10082_Hủy đề nghị giao kết hợp đồng theo Bộ luật dân sự 2015

luận văn tốt nghiệp

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VIÊN HỒNG THẢO

HỦY ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2018

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VIÊN HỒNG THẢO

HỦY ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN VĂN BIÊN

HÀ NỘI, năm 2018
LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành một cách hoàn chỉnh đề tài “Hủy đề nghị giao kết
hợp đồng theo Bộ luật dân sự năm 2015” cho luận văn thạc sĩ Luật học
chuyên ngành Luật kinh tế, bên cạnh quá trình cố gắng không ngừng của bản
thân còn có sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy cô, gia đình và bạn
bè. Qua trang viết này, người viết xin gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp
đỡ tôi trong thời gian học tập – nghiên cứu khoa học vừa qua.
Xin chân thành tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với Tiến sĩ Trần
Văn Biên đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và cung cấp tài liệu cần thiết cho tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô giáo đã tận tụy giảng dạy, truyền
đạt cho tôi những kiến thức quý giá và Học viện Khoa học xã hội cơ sở tại
thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện tốt nhất giúp đỡ cho tôi trong
suốt thời gian học tập nghiên cứu cho đến khi làm đề tài luận văn.
Mặc dù tôi đã cố gắng hết sức để hoàn thiện luận văn, nhưng do bản thân
còn hạn chế nhiều về vốn kiến thức, không tránh khỏi những sai sót. Kính
mong quý thầy, cô giáo hướng dẫn và góp ý để tôi tiếp tục sửa chữa, bổ sung
nhằm hoàn thiện tốt hơn nữa luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Phạm Viên Hồng Thảo

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
nội dung nghiên cứu trong luận văn là tin cậy và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Phạm Viên Hồng Thảo

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG ……………………………………………………………………………………….. 7
1.1. Khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng và chấm dứt đề nghị giao kết hợp
đồng…………………………………………………………………………………………………. 7
1.2. Khái luận hủy đề nghị giao kết hợp đồng
……………………………………… 10
1.3. Phân biệt rút lại, thay đổi và hủy đề nghị giao kết hợp đồng …………… 20
1.4. Pháp luật điều chỉnh hủy đề nghị giao kết hợp đồng ……………………… 23
1.5. Căn cứ hủy đề nghị giao kết hợp đồng …………………………………………. 24
1.6. So sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật các tổ chức quốc tế ……….. 29
Tiểu kết Chương 1
…………………………………………………………………………….. 33
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ HỦY ĐỀ NGHỊ
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG …………………………………………………………………… 35
2.1. Điều kiện khi hủy đề nghị giao kết hợp đồng
………………………………… 35
2.2. Trách nhiệm pháp lý khi hủy đề nghị giao kết hợp đồng
………………… 36
2.3. Hậu quả pháp lý và vấn đề thông báo khi hủy đề nghị giao kết hợp
đồng……………………………………………………………………………………………….. 38
2.4. Giải quyết hậu quả của việc hủy đề nghị giao kết hợp đồng
……………. 40
2.5. Các trường hợp miễn trách nhiệm khi hủy đề nghị giao kết hợp đồng 53
Tiểu kết Chương 2
…………………………………………………………………………….. 60
Chương 3: THỰC TIỄN HỦY ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỦY ĐỀ NGHỊ GIAO
KẾT HỢP ĐỒNG
……………………………………………………………………………… 61
3.1. Thực tiễn hủy đề nghị giao kết hợp đồng ……………………………………… 61
3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về hủy đề nghị giao kết hợp đồng
……. 65
Tiểu kết Chương 3
…………………………………………………………………………….. 71
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS:
Bộ luật dân sự
CISG: Convention on Contracts for
the International Sale of Goods
Công ước Viên năm 1980 của
Liên hợp quốc về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế
PECL: Principles
of
European
Contract Law
Bộ Nguyên tắc Luật hợp đồng
Châu Âu
PICC: Principles
of
International
Commercial Contracts
Bộ Nguyên tắc hợp đồng
thương
mại
quốc
tế
của
UNIDROIT năm 2004
WTO: World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển
theo hướng hội nhập mạnh mẽ với nền kinh tế thế giới, nhất là từ khi Việt
Nam gia nhập WTO. Trong quá trình đó, hợp đồng có vai trò rất quan trọng,
là công cụ pháp lý chủ yếu để các chủ thể thực hiện các hoạt động kinh doanh
thu lợi nhuận. Hợp đồng là sự thỏa thuận, là kết quả của sự thống nhất ý chí
của các bên và để hình thành hợp đồng, các chủ thể phải trải qua giai đoạn
đầu tiên là đề nghị giao kết hợp đồng. Bất kỳ một sự thoả thuận nào đều phải
bao gồm hai yếu tố là đưa ra đề nghị và chấp nhận đề nghị đó mà không thể
phụ thuộc vào ý chí của một bên.
Nếu giả thuyết rằng, hợp đồng được tạo ra bởi “sự gặp nhau của ý định”
giữa các bên tại một thời điểm cụ thể, thì sẽ không có cách nào để bên đề nghị
có thể hủy đề nghị giao kết hợp đồng đã được gửi tới bên được đề nghị. Bởi
lẽ, có những trường hợp, ngay tại thời điểm bên được đề nghị trả lời chấp
nhận thì bên đề nghị lại thay đổi ý định của mình, như vậy sẽ không còn tồn
tại “sự gặp nhau của ý định” nên việc hình thành của hợp đồng không thể xảy
ra. Trong trường hợp như vậy, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của
nhiều nước trên thế giới và pháp luật quốc tế đều cho phép bên đề nghị được
phép áp dụng quyền hủy đề nghị giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên, việc xác định rõ trách nhiệm pháp lý của các bên, giải quyết
hậu quả pháp lý phát sinh nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho bên bị thiệt
hại trong trường hợp hủy đề nghị giao kết hợp đồng xảy ra là vấn đề rất cần
được quan tâm. Một vấn đề khác cũng cần bàn ở đây là hiệu lực của hủy đề
nghị giao kết hợp đồng của bên đề nghị được xác định như thế nào, căn cứ
vào những yếu tố như thời điểm “gửi đến” của thông báo, hình thức hủy đề
nghị giao kết,… Mặc dù, Bộ luật dân sự 2015 quy định tương đối cụ thể về
2
hủy đề nghị giao kết hợp đồng, nhưng vẫn còn những điểm bất cập ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Trong bối cảnh đó, việc nghiên
cứu các quy định của pháp luật Việt Nam và tham khảo pháp luật nước ngoài
về hủy đề nghị giao kết hợp đồng, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện là
cần thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Chính vì vậy, học viên quyết định chọn đề tài: “Hủy đề nghị giao kết
hợp đồng theo Bộ luật dân sự năm 2015” để thực hiện cho luận văn thạc sĩ
Luật học, chuyên ngành Luật kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, mở
rộng giao thương đến nhiều loại chủ thể và các thành phần kinh tế, thì hợp
đồng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế nước
ta. Cùng với đó, việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng nói chung và hủy đề
nghị giao kết hợp đồng nói riêng luôn là chủ đề có tính thời sự.
Ở nước ngoài, đã có một số công trình nghiên cứu về hợp đồng có liên
quan đến hủy đề nghị giao kết hợp đồng đã được công bố, có thể kể ra một số
công trình tiêu biểu như: Sir William R. Anson (1965), Principles of the
English Law of Contract and of Agency in its Relation to Contract, Twenty-
second edition, Oxford at the Clarendon Press; David E. Allan & Mary E.
Hiscock (1992), Law of Contract in Australia, 2nd edition, Key Text,
Australia; John Cartwright và Martijn W. Hesselink (2011), Precontractual
Liability in European Private Law, Cambrige;…
Ở Việt Nam, tính đến nay, chưa có công trình hay sách chuyên khảo nào
nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ về hủy đề nghị giao kết hợp đồng. Vấn
đề hủy đề nghị giao kết hợp đồng chỉ được tản mạn, riêng lẻ trong các công
trình nghiên cứu về pháp luật hợp đồng như: Nguyễn Như Phát và Lê Thị Thu
Thuỷ (đồng chủ biên) (2003), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật
3
hợp đồng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội; Dương Anh
Sơn (2005), “Những vấn đề chung về hợp đồng thương mại quốc tế”, Giáo
trình luật hợp đồng thương mại quốc tế, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh –
Khoa Kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; Đỗ Văn Đại (2008),
Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án (Sách chuyên khảo),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình luật hợp
đồng – Phần chung (Dùng cho đào tạo sau đại học), Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội; Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật
dân sự năm 2015, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh;…
Ngoài ra, còn có nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí, các hội
nghị như: Lê Thị Bích Thọ (2001), Một số vấn đề về đề nghị giao kết hợp
đồng theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2001, số 4, tr. 44- 49; Ngô Huy Cương (2010), Đề nghị giao kết hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam, Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và
pháp luật, số 5, tr.29-44; Lê Thị Diễm Phương (2013), Đề nghị và chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng – nhìn từ góc độ so sánh, Khoa học pháp lý, Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh, số 2, tr.68/74;…
Hiện nay, ở nước ta vẫn chưa có công trình nghiên cứu toàn diện nào về
hủy đề nghị giao kết hợp đồng. Do đó, việc lựa chọn đề tài: “Hủy đề nghị
giao kết hợp đồng theo Bộ luật dân sự 2015” để có thể đóng góp cho việc xây
dựng pháp luật ở Việt Nam. Đây là công trình nghiên cứu một cách cơ bản,
toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về vấn đề này ở nước ta. Xuất phát từ
quan điểm rằng, khoa học vừa mang tính phát triển và mới mẻ, một lần nữa
khẳng định, các công trình trên đây của các tác giả trong và ngoài nước là
những tài liệu tham khảo rất bổ ích trong quá trình nghiên cứu đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
4
Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hủy đề nghị giao
kết hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2015, từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn
thiện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hủy đề nghị giao kết hợp đồng và
điều chỉnh pháp luật về hủy đề nghị giao kết hợp đồng.
– Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
hủy đề nghị giao kết hợp đồng, từ đó nhận diện những khó khăn, hạn chế còn
tồn tại.
– Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về hủy đề nghị giao kết hợp
đồng ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
pháp luật về hủy đề nghị giao kết hợp đồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý về hủy đề nghị
giao kết hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 và một số văn bản
pháp lý quốc tế như Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Bộ Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế
của UNIDROIT năm 2004, Bộ Nguyên tắc Luật hợp đồng Châu Âu.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó để hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể sau:
5
Phương pháp phân tích, tổng hợp: nhằm làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ
bản về hủy đề nghị giao kết hợp đồng.
Phương pháp khảo sát văn bản: để đánh giá thực trạng các quy định của
Bộ luật dân sự Việt Nam hiện hành và một số văn bản quy phạm pháp luật
khác có liên quan đến hủy đề nghị giao kết hợp đồng.
Phương pháp so sánh luật học: để đưa ra những nhận xét, đánh giá khách
quan, làm rõ vấn đề cần phân tích, cho thấy sự tương đồng và khác biệt giữa
pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về hủy đề nghị giao kết hợp đồng.
Phương pháp luận giải, bình luận: để đánh giá và tìm ra những điểm bất
cập của pháp luật quy định về hủy đề nghị giao kết hợp đồng, nhằm đưa ra định
hướng và các giải pháp hoàn thiện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận liên quan đến hủy đề
nghị giao kết hợp đồng như là khái niệm, đặc điểm, bản chất, pháp luật điều
chỉnh,… Luận văn cũng đưa ra cái nhìn tổng quan về pháp luật liên quan đến
hủy đề nghị giao kết hợp đồng và thực tiễn thực hiện, góp phần làm phong
phú thêm tri thức khoa học pháp lý chuyên ngành.
Kết quả nghiên cứu đề tài này cũng chỉ ra điểm còn thiếu sót và hạn chế
trong quy định về hủy đề nghị giao kết hợp đồng của Bộ luật dân sự 2015,
đồng thời đề xuất các kiến nghị với mục đích góp phần hoàn thiện hơn, có
tính khả thi hơn đối với quy định về vấn đề này. Các giải pháp mà luận văn
đưa ra sẽ giúp giải quyết phần nào những khó khăn vướng mắc trong thực tế,
hạn chế được những bất cập có thể phát sinh trong giao lưu dân sự cũng như
hoạt động kinh doanh thương mại.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
6
– Chương 1: Những vấn đề lý luận về hủy đề nghị giao kết hợp đồng.
– Chương 2: Quy định của pháp luật dân sự về hủy đề nghị giao kết hợp
đồng.
– Chương 3: Thực tiễn hủy đề nghị giao kết hợp đồng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về hủy đề nghị giao kết hợp đồng.

7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ HỦY ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
1.1. Khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng và chấm dứt đề nghị giao
kết hợp đồng
Đề nghị giao kết hợp đồng được định nghĩa trong văn bản pháp lý quốc
tế nhưng có sự phân biệt giữa hai khái niệm: “đề xuất” hay “đề nghị”
(proposal) và “đề nghị giao kết hợp đồng”. Theo các văn bản này, “đề xuất”
hay “đề nghị” (proposal) có khái niệm rộng hơn “đề nghị giao kết hợp đồng”
(offer). Một đề xuất chỉ trở thành đề nghị giao kết hợp đồng khi đáp ứng được
các điều kiện nhất định.
Ở Việt Nam, đề nghị giao kết hợp đồng được định nghĩa chính thức tại
khoản 1 Điều 386 Bộ luật dân sự 2015: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc
thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của
bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi
chung là bên được đề nghị)”.
Như vậy, BLDS 2015 Việt Nam vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ “đề nghị
giao kết hợp đồng” mà không sử dụng thuật ngữ “chào hàng” hay “lời đề
nghị” và đã tách rời yếu tố biểu đạt sự chấp nhận của bên được đề nghị mà chỉ
quy định về sự biểu đạt ý chí rõ ràng của bên đề nghị như pháp luật của các
nước cũng như Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng là việc lời đề nghị đó có thể được
chấp nhận để các bên đi đến việc ký kết hợp đồng hoặc không được chấp
nhận và cũng có thể khi xuất hiện các căn cứ khác. Các trường hợp chấm dứt
đề nghị giao kết hợp đồng được quy định tại Điều 391 BLDS 2015, theo đó
đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
8
 Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng.
Khi bên được đề nghị đã trả lời chấp nhận hoàn toàn thì có nghĩa là mỗi
bên đều đã đáp ứng đủ yêu cầu để đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt và
bước sang giai đoạn ký kết hợp đồng.
Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được
xác lập giữa các bên.
 Bên được đề nghị trả lời không chấp nhận.
Khi bên được đề nghị đã trả lời không chấp nhận dù là một phần hay
toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng thì có nghĩa là đề nghị giao
kết hợp đồng chấm dứt tại đây.
 Hết thời hạn trả lời chấp nhận.
Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ
có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết
hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được
coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.
 Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực.
Vì rất nhiều lý do, bên đã đề nghị giao kết hợp đồng mong muốn thay
đổi, rút lại lời đề nghị đó. Xuất phát từ mong muốn đích thực của các bên khi
tham gia vào quan hệ hợp đồng, pháp luật cho phép bên đề nghị giao kết hợp
đồng được thay đổi, rút lại lời đề nghị của mình.
 Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể huỷ bỏ đề nghị nếu đã nêu rõ
quyền này trong đề nghị và bên được đề nghị nhận được thông báo về việc
hủy bỏ đề nghị trước khi bên này gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng.
9
 Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên được đề nghị trong thời hạn
chờ bên được đề nghị trả lời.
Đây là trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng do ý chí của cả
hai bên, cả bên đề nghị và bên được đề nghị. Nghĩa là, bất cứ lúc nào trong
khoảng thời gian chờ bên được đề nghị trả lời, bên đề nghị và bên được đề
nghị đã có thỏa thuận chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng, nhưng không được
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác.
Như vậy, khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì đề nghị giao kết
hợp đồng dân sự đương nhiên chấm dứt, nhưng khác nhau ở điểm việc trả lời
chấp nhận sẽ là sự chấm dứt lời đề nghị và chuyển sang giai đoạn chuẩn bị ký
kết hợp đồng.
Đối với trường hợp hết thời hạn trả lời chấp nhận bao gồm cả việc
bên được đề nghị chậm trả lời hoặc bên được đề nghị im lặng không trả lời.
Trong thực tế, việc xác định thời điểm trả lời không phải lúc nào cũng dễ
dàng thực hiện được vì nếu câu trả lời được chuyển bằng thư tín, hoặc chuyển
qua internet trong trường hợp mạng internet bị lỗi…mà sự trả lời đó còn đến
sau thời hạn trả lời, thì phải lấy mốc thời gian mà người gửi thư tín đi theo
dấu bưu điện hoặc thời điểm gửi thư đi được xác định theo phương tiện điện
tử để xác định sự trả lời đó có đúng thời hạn hay không đúng thời hạn. Nếu
ngày gửi trong thời hạn trả lời thì không được coi là chậm trả lời.
Trong thời hạn đã nêu trong đề nghị, đề nghị giao kết hợp đồng ràng
buộc người đề nghị. Vì vậy, pháp luật cũng quy định khi nào thì coi đề nghị
được chấm dứt và bên đề nghị giao kết hợp đồng được giải phóng khỏi trách
nhiệm ràng buộc trong quan hệ với bên được đề nghị. Quy định này không
những tạo điều kiện cho bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể đề nghị với các
10
chủ thể khác, mà còn bảo về quyền lợi cho cả bên được đề nghị giao kết hợp
đồng.
1.2. Khái luận hủy đề nghị giao kết hợp đồng
1.2.1. Khái niệm hủy đề nghị giao kết hợp đồng
Đề nghị giao kết hợp đồng là một yếu tố cấu thành nên sự thỏa thuận có
hiệu lực pháp luật được gọi là hợp đồng. Chính vì sự đặc biệt này và sự ràng
buộc hiệu lực của hợp đồng mà việc xác định một lời đề nghị có được chấp
nhận ký kết trở thành hợp đồng là một việc rất quan trọng. Tuy nhiên, trong
thực tế, nhiều trường hợp vì nhiều lý do khác nhau khiến cho bên đề nghị hủy
đề nghị giao kết. Vấn đề này cũng quan trọng không kém khi giải quyết tranh
chấp đề nghị giao kết hợp đồng. Việc xác định này chỉ có thể thành công khi
làm rõ được lời đề nghị được đưa ra như thế nào và cách thức hủy bỏ lời đề
nghị đó ra sao?
Theo khoản 1, Điều 16 của Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không có định nghĩa về hủy đề nghị
giao kết hợp đồng mà chỉ quy định: “Cho tới khi hợp đồng được giao kết,
người chào hàng vẫn có thể thu hồi chào hàng, nếu như thông báo về việc thu
hồi đó tới nơi người được chào hàng trước khi người này gửi thông báo chấp
nhận chào hàng” [12].
Trong khi đó, tại khoản 1 Điều 2.1.4 Bộ Nguyên tắc hợp đồng thương
mại quốc tế của UNIDROIT năm 2004 cũng chỉ quy định“Cho đến khi hợp
đồng được giao kết, đề nghị giao kết vẫn có thể bị hủy bỏ, nếu hủy bỏ này đến
bên được đề nghị trước khi bên này gửi chấp nhận giao kết hợp đồng” [9].
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2.202 của Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng
châu Âu, “Đề nghị giao kết vẫn có thể bị hủy bỏ, nếu hủy bỏ này đến bên
được đề nghị trước khi bên này gửi chấp nhận giao kết hợp đồng, hoặc trong
trường hợp chấp nhận giao kết hợp đồng được thể hiện bằng cách ký kết hợp
11
đồng thì đến trước khi hợp đồng được ký kết” [17].
Tương tự, tại Điều 390 BLDS 2015 quy định: “Bên đề nghị giao kết hợp
đồng có thể hủy bỏ đề nghị nếu đã nêu rõ quyền này trong đề nghị và bên
được đề nghị nhận được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị trước khi người
này gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng”.
Theo nguyên tắc, mỗi khi một lời đề nghị giao kết hợp đồng được đưa ra
mà không trái với những quy định của pháp luật thì nó cũng chỉ có giá trị ràng
buộc trong phạm vi nhất định. Bên cạnh đó, lời đề nghị phải được đưa ra một
cách thiện chí, trung thực và bên đưa ra lời đề nghị phải thực hiện đúng nội
dung trong lời đề nghị nếu như bên được đề nghị trả lời chấp nhận. Tuy
nhiên, trong thực tế, có nhiều trường hợp vì những lý do khác nhau, nếu như
lời đề nghị được chấp nhận và hợp đồng được hình thành thì sẽ làm cho lợi
ích của các bên không còn ngang bằng thậm chí là gây thiệt hại lớn đến bên
đề nghị. Quy định về hủy đề nghị giao kết hợp đồng là biện pháp mà pháp
luật Việt Nam chúng ta dùng để hạn chế tình trạng trên và cũng để đảm bảo
quyền và lợi ích của bên đề nghị. Như vậy, từ những quy định nêu trên ta có
thể rút ra được khái niệm về hủy đề nghị giao kết hợp đồng như sau:
Hủy đề nghị giao kết hợp đồng là sự thể hiện rõ ràng ý chí đơn phương
của bên đề nghị thông qua hành vi gửi thông báo hủy đến bên được đề nghị
khi không muốn tiếp tục giao kết hợp đồng hay nói cách khác đó là hành vi
nhằm chấm dứt sự ràng buộc bởi chính lời đề nghị mình đưa ra ban đầu.
Theo định nghĩa trên thì hủy đề nghị giao kết hợp đồng phải đảm bảo các
yếu tố sau đây:
Một là, bên đưa ra đề nghị cũng chính là bên có quyền hủy đề nghị đó
phải là một chủ thể xác định. Khi một lời đề nghị được đưa ra, bên đề nghị
cần thể hiện rõ trong phần người gửi hoặc trong nội dung đề nghị về trụ sở
kinh doanh (nếu là pháp nhân), địa chỉ thường trú (nếu là thể nhân) hoặc làm
12
cách khác để bên được đề nghị có thể hoặc chắc chắn sẽ xác định chính xác
được yếu tố này.
Hai là, phải có bên được đề nghị và thông báo hủy đề nghị đưa ra đã
được nhận. Bên được đề nghị là một hay nhiều người, có thể xác định hay
không thể xác định.
Ba là, sự biểu lộ ý chí đơn phương của bên đề nghị để giúp họ giải
phóng khỏi sự ràng buộc của lời đề nghị do chính mình đưa ra.
1.2.2. Chủ thể hủy đề nghị giao kết hợp đồng
Hủy đề nghị giao kết hợp đồng là kết quả tất yếu xảy ra nếu mục đích
ban đầu của lời đề nghị giao kết hợp đồng không còn tồn tại hoặc vì một
nguyên nhân nào đó khiến bên đề nghị không còn muốn tiếp tục đề nghị giao
kết này nữa nên chủ thể của đề nghị giao kết hợp đồng cũng chính là chủ thể
của hủy đề nghị giao kết hợp đồng.
Theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật dân sự 2015, “Đề nghị giao kết hợp
đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề
nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng
(sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”.
Trường hợp nếu bên được đề nghị là công chúng có nghĩa khi đưa ra đề
nghị giao kết hợp đồng bên đề nghị mặc dù thể hiện rõ ràng mong muốn ràng
buộc của mình, nhưng lại không thể biết chính xác về bên được đề nghị cho
đến khi bên này trả lời chấp nhận. Đây là một thay đổi lớn vì theo khoản 1
Điều 390 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc
thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của
bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”, quan điểm này khá cứng
nhắc khi chỉ giao kết hợp đồng với bên đã được xác định trong một thị trường
rộng lớn và đầy tính cạnh tranh như hiện nay.
13
Bởi vì đề nghị giao kết hợp đồng là một giao dịch pháp lý song phương
hoặc đa phương nên chủ thể của hủy đề nghị giao kết hợp đồng cũng phải có
ít nhất từ hai bên trở lên bao gồm bên đề nghị và bên được đề nghị. Tuy
nhiên, chúng ta cần phải hiểu rõ ràng rằng, trong quan hệ về đề nghị giao kết
hợp đồng, bên đề nghị chỉ bao gồm một chủ thể duy nhất trong khi đó bên
được đề nghị có thể tồn tại một hay nhiều chủ thể khác nhau trong cùng một
thời điểm. Các chủ thể khi cùng tồn tại trong quan hệ đề nghị giao kết hợp
đồng đều phải có tư cách chủ thể tức là phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật đối với một chủ thể trong quan hệ dân sự (ví dụ
nếu chủ thể là cá nhân thì phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về năng lực pháp
luật, năng lực hành vi dân sự…).
1.2.3. Bản chất và đặc điểm hủy đề nghị giao kết hợp đồng
Hủy đề nghị giao kết hợp đồng chính là sự biểu lộ ý chí đơn phương của
bên đề nghị và hành vi đó nhằm giúp chính họ thoát khỏi ràng buộc bởi chính
mình đưa ra. Ý chí này của bên đề nghị truyền đạt đến bên được đề nghị tại
một trong hai thời điểm là trước hoặc sau khi bên được đề nghị chấp nhận. Vì
thế, hủy đề nghị giao kết hợp đồng bản chất là một hành vi pháp lý đơn
phương là điều không thể nhận định khác được. Giáo trình luật dân sự Việt
Nam của trường Đại học Luật Hà Nội lý giải là “hành vi thể hiện ý chí của
một bên chủ thể nhằm qua đó làm phát sinh, thay đổi họăc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự. Đây là một loại giao dịch dân sự trong đó là sự biểu hiện ý
chí đơn phương của một bên” [4, tr. 18-19]. Hành vi này là sự thể hiện ý chí
hay ý định cả trong sự kết lập lẫn trong sự thi hành của một bên chủ thể trong
quan hệ.
Hủy đề nghị giao kết hợp đồng mặc dù được thể hiện theo nhiều cách
khác nhau nhưng nhìn chung đều có các điều kiện dưới đây:
Thứ nhất, giải phóng khỏi tính ràng buộc;
14
Thứ hai, tính thời điểm;
Thứ ba, tính phải được “gửi đến” bên được đề nghị.
 Đặc điểm về giải phóng khỏi tính ràng buộc
Điều kiện cơ bản nhất luôn phải được xem xét chính là sự giải phóng
khỏi tính ràng buộc hoặc là sự thể hiện ý chí muốn thoát khỏi đề nghị giao kết
hợp đồng giữa bên đề nghị với bên được đề nghị. Yếu tố này bộc lộ mong
muốn của bên đề nghị thể hiện qua hành vi hủy đề nghị giao kết hợp đồng.
Vậy thì, như thế nào được coi là sự thể hiện rõ ràng ý chí muốn hủy đề nghị
giao kết hợp đồng của bên đưa ra đề nghị và sự giải phóng khỏi tính ràng
buộc này được thể hiện ra sao?
Trong các trường hợp mà có thể chứng minh hành vi đó là sự thiếu ý chí
một cách chắc chắn thì hủy đề nghị giao kết hợp đồng sẽ không có hiệu lực.
Cũng giống như khi đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng thì những từ ngữ
hoặc hành động phải thể hiện được ý định hủy đề nghị giao kết hợp đồng và
bên nhận đề nghị phải tin chắc vào ý định đó. Hủy đề nghị giao kết hợp đồng
phải căn cứ vào lời nói, hành động hoặc bất cứ hình thức nào mà bên được đề
nghị có thể tin rằng những lời nói hoặc hành động đó là sự thể hiện ý định rõ
ràng của bên đề nghị.
Trên thực tế, có rất nhiều quan điểm khác nhau về ý chí thể hiện mong
muốn và đây là một yếu tố có căn cứ khó xác định. Vì thế, việc có thể hiểu rõ
được ý chí này thường không thể áp dụng giải thích cho mọi trường hợp hay ở
tất cả các hoàn cảnh. Tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể mà có thể diễn giải hay
giải thích chúng.
 Đặc điểm về tính thời điểm.
Hủy đề nghị giao kết hợp đồng chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị
nhận được nó và phải trước khi bên được đề nghị trả lời chấp lời đề nghị.
Khi bên được đề nghị nhận được thông báo về việc hủy đề nghị giao kết
15
hợp đồng chính là thời điểm bắt đầu có hiệu lực của hủy đề nghị giao kết hợp
đồng. Việc tính thời điểm bắt đầu lúc “nhận được” đóng vai trò rất quan trọng
vì chỉ ra chính xác thời điểm mà bên được đề nghị có thể yêu cầu bồi thường
thiệt hại.
 Đặc điểm về tính phải được “gửi đến” bên được đề nghị.
Theo quy định tại Điều 390 BLDS 2015 thì “bên được đề nghị nhận
được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị” điều này có nghĩa pháp luật Việt Nam
đã quy định rõ bắt buộc bên được đề nghị phải nhận được thông báo hủy bỏ
đề nghị giao kết hợp đồng thì thông báo đó mới có hiệu lực.
Hiện nay, các hệ thống pháp luật trên thế giới tồn tại hai quan điểm khác
nhau về vấn đề này bao gồm:
Một là, thông báo chỉ có hiệu lực khi đến bên nhận.
Hai là, thông báo có hiệu lực khi đã được gửi đi và không nhất thiết phải
đến bên nhận.
Ở quan điểm thứ hai có nghĩa là khi bên có quyền đã thực hiện đầy đủ
thủ tục theo quy định, nhưng vì những lý do khách quan mà thông báo không
đến được thì họ không mất quyền viện dẫn việc đã thực hiện thủ tục thông
báo.
Đối với PICC, Điều 1.10 quy định rõ “một thông báo có hiệu lực khi nó
đến bên nhận” và đồng thời “một thông báo đến bên nhận khi được thông báo
bằng miệng hoặc thông báo được giao đến trụ sở hay địa chỉ thư tín” [9].
Nghĩa là thông báo trực tiếp bằng miệng đến bên người nhận khi được trao
đổi với chính người này hoặc một người khác được người này ủy quyền; các
thông báo dạng khác phải được gửi đến bên nhận thông báo hoặc được gửi
đến trụ sở hay địa chỉ thư tín của bên nhận thông báo nhưng điều này không
có nghĩa thông báo đó phải được chuyển đến tận tay bên nhận hay họ phải
thực sự đọc nó.
16
Trong trường hợp, thông báo hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng đã được
gửi đi, nhưng chưa đến bên được đề nghị mà bên này đã thực hiện việc trả lời
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thì việc xem một thông báo hủy bỏ có
hiệu lực khi đến bên nhận thiết nghĩ là cần thiết. Bởi lẽ, thông báo là một thủ
tục bắt buộc cần phải có khi hủy đề nghị giao kết hợp đồng nên nếu chấp nhận
thông báo vẫn có hiệu lực dù không đến được bên nhận thì thủ tục này không
còn ý nghĩa. Điều này dễ dẫn đến tâm lý của bên có quyền là chỉ cần gửi
thông báo đi mà không quan tâm kết quả liệu rằng thông báo đó đã đến hay
chưa hoặc lạm dụng quyền này để gây thiệt hại cho bên kia. Còn bên được đề
nghị không thể biết được đề nghị giao kết hợp đồng có còn hiệu lực hay
không.
Vì vậy, để hủy đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực trên thực tế thì nó
phải được gửi đến bên được đề nghị. Khi có ý định hủy đề nghị giao kết hợp
đồng thì bên đề nghị phải gửi quyết định đó của mình đến bên được đề nghị
và quan trọng là bên được đề nghị phải nhận được. Khi đưa ra đề nghị giao
kết hợp đồng là hy vọng thực hiện một việc nhất định cùng với một bên khác
thì hủy đề nghị giao kết hợp đồng là ý định không tiếp tục thực hiện ước
muốn ban đầu. Điều này nghĩa là ý định đó phải được thể hiện ra bên ngoài,
và một yếu tố không kém phần quan trọng là bên được đề nghị phải nhận biết
được ý định này. Vẫn biết rằng hủy đề nghị giao kết hợp đồng là ý chí đơn
phương nhằm thoát khỏi sự ràng buộc, nhưng không thể có việc bên đề nghị
suy nghĩ là sẽ hủy đề nghị giao kết hợp đồng, không thể hiện ý định đó ra bên
ngoài và gửi đến bên được đề nghị và như vậy là đề nghị giao kết hợp đồng
đó tự động hủy.
Hơn thế nữa, cũng giống như khi bên đề nghị đưa ra lời đề nghị giao kết
hợp đồng thì hủy đề nghị giao kết hợp đồng chỉ được coi là có hiệu lực pháp
luật nếu như nó được gửi đến bên được đề nghị một cách tự nguyện không bị
17
ép buộc. Nó có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào miễn là nó phải
đảm bảo bên được đề nghị phải nhận thông báo về việc hủy đề nghị giao kết
hợp đồng.
1.2.4. Hình thức hủy đề nghị giao kết hợp đồng
Việc hủy đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng cách bên đề
nghị thông báo cho bên được đề nghị, trong đó bên đề nghị có trách nhiệm
nêu rõ hoặc ngụ ý rằng bên đề nghị không còn có ý định tham gia vào hợp
đồng do chính mình đề xuất, nếu bên được đề nghị nhận được thông báo trước
khi bên này trả lời chấp nhận đề nghị giao kết thì việc hủy đề nghị thành
công. Đơn thuần nếu bên đề nghị chỉ có mục đích hủy bỏ đề nghị giao kết hợp
đồng mà không thực hiện thì đó là không đủ điều kiện và nó không thể trở
thành thông báo hủy bỏ đề nghị giao kết và gửi đến cho bên được đề nghị
được biết.
Bộ luật dân sự 2015 không có quy định cụ thể nào về hình thức của hủy
đề nghị giao kết hợp đồng vì thế loại thông báo hủy này có thể được thực hiện
với nhiều hình thức khác nhau và có thể được thể hiện dưới bất kì hình thức
nào như bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể để truyền đạt ý
định không tiếp tục thực hiện đề nghị giao kết hợp đồng ban đầu nhưng phải
có bằng chứng chứng minh điều này. Mặc dù vậy, nhìn chung các hình thức
đó được xếp vào hai nhóm là thông báo trực tiếp và thông báo gián tiếp. Cụ
thể là:
 Thông báo trực tiếp
Khi việc hủy bỏ đề nghị giao kết không hiệu quả, nghĩa là bên được đề
nghị không biết về điều đó, phương pháp hủy bỏ tốt nhất là trực tiếp thông
báo cho bên được đề nghị rằng bên đề nghị đã thay đổi ý định của mình trong
quá trình giao dịch giữa hai bên. Mặc dù có những quy định chính thức về
việc hình thành nên một đề nghị giao kết hợp đồng, nhưng không có quy định
18
tương tự về tính hợp lệ của việc hủy bỏ đề nghị giao kết. Có nhiều hình thức
trao đổi khác nhau giữa bên đề nghị và bên được đề nghị thì đều chấp nhận
được.
 Thông báo gián tiếp
Bên cạnh thông báo trực tiếp, bên được đề nghị sẽ mất quyền trả lời chấp
nhận của mình khi họ biết được dù thông qua bất cứ hình thức nào lời đề nghị
giao kết đã bị hủy bỏ như là bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường
bưu điện, thông qua phương tiện điện tử hoặc các phương tiện khác mà bên đề
nghị và bên được đề nghị không có mặt tại cùng một địa điểm để hủy đề nghị
giao kết hợp đồng (bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể…)
nhằm mục đích biểu lộ ý chí của mình mong muốn thoát khỏi sự ràng buộc
bởi chính lời đề nghị giao kết hợp đồng do chính mình đưa ra với chủ thể nhất
định.
1.2.5. Hiệu lực của hủy đề nghị giao kết hợp đồng
Đề nghị giao kết hợp đồng được xem như bước đầu tiên để tạo nên hợp
đồng giữa hai bên, vì vậy nếu như có bất kỳ sự thay đổi ý chí nào thì nó cũng
phải tuân theo những yêu cầu nhất định để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của bên đề nghị và bên được đề nghị.
Cũng giống như đề nghị giao kết hợp đồng thì hủy đề nghị giao kết hợp
đồng là hành vi pháp lý đơn phương, do bên đề nghị giao kết hợp đồng đưa ra
trước thời điểm bên được đề nghị trả lời chấp nhận. Để hủy đề nghị giao kết
hợp đồng có hiệu lực thì điều kiện tiên quyết là phải đảm bảo rằng bên được
đề nghị nhận được thông báo hủy đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, để
thông báo hủy này có thể mang tính bắt buộc bên được đề nghị phải chấp
nhận thì nó phải bảo đảm tuân thủ đầy đủ các yếu tố cần có (điều kiện hủy đã
được ghi nhận trong đề nghị giao kết và tính thời điểm phải trước khi bên
được đề nghị chấp nhận).
19
1.2.6. Ý nghĩa của hủy đề nghị giao kết hợp đồng
Đề nghị giao kết không chứa đựng mối liên hệ trong việc thực hiện nghĩa
vụ của bên này là quyền lợi của bên kia mà nó đơn giản như một lời chào mời
có kèm thời gian trả lời xem có chấp nhận hay không và nếu bên được đề nghị
chấp nhận thì sẽ đi đến các bước kế tiếp trong việc ký kết hợp đồng. Xét về
mặt lý thuyết hay trên thực tế, trước khi một lời đề nghị giao kết hợp đồng
được đưa ra, bên đề nghị đã dự liệu, tính toán được những lợi ích nếu lời đề
nghị được chấp nhận. Tuy nhiên, dưới tác động của cơ chế thị trường, người
kinh doanh luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro mang tính chất tiềm ẩn có thể
gây ra những thiệt hại khôn lường và không một bên nào trong hai bên muốn
tự ràng buộc mình với hợp đồng nếu như trong khoảng thời gian trả lời họ
nhìn thấy khả năng hợp đồng không còn sinh lợi hoặc có thể gây ra tổn thất và
có thể bị hủy trong tương lai. Để tránh những tổn thất và ràng buộc đó khi lời
đề nghị được chấp nhận thì bên đề nghị sẽ chủ động hủy bỏ lời đề nghị. Hủy
đề nghị giao kết là công cụ hữu hiệu để bên đề nghị dừng việc đi đến ký kết
hợp đồng.
Mục tiêu hàng đầu của hoạt động kinh doanh là lợi nhuận, đó cũng là
động cơ thôi thúc các chủ thể tham gia vào các quan hệ giao thương. Tuy
nhiên, thương trường luôn là nơi tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro. Do đó, quy định
này của pháp luật, tạo điều kiện cho bên đề nghị trong trường hợp việc thực
hiện hợp đồng trên thực tế không còn đáp ứng mục tiêu lợi nhuận ban đầu
hoặc lý do nào đó mà không thể tiếp tục việc đề nghị giao kết hợp đồng với
bên kia thì vẫn có thể bảo vệ đến mức tối đa quyền lợi của mình.
Mặt khác, với sự thay đổi thường xuyên của môi trường kinh doanh,
nhiều cơ hội tốt hơn có thể xuất hiện, thúc đẩy các bên muốn tìm kiếm lợi
nhuận lớn hơn ở một quan hệ hợp đồng khác. Trong những trường hợp như
vậy, pháp luật yêu cầu bên đề nghị giao kết hợp đồng phải nắm rõ các quy

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *