với tính chủ động của chủ thể và kết quả của hoạt động phản ánh
mức độ của tính tích cực.
Các nhà Triết học Mácxít thừa nhận rằng con người có khả năng nhận
thức được thế giới và con người. Tính tích cực của con người được thể hiện
trong việc chinh phục, cải tạo thế giới tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
V.I.Lênin khẳng định “Tính tích cực là thái độ cải tạo thế giới của chủ
thể đối với khách thể, đối với đối tượng, sự vật xung quanh, là kinh nghiệm
của mỗi người đối với việc tổ chức cuộc sống, điều chỉnh nhân cách và năng
lực của họ thông quan các mối quan hệ xã hội” [22].
C.Mác cho rằng bản chất của con người mang tính lịch sử xã hội và
tính tích cực hoạt động. Trong đó Mác nhấn mạnh tính tích cực hoạt động của
con người là phương thức để con người tồn tại và con người hoạt động tích
cực sẽ đem lại sự hoàn thiện của giác quan. Kết quả của hoạt động hay sản
phẩm lao động sẽ phản ánh tính tích cực của chủ thể. Nó phản ánh các phẩm
chất tâm lý của chủ thể [26].
S.Freud cho rằng tính tích cực của con người được hiểu như một sức
mạnh tự nhiên giống như bản năng động vật. Ông nhấn mạnh 3 khối của đời
sống tinh thần của con người là khối cái tôi, cái nó, cái siêu tôi trong đó cái nó
13
– cái vô thức có sức mạnh ghê gớm trong việc thúc đẩy con người hoạt động
để thỏa mãn nhu cầu của bản thân [13].
Theo quan điểm của thuyết Hành vi thì công thức S-R (stimulate –
reaction) có ý nghĩa chứng tỏ tính tích cực của con người là hành vi mang tính
máy móc nhằm đáp trả lại những kích thích từ môi trường. Con người bị bỏ
quên tính ý thức trong việc lựa chọn các kích thích cũng như mức độ tích cực
của việc đáp trả, điều chỉnh hoạt động [13].
Các nhà Tâm lý học Mácxít lại cho rằng ý thức, tâm lý người bao giờ
cũng mang tính tích cực, hơn nữa, tính tích cực này là tính tích cực hoạt động
đặc thù người, nghĩa là nó mang tính chất say sưa vì nó luôn gắn bó với sự
thực hiện mục đích của hoạt động. Theo quan điểm của họ, cuộc sống của con
người là một chuỗi các hoạt động luôn luôn thay thế lẫn nhau. Tính tích cực
của con người là sự tác động vào thế giới tự nhiên và xã hội để làm chủ thế
giới đó. Tính tích cực của con người được thể hiện ở những hoạt động muôn
màu, muôn vẻ và đa dạng nhằm biến đổi, cải tạo thế giới xung quanh, cải tạo
bản thân con người và những đặc trưng tâm lý của con người [13].
Như vậy các nhà nghiên cứu đều cho rằng tính tích cực của học sinh
được nảy sinh, hình thành và phát triển trong hoạt động và được thể hiện
trong kết quả của hoạt động. Đó là sự chiếm lĩnh đối tượng dựa trên cơ sở huy
động các chức năng tâm lý ở mức độ cao.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Các Tác giả trong nước khi nghiên cứu về tính tích cực học tập thường
đứng ở các góc nhìn khác nhau về nguồn gốc và các thành tố tâm lý của tính
tích cực. Các nhà Tâm lý học Việt Nam như Phạm Minh Hạc, Phạm Tất
Dong, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy, Ngô Công Hoàn đều cho rằng
tính tích cực là thuộc tính của nhân cách, nó bao gồm các thành tố tâm lý như
nhu cầu, động cơ, hứng thú, niềm tin…và được biểu hiện trong hoạt động đa
14
dạng nhằm cải tạo và chinh phục tự nhiên, xã hội và bản thân con người [9].
Tác giả Hoàng Thị Tuyết trong bài viết về “Đặc điểm tâm lý của tính
tích cực” đã phân tích và làm rõ hoạt động tích cực học tập, những biểu hiện
của tính tích cực về mặt nhận thức, tình cảm, xúc cảm…đồng thời cũng đưa
ra các nhân tố giáo dục có ảnh hưởng đến việc phát huy tính tích cực nhận
thức của người học [ 35 ].
Tác giả Ngô Thị Dung cho rằng tính tích cực là toàn bộ những biểu
hiện của sự hoạt động cá nhân riêng lẻ có mục đích thỏa mãn nhu cầu của
riêng mình. Như vậy có hoạt động là có tích cực. sự khác nhau về tính tích
cực giữa các cá nhân là ở mức độ tính tích cực cao hay thấp. Mức độ tính tích
cực phụ thuộc vào nhu cầu cá nhân. Về bản chất tính tích cực học tập là trạng
thái các mức độ sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập để đạt được mục tiêu
hoạt động cá nhân và cùng giải quyết nhiệm vụ học tập chung của tập thể, của
nhóm [ 7 ].
Tác giả Thái Duy Tuyên trong tác phẩm “Phát huy tính tích cực hoạt
động nhận thức của người học” đã nhấn mạnh những nhân tố ảnh hưởng đến
tính tích cực nhận thức của học sinh [ 34 ].
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết cho rằng: con người là chủ thể của hoạt
động và con người càng tích cực hoạt động thì tính chủ thể càng cao và do đó
con người sẽ dần dần hoàn thiện [36].
Trong luận án Phó tiến sỹ của tác giả Nguyễn Xuân Thức với đề tài
“Nghiên cứu tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động
vui chơi” đã làm rõ cơ sở lý luận của tính tích cực và tính tích cực giao tiếp
đồng thời đi sâu vào nghiên cứu đối tượng trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi để đưa ra
những minh chứng cho việc thể hiện tính tích cực giao tiếp của chúng trong
hoạt động vui chơi [33].
15
Cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh rằng: bí quyết quan
trọng nhất là phương pháp học tập, người dạy phải làm cho học sinh, sinh
viên luôn suy nghĩ, huy động tiềm năng của chúng còn người học thì phải say
mê, kiên trì, học có phương pháp và biết tư duy hiệu quả [8].
Tác giả Đặng Vũ Hoạt cho rằng tính tích cực biểu hiện ở chỗ huy động
ở mức độ cao các chức năng tâm lý, đặc biệt là chức năng tư duy. Trong đó sự
kết hợp thống nhất giữa các yếu tố tâm lý nhận thức, tình cảm và ý chí càng
linh hoạt bao nhiêu thì tính tích cực càng cao bấy nhiêu [16].
Có thể kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả như Nguyễn
Văn Thàng, Phan Trọng Ngọ, Phạm Thành Nghị đã khẳng định hoạt động học
tập là một quá trình nhận thức tích cực. Đó là hoạt động đặc thù chỉ có ở con
người nhằm lĩnh hội tri thức nhân loại và chuyển thành tâm lý, ý thức của bản
thân nên muốn đạt được mục đích dạy học thì phải tạo ra được tính tích cực
học tập. Các tác giả cũng chỉ ra việc hình thành tính tích cực học tập ở học
sinh, sinh viên là quá trình hình thành hoạt động học ở họ [14].
Tác giả Trần Bá Hoành lại cho rằng tính tích cực học tập của học sinh,
sinh viên nằm ở khát khao khoa học hay nêu lên thắc mắc, sự tập trung chú ý
hay tinh thần vượt khó để đạt được mục đích. Biểu hiện của tính tích cực
được thể hiện ở những mức độ khác nhau : tìm tòi, tái tạo và sáng tạo [15].
Tác giả Lê Thị Xuân Liên trong bài báo“ Phát huy tính tích cực của học
sinh, sinh viên trong dạy toán học ở các trường Cao Đẳng Sư Phạm” đã đưa ra
các hình thức biểu hiện của tính tích cực sau khi phân tích đặc điểm và
phương diện của tính tích cực được thể hiện trong các dạng hoạt động phong
phú và đa dạng [21].
Luận án Tiến Sỹ Giáo Dục Học của Tác giả Nguyễn Thị Hường với đề
tài “Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh bằng quan sát kết hợp
thảo luận nhóm trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở bậc Tiểu học” đã
16
đưa ra dấu hiệu nhận biết về tính tích cực học tập của học sinh [19].
Luận án Tiến Sỹ Tâm lý học của Tác giả Đỗ Thị Coỏng với đề tài
“Nghiên cứu tính tích cực học tập môn Tâm lý học của sinh viên Đại Học Sư
Phạm Hải Phòng” đã nghiên cứu các vấn đề thuộc về mặt nhận thức, biểu
hiện hành vi trong hoạt động học và mối quan hệ giữa tính tích cực học tập và
kết quả môn học [4].
Như vậy trong các công trình nghiên cứu của mình các tác giả chủ yếu
đề cập đến tính tích cực học tập của sinh viên là sự say mê, tìm tòi, khám phá
tri thức vì vậy người dạy phải có phương pháp thích hợp để kích thích tính
chủ động và phát triển óc sáng tạo cho người học.
Xét riêng về những công trình nghiên cứu về tính tích cực học tâp học
phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” thì chỉ có một số
đề tài nghiên cứu về tính tích cực học tập các môn Lý Luận Chính Trị nói
chung. Như vậy việc nghiên cứu tính tích cực học tập học phần “Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” của sinh viên là việc làm cần
thiết và có tính thiết thực, đặc biệt là việc đi sâu vào việc tìm hiểu các thành
phần cơ bản của tính tích cực như nhận thức, thái độ và hành vi học tập của
sinh viên để từ đó kích thích họ tích cực hơn với học phần này.
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về tính tích cực học tập
1.2.1. Tính tích cực
1.2.1.1. Khái niệm về tính tích cực
Theo từ điển Tiếng Việt [39] tính tích cực bao gồm 3 nghĩa:
Một là, có ý nghĩa có tác dụng khẳng định thúc đẩy sự phát triển trái
với tiêu cực.
Hai là, có tính chủ động, có những hoạt động nhằm tạo ra biến đổi theo
hướng phát triển.
Ba là, có sự hăng hái nhiệt tình với nhiệm vụ với công việc.
17
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã coi cá nhân là sản
phẩm của quan hệ xã hội và cho rằng cá nhân tích cực tác động vào đời sống
xã hội và trở thành con người hoạt động làm phát triển xã hội. tính tích cực
thể hiện ở sức mạnh của con người trong việc chinh phục và cải tạo thế giới
tự nhiên, xã hội và cải tạo chính bản thân mình. Theo V.I. Lênin tính tích cực
là thái độ cải tạo của chủ thề đối với khách thể, đối với đối tượng xung quanh;
là khả năng của mỗi người đối với việc tổ chức cuộc sống, điều chỉnh nhu
cầu, năng lực của họ thông qua các mối quan hệ xã hội [22]. Đây là cơ sở
phương pháp luận để chúng tôi nghiên cứu tính tích cực học tập của sinh viên
đối với học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”
Theo Tâm lý học Mácxít thì tính tích cực của con người được xem xét
trên lập trường quyết định luận xã hội. tính tích cực được đề cập đến và nhấn
mạnh như là một đặc điểm của sinh vật sống, là động lực đặc biệt của mối
liên hệ giữa sinh vật sống, hoàn cảnh, là khả năng đặc biệt của tồn tại sống
giúp cơ thể thích ứng với môi trường [26].
Tính tích cực gắn liền với hoạt động và hoàn cảnh bên ngoài, nó được
biểu hiện như sau:
– Gắn liền với sự hoạt động được thể hiện như là động lực để hình
thành và hiện thực hóa hoạt động.
– Thể hiện ở sự thích ứng một cách chủ động với hoàn cảnh, môi
trường sống bên ngoài.
Như vậy tính tích cực được nghiên cứu trong mối quan hệ với hoạt
động, nó làm xuất hiện động lực thúc đẩy con người hoạt động hiệu quả. Vì
vậy tính tích cực có các tính chất sau:
– Hoạt động phản ứng của chủ thể với môi trường.
– Hoạt động ý chí thể hiện tính độc lập của chủ thể đối với môi trường.
– Tính chất vượt khó khăn, trở ngại trong mọi hoàn cảnh theo mục đích