VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ XUÂN TÙNG
CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là công trình
nghiên cứu thực sự của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
PSG.TS Nguyễn Đức Minh.
Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Hà Nội, ngày……tháng……năm 2016
Học viên
Lê Xuân Tùng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………………..
1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ ……………………………………………………………………………………..
6
1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự
…………………………………………………
6
1.2. Đặc điểm các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự ……………………………..
7
1.3. Phân loại các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự ……………………………..
9
1.4. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự …………………….
16
1.5. Căn cứ của việc quy định các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
……..
17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG
CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ……………………………………………………………………………………………..
20
2.1. Thực trạng pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
……………
20
2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn
thành phố Hà Nội ………………………………………………………………………………………
50
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..
57
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
…………..
57
3.2. Yêu cầu đối với việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự …………..
64
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn thành
phố Hà Nội
………………………………………………………………………………………………
67
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………..
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
………………………………………………………
77
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
2.1
Kết quả THADS giai đoạn 2011 – 2015 về việc
52
2.2
Kết quả THADS giai đoạn 2011 – 2015 về tiền
53
2.3
Kết quả việc tổ chức cưỡng chế thi hành án của toàn
thành phố Hà Nội năm 2013 – 2015
54
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước, quyết định của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại khi được
chấp hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với
pháp luật và nhà nước. Vì thế, hoạt động thi hành án dân sự (THADS) mang ý
nghĩa thực sự quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố trật tự
pháp luật và giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp
được thực thi trên thực tế. Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định “Bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan, tổ chức cá
nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta đã
đề ra mục tiêu trong những năm tới đây là phải: Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản
án của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi
phạm bị xử lý theo phán quyết của tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành. Nhiều năm
qua, Chính phủ đã xác định công tác THADS là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm và đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong
công tác này. Luật thi hành dân sự ra đời cùng với một loạt các văn bản quy phạm
pháp luật thể chế hóa các quy định của Luật này vào cuộc sống, đã đánh dấu bước
đổi mới cơ bản điều chỉnh tất cả các lĩnh vực trong công tác thi hành án. Đồng thời
xác định Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý Nhà nước thống nhất công
tác thi hành án, từng bước xã hội hóa hoạt động thi hành án (THA).
Vì vậy, công tác THADS trong những năm qua đạt được một số kết quả đáng
khích lệ, mà kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính phủ là: “Hệ thống cơ
quan THADS được hình thành trong cả nước, công tác THADS đã được triển khai
và hoạt động có hiệu quả bước đầu”. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác THADS hiện
vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất
cập đang đặt ra cần được giải quyết.
2
Vấn đề nóng bỏng của ngành THADS là số việc phải thi hành tồn đọng rất
lớn. Điều này dẫn đến suy giảm hiệu lực của bản án cũng như tính tối cao của pháp
luật. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng này là việc cơ quan
THADS gặp rất nhiều vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng biện pháp cưỡng
chế để thi hành dứt điểm vụ việc. Thực trạng này, một phần xuất phát từ nguyên
nhân: trình độ chuyên môn của lãnh đạo đơn vị, Chấp hành viên, cán bộ làm công
tác THADS còn hạn chế, không cập nhật kiến thực mới. Mặt khác, là do chưa có sự
phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan
hữu quan trong quá trình tổ chức thi cưỡng chế thi hành án. Và một nguyên nhân
căn bản là sự thiếu đồng bộ của mỗi ngành luật và sự nhất quán của hệ thống văn
bản từ luật đến các văn bản dưới luật. Và nhất là các quy định về cưỡng chế
THADS chưa được hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp lý về THADS chưa đầy
đủ, chậm được bổ sung, chưa sửa đổi kịp thời hoặc vừa ra đời đã lạc hậu so với thực
tiễn sinh động; cơ chế áp dụng pháp luật thi hành án hiện nay chưa thực sự hợp lý,
gây cản trở và làm giảm hiệu quả công tác THADS.
Cưỡng chế THADS là hoạt động thường xuyên được thực hiện trong công
tác THADS. Áp dụng khi các bản án, quyết định không được tự nguyện thi hành.
Hiệu quả của hoạt động cưỡng chế THADS ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công
tác thi hành án.
Mặt khác, hoạt động cưỡng chế thi hành án tác động sâu rộng đến các quan
hệ xã hội của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền và
nghĩa vụ liên quan trong bản án. Do đó, vấn đề cưỡng chế tài sản của người phải thi
hành án phải được nghiên cứu ký lưỡng để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật, đồng thời bảo đảm quyền lợi hợp pháp của đương sự.
Với tất cả những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành
phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
THADS là một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm. Trước những đòi hỏi khách
3
quan của công tác THADS, đã có những công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh
vực này như:
– Đề tài: “Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam”
luận án tiến sĩ luật học của tác giả Đặng Đình Quyền năm 2012.
– Đề tài: “Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản trong thi hành án dân sự”
luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thanh Phong, năm 2011.
– Đề tài: “Cưỡng chế thi hành án dân sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn”
khoá luận tốt nghiệp của tác giả Dương Thu Hương, năm 2010.
– Đề tài: “Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền trong hoạt động thi
hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội” luận văn Thạc sĩ Luật học của tác
giả Lê Đình Nam, năm 2012.
– Đề tài: “Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở thành phố Hà Nội
hiện nay” luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Kim Tuyến, năm 2010.
– Đề tài: “Pháp chế Xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở
nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học tại Học viện Chính trị – Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Quang Thái, năm 2008.
– Đề tài: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”,
Luận án Tiến sĩ Luật học tại Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm 2008.
Nhìn chung, các công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi
hành án dân sự nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc
độ lý luận và thực tiễn đặc thù trong quá trình áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án tại thành phố Hà Nội.
Vì vậy, sau khi nghiên cứu, tiếp thu, kế thừa các quan điểm khoa học của các công
trình khoa học trên, tác giả xác định việc nghiên cứu chuyên sâu về áp dụng các
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa
án từ thực tiễn thành phố Hà Nội là điều cần thiết.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở kế thừa và làm rõ những vấn đề lý luận về các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự, luận văn đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án qua thực tiễn
tại thành phố Hà Nội, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp cưỡng thi hành án dân sự nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
– Làm rõ cơ sở lý luận về các biện pháp cưỡng chế THADS.
– Đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật về THADS, thực tiễn áp dụng các
biện pháp cưỡng chế THADS trên địa bàn thành phố Hà Nội.
– Phân tích những khó khăn, vướng mắc qua thực tiễn áp dụng các biện biện
pháp cưỡng chế THADS.
– Tìm ra những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
các biện pháp cưỡng chế THADS trên địa bàn thành phố Hà Nội để có thể nhân
điển hình đến các cơ quan THADS trong cả nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này đi sâu nghiên cứu, phân tích về các biện pháp thi hành án dân sự
từ cơ sở lý luận khoa học, từ các quy định của pháp luật hiện hành đến thực tiễn
thực trạng áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quá trình tổ
chức thi hành án tại các cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn phân tích, đánh giá về thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế
thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm
2013 đến năm 2015.
5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, hệ thống các quan điểm, học thuyết Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được tiến hành nghiên cứu dựa trên các
phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, so sánh, đánh giá số liệu thu thập
được liên quan đến pháp luật và thực trạng áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự qua thực tiễn thực hiện ở thành phố Hà Nội
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: luận văn góp phần làm rõ thêm khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội
dung của các biện pháp cưỡng chế THADS và cơ sở của việc quy định các biện
pháp này; luận văn phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của Luật
THADS về các biện pháp cưỡng chế THADS và thực tiễn áp dụng quy định các
biện pháp cưỡng chế THADS trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Về thực tiễn: từ những phân tích, đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất được
những kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về
các biện pháp cưỡng chế THADS và kinh nghiệm vận dụng những kiến nghị, giải
pháp cụ thể đó vào thực tế nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS tại thành phố
Hà Nội nói riêng cũng như trong công tác THADS nói chung tại các địa phương
trong cả nước.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần chính của
luận văn có 03 chương với các nội dung cơ bản gồm:
Chương 1. Cơ sở lý luận của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Chương 2. Thực trạng pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự qua thực tiễn thực hiện ở thành phố Hà Nội
Chương 3. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC BIỆN PHÁP
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên
đã được bản án, quyết định của Tòa án ghi nhận. Trong thi hành án dân sự, các bên
đương sự có quyền tự định đoạt, thỏa thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa
vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án. Tự nguyện thi hành án dân sự đã trở thành
như một nguyên tắc, biện pháp quan trọng trong hoạt động thi hành án dân sự.
Khi người phải thi hành án được Chấp hành viên giải thích, thuyết phục tự
nguyện thi hành án những vẫn tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh để không tự nguyện
thi hành, thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế thi hành.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 – Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014
thì người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Tại điều 45 và
Điều 46 – Luật thi hành án dân sự cũng quy định sau khi hết thời gian tự nguyện thi
hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà
không thi hành hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án, thì Chấp hành viên
có quyền áp dụng kịp thời các biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Như vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự dùng
quyền lực của nhà nước, nhằm buộc người phải thi hành án dân sự thực hiện những
hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của tòa án; Cưỡng chế thi
hành án dân sự do chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự quyết định áp dụng
theo thẩm quyền trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án,
đã được thông báo hợp lệ, đã hết thời gian tự nguyện thi hành án mà không tự
nguyện thi hành; Hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án dân
sự tẩu tán, hủy hoại tài sản [16, tr.72].
Cách hiểu này tuy chỉ mang tính tương đối nhưng nó đã xác định được:
7
Chủ thể áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là Chấp hành viên
cơ quan thi hành án dân sự được trao quyền áp dụng trong từng vụ việc thi hành án
dân sự cụ thể.
Khách thể của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là trật tự thực thi
những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội và công dân…là người phải thi hành án thực hiện những
hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật.
Phương tiện của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là quyền lực Nhà
nước được quy định trong hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự.
Mục đích của áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là ngăn chặn
người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản và đảm bảo quyền và lợi ích chính
đáng của Nhà nước, các tổ chức và công dân, giữ vững ổn định chính trị và trật tự
an toàn xã hội.
1.2. Đặc điểm các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Thứ nhất, cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện quyền năng đặc biệt của
Nhà nước và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước. Biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự phải do cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Ở nước
ta, thẩm quyền tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc về cơ quan Thi hành
án dân sự.
Thứ hai, cưỡng chế thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định của pháp
luật. Mọi hành vi gây cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án dân sự đều có
thể bị phạt tiền hoặc bị đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Thứ ba, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải căn cứ căn
cứ vào nội dung bản án, quyết định; quyết định thi hành án; tính chất, mức độ, nghĩa
vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; yêu cầu bằng văn bản của
8
đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án [7, tr.11].
Thứ tư, chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi hết thời hạn tự nguyện
thi hành án trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán,
hủy hoại tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Ngoài ra, Chấp hành viên không
được tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày
trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các đối tượng chính
sách là người phải thi hành án; các trường hợp đặc biệt khác ảnh hưởng nghiêm
trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phong tục, tập quán tại địa
phương [7, tr.11].
Thứ năm, đối tượng của cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi
của người phải thi hành án và được thực hiện trong trường hợp người phải thi hành
án có điều kiện thi hành.
Thứ sáu, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, ngoài việc phải
thực hiện các nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án, người phải thi hành án
còn phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án [23, tr.70]; [7, tr.27-28].
Thứ bảy, các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự không những có hiệu lực
với người phải thi hành án dân sự mà còn có hiệu lực cả với cá nhân, cơ quan tổ
chức có liên quan.
Thứ tám, việc tổ chức cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải
thi hành án và các chi phí cần thiết khác [7, tr. 11]. Chấp hành viên phải ước tính
giá trị tài sản để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều so với
nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân
chia sẽ làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp
dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án.
Thứ chín, để thực hiện cưỡng chế thi hành án, các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự đều phải tuân thủ thủ tục và một số nguyên tắc chung như: xác minh
điều kiện thi hành án của người phải thi hành án trước khi tiến hành cưỡng chế; xây
9
dựng kế hoạch cưỡng chế; thông báo hợp lệ các văn bản quyết định về thi hành án
dân sự cho đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các cơ quan hữu quan
theo luật định; Tuân thủ các quy định của pháp luật về thời hạn, thời hiệu trước,
trong và sau khi cưỡng chế… [15, tr17]
1.3. Phân loại các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Tại Điều 71 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định những biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự:
(1) Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án.
(2) Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
(3) Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ.
(4) Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
(5) Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
(6) Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công
việc nhất định.
Căn cứ vào đối tượng áp dụng cưỡng chế đối với tài sản là tiền để thi hành
nghĩa vụ trả tiền có thể phân loại thành 5 biện pháp cưỡng chế như:
Biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản: Chấp hành viên ra quyết
định khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án. Số tiền khấu trừ
không được vượt quá nghĩa vụ thi hành án và chi phí cưỡng chế. Trường hợp đối
tượng bị cưỡng chế có mở tài khoản tiền gửi tại nhiều Kho bạc Nhà nước, Ngân
hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác nhau thì chấp hành viên căn cứ số dư tài
khoản để quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản đối
với một tài khoản hoặc nhiều tài khoản để đảm bảo thu đủ tiền phải thi hành án và
chi phí cưỡng chế thi hành án. Nội dung biện pháp này được quy định tại Điều 76,
77 Luật Thi hành án dân sự năm 2008; Điều 21 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính Phủ; Điều 9, 10, 11 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-
BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014. Cơ quan, tổ chức đang quản lý tài
10
khoản phải khấu trừ tiền để chuyển vào tài khoản của cơ quan thi hành án hoặc
chuyển cho người được thi hành án theo quyết định khấu trừ [4, tr.5-6].
Biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án: Biện pháp
này được quy định tại Điều 78 Luật Thi hành án dân sự 2008, Điều 11, 12 Thông tư
liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014.
Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành
án đối với các khoản như: tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức
lao động và thu nhập hợp pháp khác. Việc trừ vào thu nhập của người phải thi hành
án được thực hiện trong các trường hợp: Theo thỏa thuận của đương sự; Bản án,
quyết định ấn định trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; Thi hành án cấp
dưỡng, thi hành án theo định kỳ, khoản tiền phải thi hành án không lớn hoặc tài sản
khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành án. Mức khấu trừ không được
vượt quá 30% tổng số tiền được nhận hàng tháng, trừ trường hợp đương sự có thỏa
thuận khác. Đối với thu nhập khác thì mức khấu trừ căn cứ vào thu nhập thực tế của
người phải thi hành án, nhưng phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của người
đó và người được nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật [20, tr.64,65].
Biện pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành
án: Biện pháp này được quy định tại Điều 79 Luật Thi hành án dân sự, Điều 22
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ. Biện pháp này được áp
dụng trong trường hợp xác định được người phải thi hành án có thu nhập từ hoạt
động sản xuất kinh doanh. Việc thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi
hành án theo định kỳ tùy theo tính chất ngành nghề kinh doanh của người phải thi
hành án. Khi thu tiền chấp hành viên phải để lại số tiền tối thiểu cho hoạt động kinh
doanh và sinh hoạt của người phải thi hành án và gia đình; Mức để lại phải đảm bảo
cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo tính chất ngành, nghề của người phải thi
hành án và đảm bảo mức sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình theo
quy định về chuẩn nghèo của nhà nước [20, tr.65].
Biện pháp cưỡng chế thu tiền của người phải thi hành án đang giữ: đây là biện
pháp được quy định tại Điều 80 Luật Thi hành án dân sự. Biện pháp này được áp
11
dụng trong trường hợp phát hiện người phải thi hành án đang giữ tiền mà có căn cứ
xác định khoản tiền đó là của người phải thi hành án thì chấp hành viên ra quyết
định thu tiền để thi hành án. Chấp hành viên lập biên bản thu tiền và cấp biên lai
cho người phải thi hành án [20, tr.66].
Biện pháp cưỡng chế thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba
giữ: Nội dung này quy định tại Điều 81 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Điều 23
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ. Khi phát hiện người
thứ ba đang giữ tiền của người phải thi hành án, chấp hành viên ra quyết định thu
khoản tiền đó để thi hành án. Trường hợp phát hiện tổ chức, cá nhân đang phải
trả tiền, tài sản cho người phải thi hành án mà khoản tiền tài sản đó đã được xác
định bằng bản án, quyết định của Tòa án đang có hiệu lực pháp luật thì chấp
hành viên yêu cầu tổ chức, cá nhân đó giao nộp số tiền, tài sản cho cơ quan thi
hành án để thi hành án [7, tr.17].
Căn cứ vào đối tượng áp dụng cưỡng chế là tài sản khác (không phải là tiền)
để thi hành nghĩa vụ trả tiền, có thể phân loại thành 4 biện pháp cưỡng chế như:
Biện pháp cưỡng chế thu giữ giấy tờ có giá: Được quy định tại Điều 82, 83
Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Biện pháp này được áp dụng trong trường hợp
phát hiện người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang giữ giấy tờ có
giá của người phải thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định thu giữ giấy tờ đó
để thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
giữ giấy tờ có giá không giao giấy tờ cho cơ quan thi hành án dân sự thì chấp hành
viên yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chuyển giao giá trị của giấy tờ đó để
thi hành án. [20, tr.66-67].
Biện pháp cưỡng chế đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ: Biện pháp này
được quy định tại Điều 84, 85, 86 Luật Thi hành án dân sự, Điều 29,30,31 Nghị
định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ và quy định của Luật Sở hữu
trí tuệ. Chấp hành viên ra quyết định kê biên quyền sở hữu trí tuệ thuộc quyền sở
hữu của người phải thi hành án, kể cả quyền sở hữu trí tuệ của người phải thi hành
án đã chuyển quyền sử dụng cho cơ quan tổ chức, cá nhân khác. Trường hợp nhằm
12
bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và lợi ích của Nhà nước, xã hội
quy định tại Luật sở hữu trí tuệ mà Nhà nước quyết định chủ sở hữu trí tuệ phải
chuyển giao quyền của mình cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong thời
gian nhất định thì chấp hành viên không được kê biên quyền sở hữu trí tuệ trong
thời gian bắt buộc phải chuyển giao [20, tr.67-68].
Biện pháp cưỡng chế đối với tài sản là quyền sử dụng đất: Theo quy định tại
Điều 110,111,112,113 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Theo đó, chấp hành viên
chỉ kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thuộc trường hợp được
chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Người phải thi hành
án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc trường hợp được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100, 101 Luật Đất
đai 2013, hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định thu
hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó. Khi kê biên quyền sử
dụng đất có tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án
thì kê biên cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Trường hợp đất của
người phải thi hành án có tài sản gắn liền với đất mà tài sản đó thuộc quyền sở hữu
của người khác thì chấp hành viên chỉ kê biên quyền sử dụng đất và thông báo cho
người có tài sản gắn liền với đất [20, tr.85].
Biện pháp cưỡng chế khai thác tài sản: được quy định tại Điều 107,108,109
Luật Thi hành án dân sự 2008. Theo đó, chấp hành viên cưỡng chế khai thác tài sản
trong trường hợp tài sản của người phải thi hành án có giá trị quá lớn so với nghĩa
vụ phải thi hành và tài sản đó có thể khai thác để thi hành án hoặc người được thi
hành án đồng ý cưỡng chế khai thác tài sản để thi hành án nếu việc khai thác tài sản
không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Tài sản của người
phải thi hành án bị cưỡng chế khai thác để thi hành án theo các hình thức: Tài sản
mà người phải thi hành án đang trực tiếp khai thác hoặc cho người khác khai thác
thì người đang khai thác được tiếp tục khai thác; Trường hợp tài sản, bao gồm cả
quyền sử dụng đất mà chưa khai thác thì chấp hành viên yêu cầu người phải thi
hành án ký hợp đồng khai thác tài sản với tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác tài
13
sản. Người khai thác tài sản này phải nộp số tiền thu được từ việc khai thác tài sản
cho cơ quan thi hành án dân sự, sau khi trừ các chi phí cần thiết [20, tr.82-83].
Căn cứ vào đối tượng áp dụng biện pháp cưỡng chế là vật để thi hành nghĩa
vụ trả vật theo nội dung được ghi cụ thể trong bản án, quyết định, có thể phân loại
thành 04 biện pháp cưỡng chế như:
Biện pháp cưỡng chế trả vật: Nội dung này được quy định tại Điều 114 Luật
Thi hành án dân sự 2008, khoản 38 Điều 1 của Luật số 64/2014/QH13 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thi hành án dân sự. Theo đó, đối với vật đặc định, chấp
hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng trả vật cho
người được thi hành án; nếu người đó không thi hành thì chấp hành viên thu hồi vật để
trả cho người được thi hành án. Đối với vật cùng loại thì chấp hành viên thực hiện việc
cưỡng chế theo nội dung bản án, quyết định. Trường hợp vật phải trả không còn hoặc
bị hư hỏng, giảm giá trị thì xử lý theo thỏa thuận của đương sự [20, tr.88-89].
Biện pháp cưỡng chế trả nhà, giao nhà: Biện pháp này được quy định tại Điều
115 Luật Thi hành án dân sự 2008. Theo đó, Trường hợp người phải thi hành án có
nghĩa vụ trả nhà thì chấp hành viên buộc người phải thi hành án và những người
khác có mặt trong nhà ra khỏi nhà, đồng thời yêu cầu họ tự chuyển tài sản ra khỏi
nhà; nếu họ không tự nguyện thực hiện thì chấp hành viên yêu cầu lực lượng cưỡng
chế đưa họ cùng tài sản ra khỏi nhà.
Trường hợp cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người phải thi hành án
cho người mua được tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán các khoản
nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc
tạo lập nơi ở mới thì trước khi làm thủ tục chi trả cho người được thi hành án, chấp
hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án
thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 01 năm.
Nghĩa vụ thi hành án còn lại được tiếp tục thực hiện theo quy định [20, tr.90-91].
Biện pháp cưỡng chế trả giấy tờ: Biện pháp này được thực hiện theo quy định
tại Điều 116 được sửa đổi bổ sung tại khoản 39 Điều 1 của Luật số 64/2014/QH13
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự. Theo đó, chấp hành viên
14
ra quyết định cưỡng chế buộc người phải thi hành án trả giấy tờ cho người được thi
hành án. Trường hợp xác định người thứ ba đang giữ giấy tờ phải trả thì chấp hành
viên yêu cầu người đó giao giấy tờ đang giữ, nếu người thứ ba không tự nguyện
giao thì chấp hành viên cưỡng chế buộc người đó giao giấy tờ để thi hành án.
Trường hợp giấy tờ không thể thu hồi được nhưng có thể cấp lại thì chấp hành viên
yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp giấy tờ
mới cho người được thi hành án. [23, tr.45].
Biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất: Nội dung này được quy
định tại Điều 117 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Theo đó, chấp hành viên áp
dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất trong trường hợp bản án,
quyết định tuyên nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất thì chấp hành viên tổ
chức giao diện tích đất cho người được thi hành án. Khi tiến hành giao đất phải có
sự tham gia của đại diện cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cùng cấp và Uỷ ban
nhân dân cấp xã nơi có đất được chuyển giao. Trường hợp quyền sử dụng đất có tài
sản gắn liền với đất được chuyển giao hình thành sau khi có bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật thì chấp hành viên yêu cầu người có tài sản đó tháo dỡ hoặc
chuyển tài sản ra khỏi diện tích đất phải chuyển giao cho người được thi hành án.
Trường hợp tài sản gắn liền với đất có trước khi có bản án, quyết định sơ thẩm
nhưng bản án, quyết định được thi hành không tuyên rõ việc xử lý đối với tài sản đó
thì cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định giải thích rõ
việc xử lý đối với tài sản hoặc đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại nội dung
bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm [20, tr.92-93].
Căn cứ vào đối tượng áp dụng biện pháp cưỡng chế là nghĩa vụ buộc thực
hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định theo nội dung bản án, quyết
định, có thể phân loại thành 04 biện pháp như:
Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện công việc nhất định:
Biện pháp này được quy định tại Điều 118 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Theo
đó, Trường hợp thi hành nghĩa vụ phải thực hiện công việc nhất định theo bản án,
quyết định mà người phải thi hành án không thực hiện thì chấp hành viên quyết
15
định phạt tiền và ấn định thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phạt
tiền để người đó thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Hết thời hạn đã ấn định mà người
phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ thi hành án: Nếu công việc đó có thể giao
cho người khác thực hiện thay thì chấp hành viên giao cho người có điều kiện thực
hiện; chi phí thực hiện do người phải thi hành án chịu. Trường hợp công việc đó phải
do chính người phải thi hành án thực hiện thì chấp hành viên đề nghị cơ quan có thẩm
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án [20, tr.93-94].
Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ không được thực hiện công việc nhất
định: Biện pháp này được quy định tại Điều 119 Luật Thi hành án dân sự 2008. Theo
đó, người phải thi hành án không tự nguyện chấm dứt việc thực hiện công việc mà
theo bản án, quyết định không được thực hiện thì chấp hành viên ra quyết định phạt
tiền đối với người đó, trong trường hợp cần thiết có thể yêu cầu họ khôi phục hiện
trạng ban đầu. Trường hợp người đó vẫn không chấm dứt công việc không được làm,
không khôi phục lại hiện trạng ban đầu thì chấp hành viên đề nghị cơ quan có thẩm
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án [20, tr.94].
Biện pháp cưỡng chế giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi
dưỡng theo bản án, quyết định. Biện pháp này quy định tại Điều 120 Luật Thi hành
án dân sự 2008.Theo đó, chấp hành viên ra quyết định buộc giao người chưa thành
niên cho người được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định. Trước khi cưỡng chế
giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng, chấp hành viên phối
hợp với chính quyền địa phương, tổ chức chính trị – xã hội tại địa phương đó thuyết
phục đương sự tự nguyện thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án hoặc
người đang trông giữ người chưa thành niên không giao người chưa thành niên cho
người được giao nuôi dưỡng thì chấp hành viên ra quyết định phạt tiền, ấn định thời
hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phạt tiền để người đó giao người
chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng. Hết thời hạn đã ấn định mà người
đó không thực hiện thì chấp hành viên tiến hành cưỡng chế buộc giao người chưa
thành niên hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
không chấp hành án [20, tr.94-95].
16
Biện pháp cưỡng chế buộc nhận người lao động trở lại làm việc. Biện pháp
này được quy định tại Điều 121 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Theo đó,
trường hợp người sử dụng lao động không nhận người lao động trở lại làm việc theo
bản án, quyết định thì chấp hành viên ra quyết định phạt tiền đối với người sử dụng
lao động là cá nhân hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức sử dụng lao động, đồng
thời ấn định thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định phạt tiền để người sử dụng
lao động thực hiện việc nhận người lao động trở lại làm việc. Trường hợp không thể
bố trí người lao động trở lại làm công việc theo nội dung bản án, quyết định thì
người sử dụng lao động phải bố trí công việc khác với mức tiền lương tương đương
theo quy định của pháp luật lao động. Trường hợp người lao động không chấp nhận
công việc được bố trí và yêu cầu người sử dụng lao động thanh toán các chế độ theo
quy định của pháp luật lao động thì người sử dụng lao động phải thực hiện việc
thanh toán để chấm dứt nghĩa vụ thi hành án [20, tr.95-96].
Ngoài các biện pháp cưỡng chế trên, Pháp luật về thi hành án dân sự còn quy
định cưỡng chế thi hành án dân sự trong một số trường hợp cụ thể như: Kê biên, xử lý
tài sản cầm cố thế chấp; Kê biên tài sản đang do người thứ ba giữ; Kê biên vốn góp; Kê
biên phương tiện giao thông; Kê biên hoa lợi; Kê biên đồ vật bị khóa, đóng gói…Các
trường hợp cụ thể này đều thuộc một trong số các biện pháp cưỡng chế ở trên.
1.4. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án chỉ được tiến hành khi có đủ
các điều kiện sau:
Thứ nhất, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải
thực hiện hành vi theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại.
Thứ hai, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án là những người mà
Chấp hành viên đã xác minh khẳng định được người đó có tài sản (trừ tài sản là tiền
thì không áp dụng biện pháp cưỡng chế này). Tài sản của người phải thi hành án có
17
thể là động sản, bất động sản và kể cả quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất, vốn
góp… theo quy định tại Mục 6 Luật THADS năm 2008.
Thứ ba, hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không
tự nguyện thi hành.
Thời gian tự nguyện thi hành án quy định tại Điều 45 Luật THADS sửa đổi,
bổ sung năm 2014 là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc
được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Nếu trong thời gian tự nguyện thi
hành án của người phải thi hành án mà không đạt được kết quả như mong muốn thì
Chấp hành viên phải dùng đến quyền lực của nhà nước tức là áp dụng các biện pháp
cưỡng chế để buộc người có nghĩa vụ phải thi hành theo đúng bản án, quyết định
của Tòa án và quyết định của cơ quan Thi hành án.
Thứ tư, chưa hết thời gian người phải thi hành án tự nguyện thi hành nhưng
cần ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Trong thời gian tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án, nếu Chấp
hành viên nhận thấy cần phải ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn
tránh nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên có quyền ra quyết định áp dụng ngay
các biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại Chương IV Luật THADS
theo quy định tại Khoản 2 Điều 45 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.
1.5. Căn cứ của việc quy định các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Hiến pháp năm 2013, Điều 106 quy định “Bản án, quyết định của Tòa án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.”
Bản chất của thi hành án là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành
phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm
buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án phải
thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của thi hành án là bảo
đảm cho các quyết định của Tòa án được ghi trong bản án, quyết định được thực thi
trên thực tế.
18
Mặc dù cưỡng chế thi hành án không được Nhà nước khuyến khích nhưng
người chấp hành viên cần phải xác định và cương quyết đến thời điểm nào khi mà
việc giáo dục, thuyết phục hay nói cách khác khi nào biện pháp tự nguyện không
đạt kết quả thì việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án là cần thiết để vừa giải
quyết dứt điểm vụ việc, vừa có tác dụng giáo dục, răn đe những đối tượng phải thi
hành án khác có điều kiện thi hành mà cố tình chây ỳ.
Quyền lợi của người phải thi hành án là một nội dung rất nhạy cảm, nó liên
quan mật thiết với không những cả về lợi ích kinh tế mà nhiều khi còn liên quan đến
cả yếu tố tinh thần… Mặt khác, đối với những vụ việc thi hành án thì các tranh chấp
giữa người phải thi hành án và người được thi hành án thường có giá trị không
nhỏ… Trong xu thế mở cửa, hội nhập phát triển kinh tế quốc tế, các tranh chấp phát
sinh không chỉ trong phạm vi trong nước mà cả nước ngoài. Vì vậy, số việc phải thi
hành án đang ngày càng lớn về giá trị tiền phải thi hành.
Xuất phát từ tính chất nhạy cảm, phức tạp, tầm quan trọng cũng như ảnh
hưởng đến quyền lợi của đương sự, Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng
dẫn thi hành đã quy định hết sức chặt chẽ về điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng các
biện pháp cưỡng chế. Tránh tình trạng cưỡng chế một cách bừa bãi, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân, gây mất
lòng tin của nhân dân đối với cơ quan Nhà nước và ảnh hưởng đến an ninh, trật tự
xã hội chung. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là một trong những hoạt
động quan trọng, nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại. Do đó,
thi hành dứt điểm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu
lực pháp luật nhưng được thi hành ngay trên thực tế có ý nghĩa đặc biệt trong việc
đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Hiệu quả của việc cưỡng chế thi hành án dân sự là
cơ sở, tiền đề cho sự thành công và hiệu quả của một vụ thi hành án về tài sản khi
đương sự không tự nguyện thi hành. Trong điều kiện kinh tế – xã hội của nước ta
hiện nay, không phải bản án, quyết định có hiệu lực nào của cơ quan có thẩm quyền
cũng có thể được tổ chức thi hành một cách thuận lợi. Do đó, các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự được sử dụng.
19
Kết luận chương 1
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung
và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự
có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối
cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo
đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định
chính trị – xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Các quy định về biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự đã có nhiều
điểm mới hơn, chi tiết và cụ thể hơn so với các quy định trước đây. Việc nhận thức
đúng về biện pháp cưỡng chế trong thi hành án là điều kiện rất cần thiết để các cơ
quan nhà nước và nhân dân nắm rõ được quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt
động THADS, để từ đó nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, hình
thành thói quen “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, xây một nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
20
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
2.1.1. Thực trạng các quy định chung của Luật thi hành án dân sự về
cưỡng chế thi hành án dân sự
Trên cơ sở quy định tại Điều 46 Luật Thi hành án dân sự 2008 và Điều 13
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ thì hết thời gian tự
nguyện thi hành án, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự
nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong
thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy
định của pháp luật, không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng
trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với
các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án; các trường hợp đặc biệt
khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phong
tục, tập quán tại địa phương.
Có ba căn cứ để cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 70 Luật Thi
hành án dân sự năm 2008 là: Bản án , quyết định; Quyết định thi hành án; Quyết
định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên,
phong tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời của Tòa án [20, tr.58]. Để thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
cần phải tuân thủ những nguyên tắc chung theo quy định của pháp luật về thi hành
án dân sự như:
*Xác minh điều kiện thi hành án trước khi tiến hành cưỡng chế.
Xác minh điều kiện thi hành án dân sự là điều kiện bắt buộc và quyết định cho
việc thực hiện cưỡng chế thành công hay không thành công. Công tác xác minh
điều kiện thi hành án dân sự phải được thực hiện một cách khoa học, toàn diện, đầy
đủ và tỉ mỷ, chi tiết tới từng nội dung và phù hợp theo đúng yêu cầu đặt ra của từng
21
việc cưỡng chế thi hành án cụ thể. Xác định được vai trò và tầm quan trọng của
công tác xác minh điều kiện thi hành án, tại Điều 44 Luật Thi hành án dân sự năm
2008 (đã được sửa đổi bổ sung tại khoản 17 Điều 1 của Luật số 64/2014/QH13 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự), Điều 9 Nghị định
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, Điều 4 Thông tư liên tịch số
04/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 và mục 1 Chương II
của Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày
14/01/2014 quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến công tác xác minh thi hành án
dân sự; Trách nhiệm của cá nhân tổ chức có liên quan đến công tác xác minh thi
hành án dân sự. Theo đó, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện
thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên
tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời thì phải tiến hành xác minh ngay. Người phải thi hành án phải kê khai trung thực,
cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi
hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình [15, tr.38].
*Lựa chọn biện pháp cưỡng chế.
Nội dung này được quy định tại Điều 13 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ. Theo đó, căn cứ nội dung bản án, quyết định; Trên cơ sở
tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; đề
nghị của đương sự và tình hình thực tế của địa phương, chấp hành viên sẽ lựa chọn
việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án cho phù hợp. Việc áp dụng biện pháp
bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi
hành án và các chi phí cần thiết. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài
sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không
thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì chấp
hành viên vẫn có quyền áp dụng biện phápcưỡng chế để thi hành án [13, tr.10].
*Xác định loại tài sản không được kê biên, cưỡng chế.
Theo quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án dân sự thì các loại tài sản sau
không được kê biên, cưỡng chế: Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp