BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN GIANG LAM
NHỮNG PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TIỀN GIANG
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRƯƠNG CÔNG THANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………………………………..
1
1. Lý do lựa chọn đề tài……………………………………………………………………………..
8
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………………………………..
9
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu …………………………………………………………
9
4. Giới hạn nghiên cứu
…………………………………………………………………………….
10
5. Giả thuyết nghiên cứu ………………………………………………………………………….
10
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
…………………………………………………………………………..
11
7. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………………………………..
11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ………………………………………
15
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề ………………………………………………………………….
15
1.1.1 Nghiên cứu phẩm chất nghề nghiệp ở nước ngoài ………………………………… 15
1.1.2 Nghiên cứu phẩm chất nghề nghiệp ở Việt Nam
…………………………………… 18
1.2 Cơ sở lý luận về phẩm chất nghề nghiệp ………………………………………………
24
1.2.1 Phẩm chất và phẩm chất nghề nghiệp …………………………………………………… 24
1.2.1.1 Khái niệm “phẩm chất”
………………………………………………………………..
24
1.2.1.2 Khái niệm “phẩm chất nghề nghiệp” ……………………………………………..
26
1.2.1.3 Mức độ và biểu hiện của sự phù hợp với yêu cầu của nghề ………………
27
1.2.1.4 Quá trình hình thành các phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên ………..
28
1.2.2 Phẩm chất nghề sư phạm ……………………………………………………………………… 29
1.2.2.1 Khái niệm phẩm chất nghề sư phạm
……………………………………………….
29
1.2.2.2 Thành phần phẩm chất nghề sư phạm …………………………………………….
29
1.2.3 Phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm …………………………………….. 38
1.2.3.1 Những cơ sở để xác định phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên
sư phạm …………………………………………………………………………………………………
38
1.2.3.2 Phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm
………………………………..
44
1.2.4 Các yếu tố tác động đến quá trình hình thành phẩm chất nghề
nghiệp của sinh viên sư phạm ……………………………………………………………………….. 46
1.2.4.1 Tính tích cực của sinh viên sư phạm
……………………………………………….
47
1.2.4.2 Nhóm các yếu tố nhà trường, gia đình và xã hội
………………………………
47
CHƯƠNG 2: PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN SƯ
PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC TIỀN GIANG
………………………………………….
50
2.1 Thể thức nghiên cứu ………………………………………………………………………….
50
2.1.1 Về khách thể nghiên cứu
………………………………………………………………………. 50
2.1.2 Về công cụ nghiên cứu
…………………………………………………………………………. 52
2.2 Nhận thức về các phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm
trường Đại học Tiền Giang ………………………………………………………………………
55
2.2.1 Nhận thức về các phẩm chất nghề nghiệp …………………………………………….. 55
2.2.2 Nhận thức về sự thành công trong nghề nghiệp
…………………………………….. 58
2.3 Thực trạng về mức độ đạt được các phẩm chất nghề nghiệp của sinh
viên sư phạm trường Đại học Tiền Giang
…………………………………………………..
61
2.3.1 Thực trạng chung về mức độ đạt được các phẩm chất nghề nghiệp ………. 61
2.3.2 Mức độ đạt được các phẩm chất đạo đức nghề
……………………………………… 63
2.3.3 Mức độ đạt được các năng lực chuyên môn và năng lực sư phạm
…………. 71
2.3.3.1 Mức độ đạt được các năng lực chuyên môn …………………………………….
71
2.3.3.2 Mức độ đạt được các năng lực sư phạm
………………………………………….
73
2.4 Những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ đạt được chất nghề nghiệp của
sinh viên sư phạm trường Đại học Tiền Giang
……………………………………………
88
2.4.1 Đánh giá của sinh viên sư phạm về tầm quan trọng và mức độ biểu
hiện tác động của các yếu tố ảnh hưởng
……………………………………………………….. 88
2.4.2 Mối liên hệ giữa tính tích cực cá nhân và phương pháp rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm với mức độ đạt được phẩm chất nghề nghiệp ………………….. 92
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VỀ PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN
PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM ………………
96
3.1 Đánh giá phương pháp đào tạo, rèn luyện phẩm chất nghề nghiệp
sinh viên sư phạm ở trường Đại học Tiền Giang
…………………………………………
96
3.1.1 Điểm mạnh ………………………………………………………………………………………….. 96
3.1.2 Điểm yếu:
…………………………………………………………………………………………….. 97
3.1.3 Cơ hội ………………………………………………………………………………………………….. 98
3.1.4 Thách thức …………………………………………………………………………………………… 99
3.2 Giải pháp về phương pháp đào tạo, rèn luyện phẩm chất nghề nghiệp
sinh viên sư phạm …………………………………………………………………………………..
99
3.2.1 Giải pháp ngắn hạn ………………………………………………………………………………. 99
3.2.2 Giải pháp chiến lược…………………………………………………………………………… 105
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ………………………………………………………………
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
• CĐ: Cao đẳng
• ĐH: Đại học
• ĐTB: Điểm trung bình
• ĐLC: Độ lệch chuẩn
• GVHD: Giáo viên hướng dẫn
• GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo
• NXB: Nhà xuất bản
• NVSP: Nghiệp vụ sư phạm
• SVSP : Sinh viên sư phạm
• SP: Sư phạm
• THCS: Trung học cơ sở
• THPT: Trung học phổ thông
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Tỷ lệ khách thể nghiên cứu theo khóa học, trình độ
………………….
45
Bảng 2.2 Tỷ lệ khách thể sinh viên theo nhóm ngành
……………………………….
46
Bảng 2.3 Điểm mã hóa về các mức độ nhận thức của SVSP ……………………..
48
Bảng 2.4 Các mức độ đạt được phẩm chất nghề nghiệp của SVSP
…………….
49
Bảng 2.5 Nhận thức về các phẩm chất nghề sư phạm
………………………………
51
Bảng 2.6 Nhận thức về các văn bản qui định Chuẩn giáo viên các bậc
học ……………………………………………………………………………………………………………….
52
Bảng 2. 7 Quan niệm của sinh viên về sự thành công trong nghề dạy học
…..
53
Bảng 2.8 Tổng quan mức độ đạt được phẩm chất nghề nghiệp ………………….
57
Bảng 2.9 Biểu hiện phẩm chất yêu học sinh
…………………………………………….
65
Bảng 2.10 Biểu hiện lòng yêu nghề ………………………………………………………
66
Bảng 2.11 Biểu hiện kiến thức chuyên môn của SVSP
……………………………..
69
Bảng 2.12 Biểu hiện năng lực lập kế hoạch dạy học …………………………………
75
Bảng 2.13 So sánh phẩm chất đạo đức nghề sư phạm theo nam và nữ
SVSP
79
Bảng 2.14 Biểu hiện phẩm chất đạo đức nghề nghiệp giữa SVSP có
tham gia và không tham gia dạy kèm …………………………………………………… 84
Bảng 2.15 Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ đạt được phẩm
chất nghề nghiệp ………………………………………………………………………………….. 87
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1 Quan niệm sự thành công trong dạy học là kích thích được
tư duy sáng tạo của người học ……………………………………………………………………
54
Biểu đồ 2.2 Quan niệm sự thành công trong nghề nghiệp là trình độ học
vấn thông qua đào tạo cao
………………………………………………………………………….
55
Biểu đồ 2.3 Quan niệm sự thành công trong nghề nghiệp là kiêm nhiệm
chức vụ quản lý ở đơn vị trường học ………………………………………………………. 55
Biểu đồ 2.4 Sự khác biệt về quan niệm thành công giữa nam và nữ sinh
viên
…………………………………………………………………………………………………….. 56
Biểu đồ 2.5 Mức độ đạt được phẩm chất đạo đức nghề sư phạm
……………….. 59
Biểu đô 2.6 Mức độ đạt được phẩm chất trung thực ở SVSP
.
……………………. 60
Biểu đồ 2.7 Biểu hiện phẩm chất công bằng ở SVSP
………………………………… 61
Biểu đồ 2.8 Mức độ đạt được tác phong gương mẫu
..
………………………………. 62
Biểu đồ 2.9 Mức độ đạt được phẩm chất sống có lý tưởng nghề nghiệp
……… 63
Biểu đồ 2.10 Mức độ đạt được thái độ cầu tiến
………………………………………… 64
Biểu đồ 2.11 Mức độ đạt được năng lực chuyên môn của SVSP
……………….. 67
Biểu đồ 2.12 Biểu hiện năng lực sư phạm của sinh viên
……………………………. 70
Biểu đồ 2.13 Các mức độ đạt được năng lực biểu đạt ngôn ngữ
.
……………….. 71
Biểu đồ 2.14 Khả năng vận dụng phương pháp thuyết trình ở SVSP ………….. 72
Biểu đồ 2.15 Mức độ sử dụng đồ dùng dạy học của SVSP
.
………………………. 73
Biểu đồ 2.16 Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học .
………….. 73
Biểu đồ 2.17 Mức độ đạt được năng lực hình thành kỹ năng học tập cho
học sinh ………………………………………………………………………………………………. 76
Biểu đồ 2.18 Mức độ đạt được các năng lực giáo dục
……………………………….. 77
Biểu đồ 2.19 So sánh mức độ đạt được phẩm chất yêu nghề của SVSP
các ngành ……………………………………………………………………………………………. 80
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1 Trong những năm gần đây, một trong những vấn đề bức xúc của
ngành giáo dục đại học ở Việt Nam là đào tạo chưa gắn với nhu cầu xã hội, đặc
biệt là nhu cầu của các đơn vị hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp trong và
ngoài nước. Phần lớn sinh viên tốt nghiệp ra trường khó tìm việc làm hoặc
công việc chưa phù hợp với chuyên môn được đào tạo. Theo thống kê gần nhất
của Bộ Giáo dục và Đào tạo vào năm 2008, 63% sinh viên ra trường không có
việc làm, 37% được tuyển dụng không đáp ứng được công việc, nhiều đơn vị
phải mất một đến hai năm đào tạo lại, phải mất nhiều kinh phí mới có thể sử
dụng được nguồn nhân lực.
1.2 Đứng trước những vấn đề bế tắc “đầu ra”, các trường đại học ngày
càng nhận thức được sự thiết yếu xu hướng đào tạo nhà trường gắn với nhu cầu
xã hội. Đại học Tiền Giang là một trong những trung tâm đào tạo nguồn nhân
lực ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, cũng nằm trong xu thế tất yếu đó.
Nhận thức được tầm quan trọng ấy, trường Đại học Tiền Giang xác định mục
tiêu chiến lược “đào tạo thiết thực – hiệu quả”, nhằm hướng đến đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng được yêu cầu thực tế công việc.
1.3 Trường Đại học Tiền Giang vừa thành lập được 5 năm, trên cơ sở
xác nhập hai trường Cao đẳng Cộng Đồng Tiền Giang và Cao đẳng Sư phạm
Tiền Giang, chắc chắn rất cần cơ sở đánh giá lại chất lượng sản phẩm nguồn
nhân lực đã được đào tạo trong những năm qua. Thực tế cho thấy, sinh viên
trường Đại học Tiền Giang sau khi tốt nghiệp chịu sức ép cạnh tranh rất lớn về
cơ hội nghề nghiệp so với sinh viên các trường trong khu vực và sinh viên được
đào tạo ớ các thành phố lớn trong cả nước. Điều đáng nói ở đây là ngay cả sinh
viên ngành sư phạm với chỉ tiêu đào tạo dựa trên nhu cầu của tỉnh và khu vực,
vẫn gặp khó khăn nhất định khi về công tác ở các trường mầm non và phổ
thông. Trong rất nhiều nguyên nhân, theo chúng tôi, nguyên nhân quan trọng
nhất là sinh viên chưa có sự chuẩn bị tốt về các phẩm chất nghề nghiệp để có
thể thích ứng với công việc. Cụ thể, sinh viên ngành sư phạm rất cần nhận thức
được các tiêu chí về phẩm chất nghề và được đào tạo dựa trên các tiêu chí đó,
để họ có thể thực hiện tốt công tác giảng dạy sau khi ra trường.
1.4 Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, với chủ trương chuẩn hóa –
hiện đại hóa nền giáo dục, đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc xây dựng chuẩn
nghề nghiệp qui định những phẩm chất, năng lực của giáo viên ở các bậc học
mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Đó chính là căn cứ
đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên cho phù hợp với yêu cầu thực tế. Thiết
nghĩ, ngay trong quá trình đào tạo ở trường đại học, việc rèn luyện các phẩm
chất nghề nghiệp và đánh giá mức độ đạt được các phẩm chất này ở sinh viên
sư phạm, đặc biệt là sinh viên năm cuối, là điều kiện tiên quyết xác định chất
lượng nguồn nhân lực trong tương lai.
Với những lý do đã phân tích ở trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài
“Những phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường Đại học Tiền
Giang”
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá mức độ mức độ đạt được các phẩm chất nghề nghiệp của sinh
viên năm thứ ba, thứ tư trường Đại học Tiền Giang và những yếu tố ảnh hưởng.
Từ đó, đề xuất các giải pháp về phương pháp đào tạo, rèn luyện các phẩm chất
nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Những phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên
sư phạm năm thứ ba, thứ tư trường Đại học Tiền Giang.
3.2 Khách thể nghiên cứu:
– Khách thể chính: Sinh viên sư phạm đang học năm thứ ba hệ Cao đẳng
và sinh viên sư phạm đang học năm thứ tư hệ Đại học.
– Khách thể phụ: Giảng viên và Ban Giám hiệu trường Đại học Tiền
Giang; lãnh đạo Sở Giáo dục đào tạo và Ban Giám hiệu ở các trường mầm non,
tiểu học, THCS và THPT trong tỉnh Tiền Giang.
4. Giới hạn nghiên cứu
4.1 Nội dung nghiên cứu: Mức độ đạt được những phẩm chất nghề
nghiệp của sinh viên sư phạm ở ba lĩnh vực: phẩm chất đạo đức nghề; năng lực
chuyên môn và năng lực sư phạm.
4.2 Khách thể nghiên cứu
– Sinh viên sư phạm: sinh viên năm cuối, cụ thể:
+ 60 sinh viên CĐ Mầm non khóa 08
+ 50 sinh viên ĐH Giáo dục tiểu học 07
+ 140 sinh viên hệ CĐ khóa 08 gồm: 40 sinh viên chuyên ngành Anh
văn, 25 sinh viên chuyên ngành Nhạc, 25 sinh viên chuyên ngành Họa, 50 sinh
viên chuyên ngành Văn
+ 150 sinh viên hệ ĐH khóa 07 gồm: 60 sinh viên chuyên ngành Toán,
50 sinh viên chuyên ngành Văn, 40 sinh viên chuyên ngành Lý
– Giảng viên, Ban Giám hiệu trường Đại học Tiền Giang:
+ 5 giảng viên khoa sư phạm
+ Trưởng khoa Sư phạm
+ Ban Giám hiệu: Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn
– Lãnh đạo Sở Giáo dục đào tạo và Ban Giám hiệu ở các trường mầm
non, tiểu học, THCS và THPT trong tỉnh Tiền Giang:
+ Giám đốc Sở GD&ĐT tỉnh Tiền Giang
+ Hiệu trưởng các trường: Mầm non Sao Sáng, Tiểu học Thủ Khoa
Huân, THCS Tam Hiệp, THPT Tân Hiệp
5. Giả thuyết nghiên cứu
Phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm năm cuối trường Đại học
Tiền Giang đáp ứng được yêu cầu về mục tiêu đào tạo ở mức độ trung bình.
Điều này do hai nguyên nhân chủ yếu là phương pháp rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm còn thiên về lý luận, hệ thống các kỹ năng sư phạm cần rèn luyện chưa
cụ thể và sinh viên chưa phát huy tính tích cực, chủ động trong quá trình rèn
luyện phẩm chất nghề nghiệp.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về phẩm chất nghề nghiệp, phẩm
chất nghề của người giáo viên, đặc điểm học tập, rèn luyện của sinh viên sư
phạm năm cuối.
– Nghiên cứu các tiêu chí, xây dựng bảng hỏi và thang đánh giá, khảo sát
các mức độ đạt được phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm đang học
năm thứ ba và thứ tư trường Đại học Tiền Giang.
– Đề xuất các giải pháp về phương pháp đào tạo, rèn luyện các phẩm
chất nghề nghiệp cho sinh viên.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp luận nghiên cứu
Việc nghiên cứu được tiến hành theo các quan điểm và cách tiếp cận
như sau:
7.1.1 Quan điểm hoạt động:
Mỗi người khi sinh ra và lớn lên, để hình thành và phát triển nhân cách
thì tất yếu phải tham gia vào hoạt động và giao tiếp trong xã hội. Hình thành
nhân cách được hiểu là một quá trình khách quan mang tính quy luật, trong đó
một người thể hiện mình vừa trong tư cách là đối tượng của sự tác động vừa
trong tư cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp.
Đối với lứa tuổi sinh viên, phẩm chất nghề nghiệp chính là giá trị cốt lõi
trong nhân cách. Các phẩm chất ấy được hình thành rõ nét và đặc sắc ngay
trong quá trình sinh viên tham gia hoạt động học tập – rèn luyện nghề nghiệp ở
trường đại học và các cơ sở kiến tập, thực tập. Đặc biệt, với sinh viên sư phạm,
thông qua từng giờ học trên lớp cũng chính là môi trường tương tác sư phạm để
họ nhận diện và tích lũy các phẩm chất nghề nghiệp. Bên cạnh đó, xuyên suốt
quá trình kiến tập, thực tập sư phạm ở các trường mầm non và phổ thông, sinh
viên năm thứ ba, thứ tư được trãi nghiệm thực tế phẩm chất nghề nghiệp của
mình.
7.1.2 Quan điểm hệ thống – cấu trúc:
Phẩm chất nghề nghiệp là sự thống nhất giữa đạo đức nghề, tư tưởng
chính trị, lối sống, vốn kiến thức và năng lực dạy học – giáo dục của người sinh
viên.
Quan điểm hệ thống – cấu trúc định hướng cho người nghiên cứu xem
xét đối tượng nghiên cứu về nhiều mặt. Phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên
sư phạm biểu hiện ở nhiều khía cạnh đa dạng và quá trình hình thành các phẩm
chất chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố chủ quan hay khách quan khác nhau.
7.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
– Mục đích: Thu thập những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu
nhằm làm rõ cơ sở lý luận của đề tài.
– Cách tiến hành: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu cần thiết phục
vụ cho việc nghiên cứu, nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc triển khai,
nghiên cứu thực tiễn.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi :
– Mục đích: Khảo sát và thu thập thông tin từ phía sinh viên sư phạm
năm thứ ba, thứ tư trường Đại học Tiền Giang về mức độ hình thành các phẩm
chất nghề nghiệp, các yếu tố ảnh hưởng.
– Nội dung:
+ Nhận thức của sinh viên sư phạm về phẩm chất nghề nghiệp
+ Mức độ đạt được phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên
+ Ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan đến quá trình rèn
luyện phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên.
– Cách tiến hành: Gồm hai giai đoạn
+ Giai đoạn thứ nhất: Thiết kế bảng câu hỏi lần 1, thu thập ý kiến của
20 sinh viên sư phạm về vấn đề nghiên cứu nhằm xây dựng các tiêu chí cho
bảng hỏi. Tiến hành sửa chữa các mệnh đề chưa đạt yêu cầu về nội dung và
cách diễn đạt.
+ Giai đoạn thứ hai: Hoàn thiện bảng câu hỏi chính thức và phát đến
từng sinh viên trong mẫu nghiên cứu đã chọn. Hướng dẫn sinh viên cách thức
trả lời và thu nhận lại phiếu đã hoàn thành.
Phương pháp phỏng vấn :
– Mục đích: Thu thập thông tin từ giảng viên, Ban Giám hiệu nhà
trường, Sở Giáo dục, hiệu trưởng các trường mầm non, phổ thông đánh giá về
các phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm hiện nay, và góp ý các giải
pháp về phương pháp đào tạo, rèn luyện phẩm chất nghề nghiệp phù hợp cho
sinh viên sư phạm.
– Nội dung:
+ Nhận định về các phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm hiện
nay
+ Nguyên nhân chủ yếu tác động thuận lợi hoặc khó khăn đến quá trình
hình thành phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm.
+ Góp ý các giải pháp về phương pháp đào tạo, rèn luyện của nhà trường
nhằm hình thành phẩm chất nghề nghiệp phù hợp cho sinh viên.
– Cách tiến hành: Phỏng vấn trực tiếp các đối tượng gồm:
+ 5 giảng viên khoa sư phạm
+ Trưởng khoa Sư phạm
+ Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn Trường Đại học
Tiền Giang
+ Giám đốc Sở GD&ĐT tỉnh Tiền Giang
+ Hiệu trưởng các trường: Mầm non Sao Sáng, Tiểu học Thủ Khoa
Huân, THCS Lê Ngọc Hân, THPT Tân Hiệp.
Phương pháp toán thống kê:
– Mục đích: Mã hóa và xử lý các thông số cần dùng trong đề tài nghiên
cứu.
– Cách thức tiến hành:
Sử dụng phần mềm thống kê SPSS 16.0 để xử lý các thông số sau:
+ Tần số
+ Tỷ lệ phần trăm
+ Điểm trung bình
+ Độ lệch chuẩn: mô tả sự phân tán hay tập trung của các câu trả lời.
+ Các thông số kiểm nghiệm: so sánh hai biến độc lập (Kiểm nghiệm
T.test), so sánh giá trị trung bình của nhiều yếu tố (Kiểm nghiệm Anova), kiểm
nghiệm mối liên hệ giữa hai yếu tố bằng Chi-Square với giá trị gamma.
8. Đóng góp của đề tài:
Đề tài nghiên cứu hệ thống các tiêu chí đánh giá phẩm chất nghề nghiệp
của sinh viên sư phạm, kết quả sẽ góp phần vào:
– Xây dựng hệ thống tiêu chí và đề xuất công cụ có thể được sử dụng
để đánh giá phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm
– Là cơ sở để nhà trường đánh giá chất lượng quá trình đào tạo sinh
viên sư phạm và hoàn thiện phương pháp đào tạo.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong xã hội, từ khi xuất hiện các hình thức phân công lao động, đồng
thời con người chú trọng đến các phẩm chất cá nhân phù hợp với từng công
việc cụ thể. Cuộc sống ngày càng phát triển, các loại hình nghề nghiệp dần
mang tính chuyên môn hóa, để nâng cao hiệu quả lao động của con người, đã
có rất nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu vấn đề phẩm chất nghề
nghiệp trên những bình diện khác nhau.
1.1.1 Nghiên cứu phẩm chất nghề nghiệp ở nước ngoài
Ở thời Cổ đại, đại diện là triết gia Arixtot(384 – 322 TCN), đã có quan
niệm về “phẩm hạnh” của giới thượng đẳng. Arixtot cho rằng, người có “phẩm
hạnh” là biết định hướng, biết làm việc, tìm tòi những điều hay trong xã hội.
Như vậy, người có “phẩm hạnh” sẽ thuyết phục và khuyên bảo được người
khác, tất cả họ đều cao thượng, đáng kính trọng. Điều này chi phối đến việc
tuyển chọn người vào phục vụ trong cung điện với những yêu cầu khắc khe về
cung cách làm việc, sự phục tùng, tính nhẫn nại, lòng dũng cảm và không dễ
khuất phục trước những khó khăn, gian khổ.
Các triết gia Trung Hoa Cổ đại như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử cũng
đã có quan niệm về chuẩn mực về “trí”, “đức” của người quân tử. Khổng Tử
cho rằng, người quân tử phải: “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”, lấy
“đức” làm trọng, thu phục nhân tâm, lòng dạ ngay thẳng, đức độ khoan dung.
Ngay trong việc tuyển chọn chức sắc tham gia triều chính, Gia Cát Lượng đưa
ra một số tiêu chí, đặc biệt là về các phẩm chất cá nhân thể hiện trong những
hoàn cạnh cụ thể như: “hỏi lẽ thị phi để xem chí hướng, hỏi mưu kế để xem sự
nhận thức, nói trước tai họa để xem sự dũng cảm, làm cho say rượu để xem tính
tình, cân bằng lợi lộc để xem sự liêm khiết, đặt kỳ hạn công việc để xem chữ
tín” [41, tr.10]
Đến năm 1883, nhà Tâm lý học người Anh F.Galton đã sử dụng test
chuẩn đoán nhân cách phục vụ cho việc tư vấn nghề nghiệp. Năm 1908, nhà
Tâm lý học người Mỹ F.Parsons cũng sử dụng test kết hợp với bảng hỏi anket
nghiên cứu năng lực học sinh nhằm giúp họ định hướng nghề nghiệp. Năm
1912, giáo sư G.Munsterberg – Giám đốc phòng thí nghiệm trường Đại học
Harward, soạn thảo bảng hướng dẫn tuyển chọn người có phẩm chất phù hợp
nghề điện thoại viên. Bên cạnh đó, các nghiên cứu phẩm chất nghề nghiệp và
sự phát triển nghề của các tác giả F.Parsons (1942), I.C.Diggory (1966), I.G.
Bachman (1977), đã phát hiện ra một số kỹ năng nghề nghiệp, và sự hình thành,
phát triển những kỹ năng đó trong quá trình lao động. Họ đã đưa ra những tiêu
chí đánh giá người lao động, đặc biệt là các kỹ năng của người lao động, nhằm
tuyển chọn lực lượng sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế và lợi nhuận cho các
nhà tư bản. [30]
Ở Liên Xô, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, cũng đã xuất hiện
nhiều công trình nghiên cứu về các phẩm chất phục vụ tuyển chọn, tư vấn, đào
tạo nghề. Năm 1921, phòng thí nghiệm tâm lý chuyên nghiên cứu nhân cách
học sinh để hướng nghiệp được thành lập trong Viện nghiên cứu lao động trung
ương và Viện nghiên cứu lao động toàn Ucraina. Đến năm 1927, Hội nghị toàn
liên bang về tâm sinh lý lao động và tuyển chọn nghề được tổ chức ở Matxcova,
với sự tham gia của nhiều nhà Tâm lý học nổi tiếng như E.A. Climôv, Platônôv,
V.I.Segurova….Hội nghị tập trung nghiên cứu xu hướng, hứng thú nghề nghiệp
như là phẩm chất quyết định hiệu quả hoạt động nghề [41, tr.52 ]. Ngoài ra còn
có những nghiên cứu về mặt tâm lý của các nghề phổ biến và xây dựng nên
những phương pháp xác định sự phù hợp nghề nghiệp của con người. Trong đó,
nhóm khách thể hướng đến là học sinh trước ngưỡng cửa lựa chọn nghề nghiệp
cho chính mình, góp phần tránh lãng phí trong đào tạo. Từ năm 1970, các
trường ở Leningrat đã tiến hành nghiên cứu nhân cách của học sinh nhằm phát
hiện thiên hướng nghề nghiệp của các em. [30]
Tiếp cận ở góc độ khác, nhà Tâm lý học R.A.Roe(1914) nghiên cứu sự
hình thành nghề nghiệp và các phẩm chất nghề đã chú trọng đến mặt động cơ,
và D.E. Super (1958) thì quan tâm đến đặc điểm quá trình nhận thức về nghề ở
cá nhân. [45]
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực nghiên cứu phẩm chất của người lãnh đạo,
nhà Tâm lý học R.M.Stogdill xác định người lãnh đạo cần có 5 đặc điểm về thể
chất, 4 đặc điểm về tri thức, 16 đặc điểm về nhân cách, 9 đặc điểm xã hội và 6
đặc điểm tính cách. Ông cho rằng, nhóm các đặc điểm này có liên quan chặt
chẽ đến sự thành công. Stogdill khẳng định “có một mối tương quan đặc biệt
giữa các đặc điểm về sự thông minh, uyên bác, đáng tin cậy, trách nhiệm, sự
tham gia xã hội, địa vị kinh tế-xã hội của người lãnh đạo so với các nhân viên
bình thường khác”[41, tr.11 ]
Riêng đối với ngành sư phạm, Ph.N. Gônôlôbin với công trình nổi tiếng
“Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên”.Tác giả đề xuất những phẩm
chất tâm lý quyết định sự thành công trong công tác giảng dạy và giáo dục học
sinh như: đạo đức, chí hướng, hứng thú, năng lực, quá trình nhận thức, hoạt
động trí tuệ, tình cảm, phẩm chất ý chí. Qua đó, ông đề ra những yêu cầu nghề
nghiệp làm cơ sở giúp cho sinh viên sư phạm, giáo viên rèn luyện, phát triển
năng lực sư phạm phù hợp [19 ]
Theo V.A. Cruchetxki, phẩm chất nghề nghiệp của người giáo viên bao
gồm biểu hiện của năng lực sư phạm như năng lực giao tiếp kết hợp với tình
yêu thương, công bằng và quan tâm đến học sinh…; năng lực xây dựng uy tín
kết hợp tính quả quyết, tính tự kiềm chế…[ 15]
Còn A.V. Petrovski cho rằng phẩm chất nghề nghiệp của người giáo
viên thuộc xu hướng nhân cách. Hoặc, A.G.Kovalev khái quát các phẩm chất
cần thiết của người thầy giáo theo 3 thành phần: xu hướng sư phạm, tính cách
sư phạm, khí chất của người giáo viên bên cạnh năng lực sư phạm. [34]
Như vậy, nghiên cứu của các tác giả nước ngoài cho thấy, phẩm chất
tâm lý nghề từ lâu đã được quan tâm. Các công trình đã chỉ ra đặc điểm của
hoạt động trong các lĩnh vực nghề nghiệp đòi hỏi mỗi cá nhân phải có những
đặc điểm nhân cách phù hợp. Nhìn chung, kết quả phản ánh các phẩm chất
nghề nghiệp mang tính chất đa dạng, rất nhiều thang đo đã được xây dựng
nhằm định hướng nghề nghiệp cho học sinh, người lao động nói chung. Trong
đó, lĩnh vực nghề sư phạm cũng có tác giả nghiên cứu và đưa ra được những
tiêu chí phấn đấu, rèn luyện cho sinh viên và giáo viên.
1.1.2 Nghiên cứu phẩm chất nghề nghiệp ở Việt Nam
Ở Việt Nam, phẩm chất nghề nghiệp từ lâu đã được nghiên cứu và các
tác giả cũng quan tâm đến việc xây dựng hệ thống những tiêu chí xác định sự
phù hợp của cá nhân với các đặc điểm nghề nghiệp.
Trong “Binh thư yếu lược”, vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn đã nêu
8 phương pháp để chọn người làm tướng. Ông xác định người làm tướng cần
có những phẩm chất như sự linh hoạt (sự biến hóa), khả năng diễn đạt, lòng
trung thành, tư cách đạo đức, tính liêm khiết, tác phong đứng đắn, lòng dũng
cảm, khả năng tự chủ [17 ]
Chủ tịch Hồ Chí Minh thì luôn nhắc nhở cán bộ phải tự tu dưỡng, trao
dồi phẩm chất cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Người cho rằng “đạo đức
chính là cái gốc của người làm cách mạng”.
Đến năm 1982, trong các công trình nghiên cứu “Nhân cách và hướng
nghiệp”, “Giúp bạn chọn nghề”, tác giả Phạm Tất Dong đề cập đến các phẩm
chất cá nhân cần có để đáp ứng yêu cầu của nghề và tuyển chọn nghề. [17]
Ở đề tài khoa học cấp Bộ, mã số B91-38-06, Viện Nghiên cứu phát triển
giáo dục năm 1993, tác giả Mạc Văn Trang nghiên cứu những yêu cầu đối với
một số nghề và trắc đạt tâm lý của cá nhân phù hợp nghề. Đi từ phân tích hoạt
động nghề nghiệp đến những yêu cầu tâm sinh lý cá nhân. Tác giả nhấn mạnh,
người lao động có những phẩm chất nghề phù hợp sẽ làm việc đạt chất lượng
cao, có nhiều sáng tạo, say mê và gắn bó lâu dài với nghề.
Năm 1996, trong quyển “Tâm lý học lao động”, Trần Trọng Thủy cũng
nhấn mạnh đến việc xây dựng đồ họa nghề nghiệp (professiongramme) cho các
nghề [ 44 ]
Sau này, rất nhiều tác giả nghiên cứu các phẩm chất phù hợp từng ngành
nghề cụ thể. Trên tạp chí Tâm lý học ra tháng 5/1999, tác giả Nguyễn Sinh
Phúc với công trình nghiên cứu “ Mối quan hệ giữa khuynh hướng, hứng thú
nghề nghiệp và kết quả học tập của sinh viên học viện Quân y”, phân tích mối
quan hệ giữa phẩm chất nghề và kết quả học tập của sinh viên ngành y. Tác giả
tập trung khảo sát mối quan hệ giữa 3 yếu tố: khuynh hướng nghề, hứng thú
nghề và kết quả học tập. Trong đó, khuynh hướng nghề nghiệp của sinh viên
còn phân tích khái quát, chưa cụ thể, Nguyễn Sinh Phúc chỉ điều tra về mức độ
yêu thích đối với nghề, chưa đưa ra được những phẩm chất cụ thể.
Và trong luận án tiến sĩ của tác giả vào năm 2000, ở đề tài “Cơ sở tâm lý
học của sự hình thành và phát triển nhân cách người thầy thuốc quân đội tương
lai”, ông đã đưa ra mô hình các phẩm chất của người bác sĩ quân y. Mô hình
này gồm 15 phẩm chất: năng lực tổ chức chỉ huy, năng lực chuyên môn, khả
năng giao tiếp, lòng nhân ái, lập trường tư tưởng, tinh thần sẵn sàng nhận
nhiệm vụ, tinh thần trách nhiệm, thái độ nhiệt tình trong công tác, tính kỷ luật,
uy tín, trung thực, đam mê nghiên cứu khoa học, khiêm tốn, tinh thần tập thể,
tính sáng tạo. [36]
Trên lĩnh vực tâm lý học quân sự, tác giả Nguyễn Mai Lan nghiên cứu
“Những phẩm chất tâm lý đặc trưng của mã dịch viên” vào năm 2000, đã xác
định 22 phẩm chất thuộc 4 thành phần trong cấu trúc nhân cách: xu hướng,
năng lực, tính cách, khí chất. Cụ thể là các phẩm chất tâm lý phù hợp nghề mã
dịch viên như tuyệt đối trung thành với sự nghiệp bảo vệ bí mật quốc gia, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và sự phát triển ngành Cơ yếu, có
tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, tính kỷ luật, bản lĩnh chính trị vững
vàng, ý thức trao dồi phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn, tính cẩn thận,
chính xác, tính độc lập trong công việc, gắn bó với nghề, tính kín đáo, năng
động, hoạt bát, điềm tĩnh, có khả năng kiềm chế, nhạy cảm, kỹ năng ghi nhớ
các nhóm ký tự, kỹ năng thao tác trên máy mã, kỹ năng xử lý thông tin, kỹ
năng tri giác vận động, vốn từ chuyên môn phong phú, kỹ năng thích nghi tình
huống nghề nghiệp…
Ở một khía cạnh khác, trên cơ sở phân tích đặc điểm hoạt động của cảnh
sát hình sự, tác giả Đỗ Văn Thọ đã nêu lên hai nhóm đặc điểm tâm lý tích cực
và tiêu cực, thêm vào đó là 22 phẩm chất tâm lý của các chiến sĩ công an về
lòng yêu nghề, sự trung thành, lập trường chính trị, kỹ năng nghiệp vụ, các đặc
điểm tính cách và lý tưởng nghề nghiệp.Và năm 2008, tác giả Đinh Hùng Tuấn
nghiên cứu “Những yêu cầu về phẩm chất nhân cách các chiến đấu viên chuyên
trách làm nhiệm vụ chống khủng bố”, công trình được đăng trên Tạp chí Tâm
lý học (số 1)
Ngoài ra, trong công trình nghiên cứu “Phẩm chất tâm lý của cán bộ
quản giáo trong hoạt động quản lý cải tạo phạm nhân” (2007), tác giả Nguyễn
Văn Tập cũng đã đề cập đến 28 phẩm chất nghề nghiệp cơ bản của cán bộ quản
giáo như lập trường chính trị, tính vị tha, liêm khiết, công bằng, tinh thần trách
nhiệm, năng lực nghiệp vụ, năng lực sư phạm, năng lực giao tiếp và tác phong
chuẩn mực.
Về lĩnh vực kinh tế, tác giả Nguyễn Phương Anh (1996) trong nghiên
cứu “Một số đặc điểm tâm lý – xã hội của nhà doanh nghiệp” đã hệ thống được
14 phẩm chất như bền bỉ, cần cù, có ý chí, mạo hiểm, có đầu óc tính toán kinh
doanh, ham học hỏi, linh hoạt, nhạy bén, sáng tạo, quảng giao, quyết đoán, thạo
việc, có kinh nghiệm kinh doanh, thận trọng, thông minh, tự tin.
Cùng lĩnh vực này, tác giả Nguyễn Thị Kim Phương (1996) với đề tài
“Nghiên cứu một số đặc điểm tâm lý – xã hội của giới doanh nghiệp trẻ Việt
Nam”, phân chia phẩm chất nhà doanh nghiệp trẻ thành ba nhóm: nhóm khả
năng, nhóm kỹ năng và nhóm phẩm chất tâm lý đặc trưng. Trong đề tài của
mình, từ ba nhóm phẩm chất trên, tác giả đã phân tích cụ thể gồm 60 phẩm chất
khác nhau.
Năm 2007, tác giả Nguyễn Thị Mỹ Linh thực hiện đề tài “Nghiên cứu tự
đánh giá của sinh viên trường Đại học kinh tế TP.Hồ Chí Minh về phẩm chất
nghề nghiệp”. Trong đề tài này, tác giả phân tích phẩm chất nghề nghiệp của
sinh viên biểu hiện ở 7 nhóm tiêu biểu: nhóm phẩm chất thuộc về năng lực,
nhóm phẩm chất quan hệ giao tiếp xã hội, nhóm phẩm chất thuộc về cảm xúc,
nhóm phẩm chất thuộc về ý chí, nhóm phẩm chất đạo đức, nhóm phẩm chất
thuộc về xu hướng, nhóm phẩm chất thuộc về các đặc điểm cá nhân.
Ở lĩnh vực nghiệp vụ hướng dẫn viên du lịch, một số công trình nghiên
cứu đã đưa ra nhận định và ý kiến chủ quan được đúc kết từ kinh nghiệm thực
tiễn của người làm công tác hướng dẫn hoặc tham gia giảng dạy, đào tạo nghề
như:
PGS.TS Nguyễn Văn Đính – Nguyễn Văn Mạnh (1995), “Giáo trình
tâm lý và Nghệ thuật giao tiếp ứng xử trong kinh doanh du lịch”, NXB Thống
Kê, Hà Nội.
Nguyễn Văn Quảng (2006), “Để trở thành hướng dẫn viên du lịch
giỏi, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
Tổng Cục du lịch (1997), Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch – Tài liệu bồi
dưỡng hướng dẫn viên du lịch, Hà Nội.
Đến năm 2010, tác giả Trần Thị Thanh Trà nghiên cứu đề tài “Một số
phẩm chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch” đã khảo sát ý kiến trên
nhóm khách thể hướng dẫn viên du lịch và khách du lịch. Trong công trình
nghiên cứu này, tác giả xác định 42 phẩm chất tâm lý cụ thể của hướng dẫn
viên du lịch thuộc về 3 nhóm: nhóm phẩm chất đạo đức, nhóm phẩm chất trí
tuệ – năng lực, nhóm phẩm chất ý chí – tính cách.
Đối với ngành sư phạm, phẩm chất nhân cách của người giáo viên từ lâu
đã được nghiên cứu. Theo các tác giả như Phạm Minh Hạc, Nguyễn Quang
Uẩn, Nguyễn Kế Hào, Phan Thị Hạnh Mai…, phẩm chất nghề sư phạm bao
gồm nhóm các phẩm chất nhân cách (thế giới quan khoa học, lý tưởng nghề
dạy học, lòng yêu trẻ, lòng yêu nghề) và nhóm năng lực cơ bản (năng lực dạy
học, năng lực giáo dục).
Năm 2008, đề tài “Nghiên cứu mức độ phù hợp của kỳ thi tuyển sinh
vào trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh với kết quả học tập của học sinh
ở lớp 12 và kỳ thi tú tài” do tác giả Đoàn Văn Điều làm chủ nhiệm, đề cập đến
sự tự đánh giá của sinh viên về xu hướng nghề nghiệp và kết quả học tập, đặc
biệt là tự đánh giá phù hợp với nghề, tự đánh giá các phẩm chất sư phạm. Tuy
nhiên, do nhóm khách thể nghiên cứu là sinh viên năm thứ nhất, vì vậy những
đánh giá chưa khái quát về các phẩm chất đặc trưng của nghề.
Gần đây nhất, công trình nghiên cứu “ Xây dựng các tiêu chí đánh giá tố
chất cần có của sinh viên sư phạm tương lai” do Nguyễn Thanh Bình làm chủ
nhiệm vào năm 2011. Đề tài hướng đến xây dựng các tiêu chí phản ánh những
yêu cầu về tố chất cần thiết đòi hỏi ở những học sinh có nguyện vọng vào
trường sư phạm để phục vụ cho công tác sơ tuyển sinh viên sư phạm. Dựa vào
phân tích quan niệm về tố chất, đặc điểm và họa đồ về nghề giáo viên, những
yêu cầu đối với người giáo viên hiện nay, các tác giả xác định được 5 tố chất cơ
bản của người muốn học sư phạm là: định hướng giá trị nghề nghiệp; những
phẩm chất đạo đức phù hợp với nghề; các phẩm chất giao tiếp; phẩm chất trí
tuệ; nhóm đặc điểm khí chất, sức khỏe và thể hình. Nhìn chung, bước đầu
nhóm tác giả đã đề xuất được những công cụ có thể sử dụng để tuyển chọn sinh
viên sư phạm và tư vấn cho học sinh hoàn thiện các tố chất cần có của mình
nhằm đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp. Tuy nhiên, thang đo này cần được được
kiểm nghiệm rộng rãi hơn trong thực tế để xác định được độ ứng nghiệm.
Nghiên cứu trên nhóm khách thể sinh viên sư phạm tiểu học, năm 2008,
tác giả Nguyễn Hoàng Hải có bài viết “Xác định các giá trị nghề nghiệp cần
giáo dục cho sinh viên sư phạm tiểu học hiện nay”. Trên cơ sở phân tích mục
đích giáo dục và mục tiêu đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học, tác giả hệ thống
lại 10 giá trị mục đích và 16 giá trị công cụ thuộc về giá trị nghề nghiệp cần rèn
luyện cho sinh viên. Nhìn chung, các giá trị nghề nghiệp thuộc về năng lực sư
phạm có đề cập nhưng rất ít, thiếu tính cụ thể. [24]
Trong đề tài “ Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư
phạm TP. Hồ Chí Minh”, năm 2007, tác giả Hoàng Anh đề cập đến phẩm chất
đạo đức của sinh viên sư phạm trong các mối quan hệ: xã hội, bạn bè, gia đình,
thầy cô, hoạt động học tập, bản thân, với học sinh trong tương lai, và đặc biệt là
với nghề sư phạm. Trong các mối quan hệ đó. Tác giả nêu 12 biểu hiện giá trị
đạo đức nghề sư phạm là yêu nghề, tận tâm, dũng cảm chống tiêu cực, năng
động, giản dị, trung thực, kỷ luật, siêng năng, nhẫn nại, tiết kiệm, bản lĩnh,
quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. Có thể nói, đây là một công trình nghiên cứu
xây dựng thang đo các biểu hiện đạo đức nghề sư phạm cụ thể và tương đối đầy
đủ.
Ở một góc nhìn khác, năm 2011, tác giả Nguyễn Thị Hoàng Anh nghiên
cứu “Một số biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm
trong giai đoạn hiện nay”. Trong đề tài của mình, tác giả đã khảo sát nhận thức
của sinh viên và giảng viên về 13 phẩm chất cần thiết của nhà giáo: trình độ
văn hóa, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, năng lực giảng
dạy, năng lực tự học, lòng yêu nghề, yêu trẻ, tôn trọng học sinh, quan tâm học
sinh, niềm tin nghề nghiệp, nhiệt tình công tác, hiểu biết sâu rộng, lý tưởng
giác ngộ XHCN, sẵn sàng phục vụ sự nghiệp giáo dục. [4, tr.121 – 127]
Trong đề tài “Xác định những yêu cầu sư phạm đối với sinh viên tốt
nghiệp nhằm đáp ứng chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông hiện nay ở nước
ta”, do Nguyễn Thị Kim Dung chủ nhiệm. Trên cơ sở đánh giá các tiêu
chí trong chuẩn nghề nghiệp giáo viên ở 3 nhóm khách thể: cán bộ quản lý,
giáo viên trẻ và sinh viên năm cuối, đề tài đã xây dựng hệ thống các yêu cầu
đối với sinh viên tốt nghiệp đại học sư phạm. Các yêu cầu tập trung vào 3
nhóm chính, nhóm thứ nhất là các yêu cầu về trách nhiệm nghề nghiệp và
phẩm chất đạo đức, nhóm thứ hai là các yêu cầu về năng lực chuyên môn và
nhóm thứ ba là các yêu cầu về năng lực sư phạm. Như vậy, những yêu cầu
người giáo viên tương lai phải có phẩm chất liên quan đến các lĩnh vực khác
nhau. Bên cạnh yêu cầu nắm chắc kiến thức bộ môn, có kỹ năng, phương pháp
dạy học – giáo dục, người giáo viên trong thời đại mới phải có kiến thức, kỹ
năng, thái độ phù hợp về mặt giao tiếp, tổ chức, hợp tác với đồng nghiệp, với
người học, với môi trường, kỹ năng phát triển nghề nghiệp…Nhìn chung, các
yêu cầu được mô tả chi tiết, cụ thể giúp cho việc định hướng xây dựng chương
trình đào tạo và đánh giá sinh viên tốt nghiệp, trong đó các yêu cầu liên quan
đến phẩm chất đạo đức, chính trị, lối sống đặc biệt được nhấn mạnh đối với
giáo viên nói chung và sinh viên tốt nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, các yêu cầu
này được nhóm tác giả hệ thống lại, chưa xây dựng thang đo các biểu hiện theo
những mức độ khác nhau và những tình huống có thể khảo sát trong thực tế.
Tóm lại, vấn đề phẩm chất nghề nghiệp đặc trưng cho từng ngành luôn
được quan tâm nghiên cứu nhằm làm cơ sở thiết yếu cho việc giáo dục và đào
tạo hiệu quả, gắn với nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong các công
trình nghiên cứu, các tác giả đều hướng đến việc xác định những tiêu chí cụ thể
về phẩm chất nghề nghiệp đặc trưng, xây dựng những thang đo nhằm định
hướng nghề nghiệp cho học sinh hoặc người lao động tham gia lĩnh vực nghề
nghiệp có phương hướng phấn đấu, rèn luyện bản thân.
Riêng đối với ngành sư phạm, nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên
cứu xác định những phẩm chất cần thiết của người giáo viên. Những đề tài liên
quan đến phẩm chất nghề sư phạm hướng vào ba nội dung chính: một là xác
định các đặc điểm nghề nhằm định hướng mức độ phù hợp cho học sinh khi lựa
chọn làm giáo viên; hai là xác định các tiêu chí nghề cần rèn luyện cho sinh
viên sư phạm; ba là hướng đến xây dựng các yêu cầu sư phạm đối với sinh
viên tốt nghiệp nhằm đáp ứng chuẩn nghề nghiệp giáo viên hiện nay ở nước ta.
Như vậy, những công trình nghiên cứu trước đây đã hệ thống và phân
tích các đặc điểm lao động đặc trưng của người giáo viên, nhằm định hướng
nghề nghiệp cho học sinh và giúp sinh viên sư phạm xây dựng kế hoạch rèn
luyện phẩm chất đáp ứng yêu cầu chuẩn nghề nghiệp. Trong công trình nghiên
cứu gần nhất của tác giả Nguyễn Thị Kim Dung chủ nhiệm, dựa trên kết quả
đánh giá chung về mức độ đáp ứng chuẩn nghề nghiệp của giáo viên trẻ và
nghiên cứu thực trạng đánh giá sinh viên sư phạm khi tốt nghiệp, đã xác định
được hệ thống các yêu cầu đối với sinh viên tốt nghiệp đại học sư phạm. Các
yêu cầu này đã được mô tả một cách chi tiết các phẩm chất cần thiết của sinh
viên khi tốt nghiệp. Tuy nhiên đó là những phẩm chất mang tính chất đề xuất
quan trọng về mặt lý luận, cần xây dựng thang đo biểu hiện các yêu cầu này
trong hoàn cảnh thực tế nhằm đánh giá mức độ đạt được các phẩm chất nghề
nghiệp của sinh viên sư phạm, đặc biệt là sinh viên năm cuối. Đó cũng chính là
hướng nghiên cứu mà chúng tôi xác định trong đề tài của mình. Trên cơ sở
chọn lọc những phẩm chất đặc trưng, phù hợp với khách thể sinh viên năm cuối,
chưa phải là giáo viên,chúng tôi xây dựng thang đo các biểu hiện, nhằm đánh
giá mức độ đạt được các phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên sư phạm năm
cuối ở trường Đại học Tiền Giang.
1.2 Cơ sở lý luận về phẩm chất nghề nghiệp
1.2.1 Phẩm chất và phẩm chất nghề nghiệp
1.2.1.1 Khái niệm “phẩm chất”
Trong Từ điển Tiếng Việt do tác giả Hoàng Phê chủ biên, phẩm chất
được hiểu là cái làm nên giá trị của người hay vật [35]. Theo định nghĩa này,
phẩm chất của một đối tượng nhất định là những thuộc tính, đặc điểm của đối
tượng, căn cứ vào đó chúng ta có thể đánh giá, xác định giá trị của đối tượng.
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, tác giả Nguyễn Như Ý cho rằng phẩm
chất là giá trị và tính chất tốt đẹp của con người hay vật gì [47]
Với hai cách định nghĩa trên, khái niệm phẩm chất được sử dụng chung
cho những thuộc tính có giá trị của người và vật. Như vậy, khi nói về phẩm
chất của con người, phẩm chất luôn gắn bó với chủ thể, đó là những đặc tính –
thước đo giá trị, được xác định bằng các đặc điểm, thuộc tính mang tính chất
tích cực tồn tại trong chính chủ thể, không phải là cái được gán cho.
Trong từ điển Tâm lý học (Dictionary of psychology) của J.P.Chaplin
thì phẩm chất là mức độ tương đối giữa cái tốt và cái tuyệt về lĩnh vực nào đó
[ 5, tr.686]
Theo quan điểm các nhà Tâm lý học Việt Nam, nhân cách là một chỉnh
thể thống nhất của hai mặt đức và tài. Và các tác giả này đã tiếp cận khái niệm
phẩm chất đồng nghĩa với đức, biểu hiện cụ thể ở 4 mặt: phẩm chất xã hội,
phẩm chất cá nhân, phẩm chất ý chí và cung cách ứng xử. Còn tài, đó chính là
năng lực, biểu hiện cụ thể ở 4 nhóm: năng lực xã hội hóa, năng lực chủ thể hóa,
năng lực hành động và năng lực giao tiếp. Tuy nhiên cách phân chia này chỉ
mang tính chất tương đối, trong thực tế khi nói về phẩm chất, đặc biệt là phẩm
chất nghề thì đó chính là các đặc điểm phù hợp yêu cầu của nghề. Điều này có
nghĩa là phẩm chất và năng lực theo cách hiểu như trên chính là hai nhóm
phẩm chất cơ bản của người lao động [32, tr. 151]
Tuy có nhiều định nghĩa theo các cách khác nhau, nhưng có thể khái
quát phẩm chất là đặc điểm, thuộc tính làm nên giá trị của đối tượng hay mức
độ chất lượng của đối tượng. Khi dùng khái niệm phẩm chất gắn với con người
cụ thể, ngành nghề cụ thể thì đó chính là tổ hợp các đặc điểm tâm lý cá nhân
làm nên giá trị xã hội của con người.
Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi dựa vào cách hiểu trên, theo đó
“phẩm chất” là những đặc điểm của con người hay sự vật đáp ứng yêu cầu nào
đó của xã hội, tạo nên chất lượng của sự vật hay giá trị xã hội của người. Phẩm
chất thường được xem xét theo những tiêu chí nhất định và dùng để phân biệt
với các đặc điểm âm tính, đặc điểm không điển hình khác.