9652_Bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam với việc Việt Nam gia nhập công ước Berne

luận văn tốt nghiệp

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ NGỌC PHƯƠNG

BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TẠI VIỆT NAM
VỚI VIỆC VIỆT NAM GIA NHẬP CÔNG ƯỚC
BERNE

luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc

Hµ néi

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

MỞ ĐẦU
1

Chương 1: LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ. NHỮNG NỘI DUNG
CHÍNH CỦA CÔNG UỚC BERNE. KINH NGHIỆM
LẬP PHÁP VÀ BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ Ở TRUNG
QUỐC KHI GIA NHẬP CÔNG ƯỚC BERNE
6
1.1.
Khái quát chung về quyền tác giả
6
1.1.1.
Khái niệm quyền tác giả
6
1.1.2.
Đặc trưng của quyền tác giả
8
1.2.
Phân biệt quyền tác giả với quyền sở hữu công nghiệp
12
1.3.
Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về
bảo hộ quyền tác giả và sự ra đời của Công ước Berne
15
1.3.1.
Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về
bảo hộ quyền tác giả
15
1.3.2.
Sự ra đời của Công ước Berne
17
1.3.3.
Nội dung cơ bản của Công ước Berne
20
1.3.3.1. Nguyên tắc đối xử bình đẳng: tác phẩm có nguồn gốc từ
các nước thành viên đều được bảo hộ như nhau
20
1.3.3.2. Nguyên tắc bảo hộ đương nhiên: khi tác phẩm được định
hình dưới một hình thức vật chất nhất định thì quyền tác
giả cũng lập tức phát sinh mà không phụ thuộc vào bất kỳ
thủ tục nào
22
1.3.3.3. Nguyên tắc bảo hộ độc lập: việc thực thi và hưởng các quyền
theo Công ước là độc lập với những quyền đang được
hưởng tại nước xuất xứ tác phẩm
24
1.3.4.
Đối tượng được bảo hộ
24
1.3.5.
Các quyền được bảo hộ
26
1.3.6.
Thời hạn bảo hộ
28

1.3.7.
Những ngoại lệ của Công ước
29
1.3.8.
Những điều lệ giới hạn sự bảo hộ
30
1.3.9.
Thực thi Công ước và chế tài
31
1.4.
Sự hình thành của hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo vệ
quyền tác giả
32
1.5.
Kinh nghiệm lập pháp và bảo vệ quyền tác giả ở Trung
Quốc khi gia nhập Công ước Berne
34
1.5.1.
Khái quát chung về hệ thống pháp luật Trung Quốc trong
lĩnh vực quyền tác giả
34
1.5.2.
Bảo vệ quyền tác giả ở Trung Quốc
37
1.5.2.1. Các biện pháp hành chính
41
1.5.2.2. Các biện pháp dân sự
42
1.5.2.3. Các biện pháp hình sự
42
1.5.2.4. Những biện pháp đặc biệt về hải quan và biên giới
44
1.5.3.
Thực tiễn bảo vệ quyền tác giả ở Trung Quốc khi gia nhập
Công ước Berne
48

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ
QUYỀN TÁC GIẢ KHI THAM GIA CÔNG ƯỚC BERNE
51
2.1.
Điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
nghệ thuật
51
2.2.
Chủ thể của quyền tác giả
52
2.2.1.
Tác giả
52
2.2.2.
Chủ sở hữu quyền tác giả
54
2.3.
Nội dung quyền tác giả
56
2.3.1.
Quyền nhân thân
56
2.3.1.1. Quyền đặt tên cho tác phẩm
58
2.3.1.2. Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu
tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, phổ
biến, sử dụng
58
2.3.1.3. Quyền công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố,
phổ biến tác phẩm của mình
59
2.3.1.4. Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, cho phép hoặc
không cho phép người khác sửa đổi nội dung tác phẩm
60

2.3.2.
Quyền tài sản
60
2.4.
Giới hạn quyền tác giả
63
2.4.1.
Thời hạn bảo hộ
64
2.4.2.
Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải
xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao
66
2.4.3.
Trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép nhưng
phải trả thù lao
69
2.5.
Bảo vệ quyền tác giả
70
2.5.1.
Những quy định chung
70
2.5.2.
Xác định hành vi xâm phạm
72
2.5.3.
Xử lý vi phạm
74
2.5.3.1. Biện pháp dân sự
74
2.5.3.2. Biện pháp hành chính
76
2.5.3.3. Biện pháp hình sự
78
2.5.3.4. Các biện pháp kiểm soát xuất nhập khẩu
78
2.6.
Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian
80
2.7.
Bảo hộ quyền tác giả đối với một số loại hình tác phẩm
văn học nghệ thuật đặc thù trước cuộc cách mạng kỹ thuật
số hiện nay
82

Chương 3: CƠ HỘI; THÁCH THỨC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỐI
VỚI HỆ THỐNG BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ Ở VIỆT
NAM KHI GIA NHẬP CÔNG ƯỚC BERNE
92
3.1
Thực trạng về bảo vệ quyền tác giả ở Việt Nam hiện nay
92
3.1.1.
Thị trường sách
92
3.1.2.
Thị trường âm nhạc
94
3.2
Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne
98
3.3
Những giải pháp đối với Việt Nam khi gia nhập Công ước
Berne trong tiến trình hội nhập
108

KẾT LUẬN
111

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
112

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tháng Mười năm 2004 là thời điểm Việt Nam gia nhập công ước Berne
về Bảo hộ quyền tác giả. Đây cũng là một trong những động thái của Việt
Nam chuẩn bị cho quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Khi
trở thành thành viên thứ 156 của Công ước, Nhà nước Việt Nam phải bảo hộ
quyền tác giả cho các tác giả và chủ sở hữu tác phẩm trong nước cũng như các
quốc gia là thành viên Công ước, đồng thời, các quốc gia thành viên Công ước
cũng sẽ có nghĩa vụ bảo hộ quyền cho các tác giả và chủ sở hữu tác phẩm thuộc
Việt Nam. Trước hết cần phải khẳng định, việc tham gia Công ước Berne là một
bước tiến trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Trở thành thành viên của
Công ước, Việt Nam đã hòa nhập trong sân chơi mới, mà ở đó có những luật
chơi có tác dụng làm lành mạnh môi trường văn hóa của các quốc gia thành viên.
Trong quan hệ quốc tế, văn hóa luôn được coi là một trong những yếu
tố quan trọng để đánh giá đối tác, vì thế, đây sẽ là một cơ hội cho sự đầu tư và
phát triển của Việt Nam.
Có mặt trong sân chơi này, cũng có nghĩa là môi trường văn hóa Việt
Nam sẽ được thanh lọc, tình trạng vi phạm bản quyền, dùng tác phẩm của
người khác để khai thác lợi nhuận sẽ bị loại trừ. Khi công sức của mình được
công nhận, quyền lợi chính đáng được bảo hộ một cách nghiêm túc, các tác giả
sẽ có nhiều động lực để thúc đẩy sự sáng tạo. Người Việt Nam sẽ được thưởng
thức nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật hay hơn không chỉ vì nguồn lực sáng
tạo trong nước được thúc đẩy, mà còn vì chất lượng nguồn tác phẩm nước
ngoài vào Việt Nam sẽ được chọn lọc kỹ càng hơn. Bởi từ ngày 26-10-2004,
muốn dịch một tác phẩm của các nước thành viên Công ước sang tiếng Việt
để sử dụng ở Việt Nam, người sử dụng phải được sự đồng ý và trả phí sử

2
dụng cho người giữ bản quyền tác phẩm, vì thế, họ sẽ phải nghiên cứu kỹ
hơn, cân nhắc chi phí và hiệu quả kinh doanh trước khi quyết định.
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, sự phát triển như vũ bão
của khoa học và công nghệ, việc bảo vệ quyền tác giả nói riêng, quyền sở hữu
trí tuệ nói chung đang là một vấn để ngày càng trở nên nóng bỏng. Đứng
trước yêu cầu đó và thực tế phát triển kinh tế xã hội của nước ta, việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền tác giả, các quyền liên quan và quyền sở
hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng) đang được Nhà nước ta
quan tâm, đặc biệt sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ được ký
kết và Quốc hội phê chuẩn, ngày 7 tháng 11 năm nay, 2006, Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong
đó quyền sở hữu trí tuệ là một bộ phận quan trọng trong các nội dung được
đem ra đàm phán và Việt Nam ta cần phải cam kết thực hiện.
Bên cạnh đó, hiện nay tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói
chung và quyền tác giả nói riêng đang tiếp tục gia tăng, gây ra những hậu quả
xấu đối với phát triển xã hội, ngược lại nếu thực thi quá chặt chẽ các điều ước
quốc tế thì tất yếu sẽ dẫn tới việc các doanh nghiệp trong nước lâm vào tình
thế khó khăn, người tiêu dùng trong nước sẽ không được hưởng thụ các tác
phẩm văn học nghệ thuật với giá cả hợp túi tiền. Chính vì những yêu cầu bức
xúc đó mà tác giả chọn đề tài: “Bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam với việc
Việt Nam gia nhập Công ước Berne”.
Do những vấn đề tác giả quan tâm đến khá nhiều, nên không thể tránh
khỏi việc bản luận văn đôi chỗ loãng, không đi vào trọng tâm, không tránh
khỏi những khiếm khuyết. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các thầy
cô giáo và các đồng nghiệp để hoàn thiện vấn đề này trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả không phải đến bây giờ,
tức là khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne, rồi trở thành thành viên chính

3
thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mới là vấn đề nóng hổi. Bộ
Văn hóa thông tin, mà đầu mối là Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật
Việt Nam đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tổ chức nhiều cuộc hội thảo về vấn
đề bảo hộ quyền tác giả, về hội nhập, về thực thi Công ước Berne, về các Luật
mới như Luật xuất bản, Luật sở hữu trí tuệ… Các nhà xuất bản cũng rất quan
tâm đến các vấn đề như mua bản quyền như thế nào, ở đâu, bao nhiêu tiền,
thời hạn bao lâu, quyền và nghĩa vụ ra sao…
Ngày 27 và 28 tháng 1 năm 2005, nghĩa là chỉ vài tháng sau khi Việt
Nam gia nhập Công ước Berne, có một cuộc hội thảo được tổ chức ở thành
phố Hồ Chí Minh “Về vai trò quyền tác giả trong ngành công nghiệp xuất
bản”, do Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam tổ chức. Tham
gia hội thảo có tiến sĩ Vũ Mạnh Chu, Cục trưởng Cục bản quyền, bà Geidy
Lung, chuyên gia của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), đại diện các
nhà xuất bản và các tổ chức đại diện sở hữu trí tuệ. Có thể nói, đây là hội thảo
quy mô nhất về vấn đề này từ trước đến nay. Năm 2005 cũng là năm Quốc hội
xây dựng Luật sở hữu trí tuệ, nên việc nghiên cứu những vấn đề về quyền tác
giả và bảo hộ quyền tác giả cũng được đề cao. Trong quá trình thực hiện bản
luận văn này, tác giả đã đi tìm, sưu tầm tài liệu nhưng hầu như, rất ít.
Về những vấn đề mới như bảo vệ quyền tác giả trên internet, về bản
quyền phần mềm, về hệ điều hành và phần mềm mã nguồn mở, bảo vệ tác quyền
đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật được số hóa … hầu như chưa có công
trình nghiên cứu nào về các vấn đề này ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Bản luận văn này tác giả tập trung vào vấn đề bảo hộ quyền tác giả ở
Việt Nam theo những quy định của pháp luật trong nước trong mối tương
quan về nội dung pháp lý với Công ước Berne và một số văn bản liên quan.
Trong quá trình nghiên cứu, do được tiếp xúc với một số giáo sư Hoa Kỳ và
Trung Quốc đang giảng dạy ở trường Đại học Luật Quảng Đông, đại học
Thân Hoa (Trung Quốc) nên tác giả tập trung nghiên cứu về pháp luật Trung

4
Quốc đã quy định như thế nào về vấn đề này, thực tiễn thực thi ở Trung Quốc
ra sao và hiện nay những tồn tại trong xã hội Trung Quốc về vấn đề bản
quyền tác giả như thế nào. Trên thực tế, giữa Việt Nam và Trung Quốc có rất
nhiều điểm tương đồng về chính sách và hệ thống luật pháp. Việc nghiên cứu
trên cơ sở phân tích và so sánh thực sự là rất có ích, nhất là hiện nay Trung
Quốc đang thi hành một chính sách rất tốt trong mục tiêu cân bằng được giữa
hội nhập và quyền lợi trong nước về vấn đề bảo vệ quyền tác giả.
Mặt khác, do vừa hoàn thành chương trình cử nhân công nghệ thông
tin nên tác giả cũng quan tâm nhiều đến khía cạnh bản quyền tác giả đối với
phần mềm, của hệ điều hành… nhất là việc giải quyết về bản quyền ngay từ
khía cạnh kỹ thuật. Chính vì thế mà tác giả quan tâm đến vấn đề bảo vệ bản
quyền của các sản phẩm trí tuệ trong kỷ nguyên kỹ thuật số.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng thu thập các thông tin về
tình hình thị trường văn hóa phẩm trong nước, việc các cá nhân, tổ chức
đang có những phản ứng ra sao với việc dần dần phải quen với việc sử dụng
sản phẩm có bản quyền… Do đó tác giả đã dành một phần để quan tâm đến
tình hình thực tiễn Việt Nam hiện nay, cố gắng nhìn nhận vấn đề và đưa ra
các giải pháp…
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tác giả lựa chọn xuất phát từ nguyên tắc
chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và cố gắng “tập” kết hợp thêm
những phương pháp của lo-gic hình thức như so sánh, tổng hợp, phân tích,
loại trừ…
Về việc tìm tài liệu, ngoài các tài liệu được giáo viên hướng dẫn cung
cấp, tác giả dựa vào một nguồn quan trọng là internet, và một phương pháp
thu thập nữa là đi đến tận nơi, xem tận mắt (Trung Quốc). Đây là một phương
pháp mất nhiều thời gian và công sức, nhiều khi lại không có được những kết
quả ưng ý về mặt pháp lý nhưng là những số liệu thực tiễn rất quý giá.

5
5. Những điểm mới của luận văn
Như tác giả đã trình bày ở trên, điểm mới của bản luận văn này là việc
tác giả muốn nhìn nhận vấn đề bảo hộ quyền tác giả từ góc độ các tác phẩm
đó được số hóa và phổ biến trên mạng internet. Sau đó là việc phát triển công
nghệ của nước láng giềng Trung Quốc đã ảnh hưởng như thế nào đến công
nghiệp sản xuất băng đĩa, từ đó ảnh hưởng đến vấn đề bảo vệ quyền tác giả ra
sao… đây là một địa bàn có nhiều điểm tương đồng với thị trường văn hóa
Việt Nam, nên tác giả cũng tập trung nghiên cứu như là một điếm nhấn của
bản luận văn. Việc tác giả cố gắng sáng tạo để tìm một phương pháp tiếp cận
mới – từ khía cạnh kỹ thuật có thế sẽ không được đánh giá cao về chuyên môn
luật học, nhưng tác giả hy vọng Hội đồng sẽ bỏ qua những khiếm khuyết của
bản luận văn này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về quyền tác giả. Những nội dung chính của công
ước Berne. Kinh nghiệm lập pháp và bảo vệ quyền tác giả ở Trung Quốc khi
gia nhập công ước Berne
Chương 2: Thực trạng pháp luật việt nam về bảo hộ quyền tác giả khi
tham gia công ước Berne trước cuộc cách mạng kỹ thuật số hiện nay
Chương 3: Cơ hội; thách thức và những giải pháp đối với Việt Nam
khi gia nhập công ước Berne

6
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ.
NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA CÔNG ƢỚC BERNE.
KINH NGHIỆM LẬP PHÁP VÀ BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ
Ở TRUNG QUỐC KHI GIA NHẬP CÔNG ƢỚC BERNE

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả
Quyền tác giả bao gồm một tập hợp quyền dành cho người sáng tạo
đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ. Các tác giả, và người thừa
kế của họ, nắm giữ các độc quyền để sử dụng hoặc cấp li-xăng cho người
khác sử dụng tác phẩm theo các điều kiện thỏa thuận. Người sáng tạo ra một
tác phẩm có thể ngăn cấm hoặc cho phép, ví dụ:
– Sao chép lại tác phẩm dưới hình thức khác nhau, chẳng hạn như ấn
phẩm hoặc bản ghi âm;
– Biểu diễn tác phẩm cho công chúng, như trong trường hợp một vở
diễn hoặc tác phẩm âm nhạc
– Phát sóng tác phẩm, bao gồm phát thanh, truyền hình hoặc phát qua
vệ tinh;
– Dịch tác phẩm sang ngôn ngữ khác, hoặc phóng tác tác phẩm, chẳng
hạn như chuyển thể một tiểu thuyết thành phim.
Quyền tác giả áp dụng cho nhiều loại hình khác nhau của tác phẩm
nghệ thuật, bao gồm hội họa, âm nhạc, thơ, vở diễn, sách, kiến trúc và múa,
đồng thời áp dụng cho những tác phẩm thường không được coi là nghệ thuật
như phần mềm máy tính, bản đồ và bản vẽ kỹ thuật.
Các quyền liên quan đến quyền tác giả: là những quyền đã phát triển
trong khoảng chừng 50 năm gần đây, “xung quanh” quyền tác giả và bao gồm

7
quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn của người đó, quyền của
người chế tạo bản ghi âm đối với bản ghi âm đó và quyền của tổ chức phát
sóng đối với cuộc phát sóng.
Để phổ biến chúng (ví dụ dưới hình thức xuất bản phẩm, bản ghi âm và
phim), nhiều tác phẩm sáng tạo được bảo hộ theo quyền tác giả thường đòi hỏi
sự phân phối, truyền đạt đại chúng cũng như đầu tư về tài chính. Vì lẽ đó, người
sáng tạo thường chuyển nhượng các quyền của mình đối với tác phẩm cho
những cá nhân hoặc công ty có khả năng tập hợp, đưa ra thị trường và phân phối
tác phẩm, đổi lại họ được trả tiền (trả một lần hoặc nhuận bút). Các quyền kinh
tế này có giới hạn về thời gian mà theo điều ước WIPO có liên quan thì là
cuộc đời của tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Ở một số nước, thời hạn
trên đã được kéo dài tới 70 năm. Quyền tác giả cũng có thể bao gồm quyền
tinh thần, liên quan đến quyền nhận danh nghĩa tác giả đối với một tác phẩm
và quyền phản đối sự thay đổi tác phẩm có thể gây hại cho uy tín của tác giả.
Quyền tác giả cùng với quyền sở hữu công nghiệp tạo thành hai bộ phận
chính của chế định quyền sở hữu trí tuệ là một chế định pháp luật quan trọng
quy định về các vấn đề thiết lập và bảo hộ quyền của những người sáng tạo ra
các sản phẩm trí tuệ, các sản phẩm vô hình, phi vật thể của con người. Sản
phẩm trí tuệ của con người có thể được chia thành hai loại: Sản phẩm phục vụ
nhu cầu tinh thần, giải trí (tác phẩm văn học, nghệ thuật, hội họa, sân khấu,
điện ảnh…) và sản phẩm có tác dụng về mặt công nghiệp, thương mại (phát
minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp…). Loại sản phẩm
đầu tiên được bảo hộ theo pháp luật về quyền tác giả, còn loại sản phẩm thứ
hai được bảo hộ theo pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp. Hai chế định
pháp luật này là hai bộ phận chính cấu thành chế định Quyền sở hữu trí tuệ.
Giữa hai quyền tác giả và sở hữu trí tuệ không có và không thể có
ranh giới tuyệt đối, bởi có những sản phẩm trí tuệ vừa có tác dụng về mặt
công nghiệp, thương mại nhưng vẫn có tác dụng phục vụ nhu cầu giải trí, tinh
thần của con người.

8
Đồng thời, có những sản phẩm trí tuệ không hoàn toàn mang tính giải
trí hay phục vụ nhu cầu tinh thần của con người cũng được bảo hộ theo luật
về quyền tác giả như các phần mềm máy tính. Cũng cần phải giải quyết mối
quan hệ giữa quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp đối với một số loại
sản phẩm trí tuệ nhất định.
Như vậy, khái niệm “Quyền tác giả” được hiểu dưới hai góc độ:
– Theo nghĩa rộng: Quyền tác giả là một chế định pháp luật là tổng thể
các quy phạm pháp luật xác định và bảo hộ các quyền nhân thân, quyền tài sản
của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; quy định việc
bảo vệ, khôi phục các quyền đó khi có hành vi xâm phạm. Như vậy, theo nghĩa
rộng quyền tác giả không chỉ quy định các quyền năng tác giả, người sáng tạo
tác phẩm mà còn mở rộng ra các vấn đề khác như đối tượng quyền tác giả,
giới hạn quyền tác giả, thừa kế quyền tác giả, hợp đồng sử dụng tác phẩm…
– Theo nghĩa hẹp: Quyền tác giả bao gồm tổng thể các quyền của tác
giả đối với tác phẩm mà mình đã sáng tạo ra.
Bản thân quyền tác giả cũng chứa đựng hai quyền: Quyền nhân thân
và quyền tài sản. Theo quy định tại Điều 738, Bộ luật dân sự Việt Nam 2005
(Phần thứ sáu: Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ – Chương XXXIV:
Quyền tác giả và quyền liên quan – Mục 1: Quyền tác giả), tác giả có các
quyền nhân thân như: Đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên
tác phẩm; công bố, phổ biến tác phẩm; cho hoặc không cho người khác sử
dụng tác phẩm của mình; bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm. Các quyền tài sản
của tác giả bao gồm: Được hưởng nhuận bút; được hưởng thù lao khi tác
phẩm được sử dụng; được hưởng các lợi ích vật chất từ việc cho người khác
sử dụng tác phẩm dưới các hình thức như xuất bản, tái bản, trưng bày, triển
lãm, dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, cho thuê…
1.1.2. Đặc trƣng của quyền tác giả
Quyền tác giả là một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ, do vậy, quyền
tác giả có đầy đủ các đặc trưng của quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ

9
là một lĩnh vực sở hữu đặc thù có đối tượng là các tài sản vô hình, tài sản phi
vật thể hình thành từ hoạt động sáng tạo của con người. Chính điều này cho
phép phân biệt giữa sở hữu trí tuệ (sở hữu tài sản vô hình) và sở hữu tài sản
thông thường (sở hữu tài sản hữu hình).
Sự khác biệt lớn nhất giữa hai loại sở hữu nói trên thể hiện ở chính đối
tượng sở hữu. Nếu như đối tượng của sở hữu tài sản thông thường là các tài
sản vật chất, hữu hình có thể tiếp cận về cơ học được, thì đối tượng của sở
hữu trí tuệ là các tài sản vô hình, phi vật thể, là kết quả của hoạt động sáng tạo
của con người, con người không thể tiếp cận cơ học vào chúng, ví dụ như một
phát minh, một giải pháp hữu ích hay một bài thơ, một tác phẩm hội họa, một
tác phẩm kiến trúc, mà chỉ có thể tiếp cận được với chúng khi và chỉ khi chúng
được thể hiện ra dưới một hình thức vật chất nào đó: được in, vẽ trên giấy.
Chính sự khác biệt cơ bản đó đã dẫn đến sự khác nhau về khả năng
chiếm hữu đối tượng. Nếu như tài sản vật thể không được đặc định hóa thì
việc chiếm hữu có thể bằng cách khoanh vùng, cách ly nó khỏi những người
khác thì với loại đối tượng của quyền tác giả lại khác. Nếu tác giả sáng tác ra
một tác phẩm và giữ tuyệt đối bí mật không cho người khác biết, thì không
nói làm gì. Nhưng một tác phẩm cần phải đến được với công chúng, thì nó
mới có sức sống. Khi mà nó đến được với công chúng thì đây là một điểm
khác biệt: ai cũng có thể được tiếp cận với nó. Một bài ca, bất kỳ ai yêu thích
nó cũng có thể ngân nga lên những giai điệu của nó. Khi mà có hai bài “Tình
ca”, thì tiêu chí quan trọng để phân biệt giữa “Tình ca” của Phạm Duy và
“Tình ca” của Hoàng Việt chính là tác giả, người đã sáng tác ra nó. Trong thời
đại bùng nổ công nghệ hiện nay, việc sao chép tác phẩm đã trở nên quá dễ
dàng. Một thể chế pháp luật để xác lập và bảo vệ quyền lợi của tác giả đối với
tác phẩm văn học nghệ thuật càng trở nên cần thiết và cấp bách hơn bao giờ
hết. Với quyền tác giả, không thể dùng phương pháp khoanh vùng, cách ly như
đối với tài sản vật thể. Chúng ta có thể thấy rằng vấn đề quan trọng nhất đặt ra
trong quyền sở hữu trí tuệ không còn là vấn đề chiếm hữu nữa, mà chính là
vấn đề xác định ai là người có quyền khai thác, sử dụng đối tượng sở hữu.

10
Việc khai thác những đặc tính của đối tượng sở hữu do đó cũng khác
nhau. Với tài sản là vật thể, người ta có thể đánh giá được giá trị kinh tế của
nó qua một số tiêu chí như khả năng sinh lợi của nó trong tương lai do giá cả
thị trường lên xuống, do công năng của nó có thể vận hành đẻ ra lợi nhuận…
tương đối chính xác thì với quyền tác giả thì khía cạnh vật chất của nó không
dễ dàng gì đánh giá được. Nó có thể đem lại rất nhiều tiền, nhưng đồng thời
có thể không mang lại được đồng nào. Về khía cạnh này thì giữa hai loại đối
tượng vật thể và phi vật thể có sự tương đồng: hàng hóa nào cũng có nhóm
đối tượng nhắm đến và khu vực địa lý của mình, do có sự tương đồng trong
mục đích thương mại của việc sử dụng. Với quyền tác giả, ranh giới giữa
người tiêu dùng và “tên kẻ cắp” tương đối mong manh và còn phải có nhiều
tranh cãi. Việc khai thác khía cạnh thương mại của quyền tác giả nếu được sự
cho phép của tác giả thì là hợp pháp, nhưng không được cho phép là “ăn cắp”.
Quyền tác giả, với tư cách là một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ
mang đầy đủ hai đặc trưng: Có đối tượng sở hữu là các tài sản vô hình và
quyền sử dụng, khai thác đối tượng sở hữu có đặc tính thương mại. Đối tượng
bảo hộ của quyền tác giả chính là tác phẩm. Các tác phẩm này tồn tại dưới
nhiều hình thức, thể loại khác nhau: Tác phẩm viết, tác phẩm hội họa, tác
phẩm sân khấu, tác phẩm âm nhạc…
Pháp luật không bảo hộ quyền tác giả tác phẩm khi nó mới chỉ là ý
tưởng sáng tạo. Để được bảo hộ, ý tưởng sáng tạo đó phải được thể hiện ra
ngoài bằng một hình thức cụ thể, bằng âm thanh, lời nói, chữ viết, hình khối,
đường nét, màu sắc, ký hiệu… hoặc bất kỳ một phương tiện nào khác.
Ngoài ra, với tư cách là quyền dân sự, quyền tác giả có đặc trưng là
một quyền nhân thân gắn liền với tài sản. Là quyền nhân thân, quyền tác giả
mang đầy đủ các đặc tính pháp lý của các quyền nhân thân khác: Quyền dân
sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác. Bên cạnh
đó, với đặc tính gắn liền với tài sản, chủ thể quyền tác giả được hưởng các lợi
ích vật chất phát sinh từ đối tượng sở hữu của mình. Ở đây, quyền nhân thân

11
chính là tiền đề, là cơ sở để chủ thể hưởng quyền tài sản. Nói cách khác,
quyền tài sản chính là hệ quả pháp lý của quyền nhân thân. Thật vậy, nếu tác
giả không sáng tạo ra tác phẩm của mình, không có các quyền nhân thân đối
với tác phẩm như quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền cho phép hay không cho
phép người khác sử dụng tác phẩm của mình… thì tác giả không thể có quyền
hưởng nhuận bút, hưởng các lợi ích vật chất từ việc khai thác, sử dụng tác
phẩm. Các quyền tài sản của tác giả có thể được chuyển giao cho người khác
theo hợp đồng hoặc dưới hình thức thừa kế. Còn các quyền nhân thân thì gắn
bó vĩnh viễn với tác giả, không thể chuyển giao cho người khác.
Quyền tác giả là lĩnh vực pháp luật quy định sự bảo hộ đối với “tác
phẩm nguyên gốc do tác giả sáng tạo”, bao gồm hội họa, điêu khắc, âm nhạc,
tiểu thuyết, thơ, kịch, kiến trúc, múa, tài liệu hướng dẫn, tư liệu kỹ thuật, phần
mềm máy tính và những tác phẩm khác. Sự bảo hộ pháp lý bắt nguồn từ việc
một tác giả độc lập sáng tạo ra tác phẩm và “sự thể hiện” của tác giả về một ý
tưởng là sự thể hiện nguyên gốc, thay vì nó được sao chép từ một người khác.
Quyền tác giả có một tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn tính mới trong bằng độc
quyền sáng chế, tức là lĩnh vực tập trung vào tính mới của ý tưởng hoặc khái
niệm hữu ích, không tập trung vào sự thể hiện ý tưởng. Khác với sáng chế, tác
phẩm do tác giả sáng tạo không cần mang tính hữu ích. Quyền tác giả chỉ
dành cho sự thể hiện về ý tưởng hoặc khái niệm, không dành cho bản thân ý
tưởng hoặc khái niệm. Sự khác biệt giữa quyền tác giả và bằng độc quyền
sáng chế là “sự đối lập thể giữa sự hiện – ý tưởng”. Ví dụ nổi tiếng là tuy vở
kịch Romeo và Juliet của Shakespeare đã là một sự thể hiện sáng tạo, một tác
phẩm được bảo hộ theo quyền tác giả (nếu như đã tồn tại một học thuyết như
vậy lúc đó), nhưng tất cả các câu chuyện trai gái yêu nhau bất chấp sự cản trở
về gia đình và đẳng cấp đều không xâm phạm vở kịch đó.
Không có một định nghĩa chung thế nào là tác phẩm thuộc phạm vi
bảo hộ của quyền tác giả. Thay thế người ta dùng một khái niệm bao quát là
các “tác phẩm văn học và nghệ thuật” – một tiêu chuẩn linh hoạt. Trên thực tế,

12
bảo hộ quyền tác giả đã được mở rộng tới cả những tác phẩm mà có thể người
bình thường không coi là tác phẩm văn học cũng không coi là tác phẩm nghệ
thuật, chẳng hạn như phần mềm máy tính hoặc tài liệu kỹ thuật.
Trên thực tế, cũng khó có được ranh giới rõ rệt giữa bảo hộ quyền tác
giả và bảo hộ các quyền khác thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Bảo hộ quyền tác
giả có thể phát sinh đối với cùng một sản phẩm hoặc công nghệ, đồng thời với
những hình thức khác của sở hữu trí tuệ; ví dụ, một sáng chế liên quan đến
phần mềm máy tính có thể được bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế, đồng
thời mã phần mềm có thể được bảo hộ theo quyền tác giả. Tương tự như vậy,
quyền tác giả có thể bảo hộ một tác phẩm nghệ thuật trong khi tác phẩm nghệ
thuật đó cũng được bảo hộ dưới danh nghĩa một kiểu dáng công nghiệp, cũng
như quyền tác giả có thể bảo hộ một văn bản trong khi văn bản đó còn là một
bí mật thương mại.
1.2. PHÂN BIỆT QUYỀN TÁC GIẢ VỚI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Các đặc trưng của “quyền sở hữu công nghiệp” khi đem đối chiếu với
quyền sở hữu tài sản thông thường, với quyền tác giả thì sự khác biệt gần như
chỉ có tính chất tương đối. Chẳng hạn như: không phải tất cả các đối tượng sở
hữu công nghiệp đều được bảo hộ thông qua cơ chế cấp văn bằng bảo hộ. Một
số đối tượng theo luật Việt Nam hiện hành như: tên thương mại, chỉ dẫn địa
lý, bí mật thương mại; đối với các đối tượng này chỉ cần đáp ứng được các
tiêu chuẩn chặt chẽ về nội dung mà luật quy định thì mặc nhiên được bảo hộ.
Có thể nhận thấy cơ chế này gần như cơ chế bảo hộ tự động, chủ sở hữu
không phải tiến hành xác lập quyền theo thủ tục hành chính.
Dẫu sao việc chỉ ra đặc trưng của “quyền sở hữu công nghiệp” không
chỉ có ý nghĩa lý luận. Giá trị thực tiễn ít nhất của việc nêu lên các đặc trưng
riêng của “quyền sở hữu công nghiệp” mà mọi người có thể nhận thấy: đối
với một đối tượng là sản phẩm trí tuệ của con người nó sẽ được hưởng cơ chế
bảo hộ nào: cơ chế bảo hộ quyền tác giả hay cơ chế bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp dựa trên chính các đặc điểm của nó.

13
Sự khác biệt giữa hai lĩnh vực này thể hiện ở một số khía cạnh:
– Bảo hộ tác phẩm hướng tới sự bảo hộ hình thức sáng tạo chứa đựng
nội dung tác phẩm thông qua các phương thức biểu hiện ngôn ngữ, màu sắc,
hình ảnh.. Do đó nội dung bảo hộ là việc cấm người khác nhân bản tác phẩm,
không được thay đổi nội dung tác phẩm nếu không được phép của tác giả.
Còn bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp hướng tới bảo hộ nội dung đối
tượng, bảo hộ ý tưởng bằng quy định cấm người khác sử dụng sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa… để sản xuất, kinh doanh thương mại.
– Bảo hộ quyền tác giả phát sinh tự động, không đòi hỏi tác giả phải
thực hiện một thủ tục nào. Đăng ký bản quyền tại cơ quan nhà nước không
phải để xác lập quyền, mà chỉ là chế độ củng cố quyền lợi của tác giả mà thôi.
Nếu mà có tranh chấp thì không phải chứng minh bằng chứng về quyền sở
hữu đối với tác phẩm nữa. Quyền tác giả tự động phát sinh khi tác phẩm được
thể hiện dưới một hình thức nhất định chính là chế độ “bảo hộ tự động”. Do
nguyên tắc bảo hộ tự động, nên trên lý thuyết có thể có hai tác phẩm tương tự
nhau, được sáng tạo một cách độc lập đều cùng được bảo hộ. Đối lập với chế
độ bảo hộ tự động, việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp phải tuân theo thủ
tục hành chính, phải nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Quyền sở hữu công nghiệp phát sinh trên cơ sở văn bằng bảo hộ, nếu
không có yêu cầu bảo hộ thì quyền lợi không tự động phát sinh. Các đối
tượng được bảo hộ thường phải đáp ứng được các tiêu chuẩn cao, phải có sự
khác biệt so với các đối tượng cùng loại tức là không được trùng với các đối
tượng cùng loại.
– Một sự khác biệt nữa cũng cần được nhắc đến: do quyền tác giả
được bảo hộ tự động nên quyền tác giả được bảo hộ mà tác giả không phải chi
trả các khoản tiền cho việc bảo hộ, còn trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp tồn
tại quan hệ giữa chủ sở hữu và cơ quan nhà nước thông qua việc yêu cầu và
cấp văn bằng bảo hộ nên dẫn đến khoản lệ phí bảo hộ mà chủ sở hữu phải
thực hiện.

14
Sự khác biệt đó xuất phát từ một số lý do sau:
– Việc sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật… nói chung để
đáp ứng nhu cầu về tinh thần, văn hóa, tình cảm của con người. Còn việc sáng
tạo ra các đối tượng sở hữu công nghiệp là nhằm để giải quyết các vấn đề đặt
ra đối với khoa học – kỹ thuật, thương mại phục vụ cho sản xuất sản phẩm
bằng máy móc (sản xuất hàng loạt), cho hoạt động kinh doanh. Do vậy các
đối tượng sở hữu công nghiệp được con người sáng tạo ra nó phản ánh trình
độ công nghệ của xã hội, phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế thị trường.
– Các tác phẩm văn học nghệ thuật… trong lĩnh vực quyền tác giả luôn
thể hiện dấu ấn cá nhân của tác giả trên tác phẩm đó. Tất nhiên không phải trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp người ta không quan tâm đến quyền của tác giả của
sáng chế, giải pháp hữu ích… Nhưng do tính ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh
thương mại đòi hỏi quá trình áp dụng này phải đầu tư nhiều công sức, chi phí vật
chất rất lớn từ phía nhà sản xuất, từ phía chủ sở hữu. Không phải ngẫu nhiên mà
đặc điểm cơ bản của nền kinh tế tri thức lại là sự đấu tư lớn cho những ngànhh,
lĩnh vực kỹ thuật cao để thu lợi lớn nhưng mặt trái của nó là tính rủi ro cao.
Nhiều khi để áp dụng các sản phẩm sáng tạo của con người vào sản xuất, kinh
doanh phải trải qua rất nhiều công đoạn, nhà sản xuất không biết chắc chắn liệu
việc áp dụng này có đem lại thành công cho họ hay không. Lấy ví dụ: một hãng
dược phẩm, khi nghiên cứu để tạo ra một loại thuốc mới thông thường họ sẽ viết
các công thức hóa học ra, thực hiện nó trong phòng thí nghiệm. Và rồi sau đó họ
tìm ra công thức chế tạo loại thuốc mới, nhưng để có thể tung ra thị trường, họ
bắt buộc phải thử nghiệm trên động vật, trên người bệnh, trên cơ thể người khỏe
mạnh để có thể kiểm chứng được tác động của thuốc. Quá trình kiểm chứng này
thường rất lâu và tốn kém, có thể sau đó họ nhận thấy loại thuốc mới này không
có chức năng như họ mong muốn. Cho nên họ sẽ không tung ra thị trường, và tất
nhiên họ không thu hồi được chi phí họ đã bỏ ra.
– Trong việc xâm phạm quyền tác giả, gây thiệt hại về tinh thần quan
trọng hơn rất nhiều so với việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, bởi vì

15
xâm phạm quyền tác giả còn là sự xâm phạm đến uy tín sáng tạo nghệ thuật
của tác giả. Như vậy xâm phạm quyền tác giả thì người thực hiện hành vi xâm
phạm phải bồi thường cả về vật chất và tinh thần. Thiệt hại về tinh thần: thì
không thể đưa ra được các phương pháp toán học để đánh giá mức độ thiệt hại
về uy tín sáng tạo nghệ thuật. Ngược lại, trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
có thể tính toán được mức độ thiệt hại: bằng cách xem xét lợi nhuận mà người
thực hiện hành vi xâm phạm thu được do sử dụng trái phép các đối tượng sở
hữu công nghiệp của chủ sở hữu được nhà nước bảo hộ.
1.3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA CÔNG ƢỚC BERNE
1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về
bảo hộ quyền tác giả
Nhìn từ góc độ lịch sử, phải nhắc đến phát minh thiên tài của Guy-ten-
berg (Johannes Gutenberg): máy in dùng con chữ vào khoảng năm 1440.
Thực ra, phát minh ra “công nghệ” in ấn có lẽ phải thuộc về người Trung Hoa
với những bản in khắc cả trang, mà những bản in mộc dạng này ngày nay ta
vẫn có thể được thấy trong chùa Dâu – cả một bản khắc đồ sộ bộ Kinh Đại
thừa. Những bản khắc này còn được trưng bày ở chùa Thiếu Lâm – tỉnh Hà
Nam (Trung Quốc). Nhưng chỉ có Guy-ten-béc mới là người làm ra cuộc cách
mạng về in ấn. Máy in con chữ của ông đã làm cho việc “nhân bản” tác phẩm
văn học trở nên đạt được số lượng bản in “khủng khiếp”. Chính sự ra đời của
máy in đã kích thích nhu cầu đối với luật quyền tác giả.
Trong thiên niên kỷ đầu tiên, “nhân bản” sách là công việc nhàm chán
và chậm chạp. Những người chép sách đã viết và sao chép sách bằng tay,
trong đó một số có kỹ năng nghệ thuật hơn những người khác. Tác phẩm viết
chỉ dành cho tầng lớp quan trọng trong xã hội. Tôn giáo có tổ chức là lực
lượng chính thúc đẩy việc bảo tồn tri thức thông qua sách cũng như làm tăng
nhanh số lượng bản sao sách. Máy in của Guy-ten-béc là một trong các sự kiện
lịch sử đã góp phần cho ra đời Luật quyền tác giả đầu tiên trên thế giới. Nhưng

16
việc ra đời của máy in mới chỉ là điều kiện cần, mà còn phải có điều kiện đủ là
sự ra đời của các nhà xuất bản. Các nhà xuất bản thời đó không chỉ là cầu nối
giữa nhu cầu của độc giả với khả năng của các nhà văn mà còn là các vị Mạnh
Thường Quân cho văn học phát triển. Chính cơ chế đặt mua đứt tác phẩm của
các nhà xuất bản, thậm chí các tác giả ăn khách còn được trả tiền trước để
sáng tác, đã trở nên một sức kích thích cho sự phát triển của văn học.
Năm 1474, ở Vơ-ni-dơ đã ra đời “Luật” có tính hệ thống đầu tiên đối
với bảo hộ sáng chế dưới một hình thức của bằng độc quyền sáng chế, bởi vì
đây là lần đầu tiên luật này đã quy định một loại độc quyền của một cá nhân
mà độc quyền này hạn chế lợi ích của công chúng. Giống như trong bảo hộ
sáng chế, cũng chính ở Vơ-ni-dơ nhà cầm quyền đã cấp cho John of Speyer,
nhà in đầu tiên, độc quyền “in chữ” vào năm 1469.
Nửa sau của thế kỷ 18 là thời hoàng kim của thương mại và công
nghiệp đối với nhiều nước và cũng là thời của sáng tạo nghệ thuật, đổi mới
khoa học và cách mạng chính trị. Chính trong Thời Khai sáng này, một số
nước đã thiết lập hệ thống bằng độc quyền sáng chế đầu tiên của họ. Ví dụ,
luật về bằng độc quyền sáng chế đầu tiên của Pháp, quy định về bảo hộ quyền
của người sáng chế, đã được ban hành năm 1791, sau Cách mạng Pháp và
Tuyên ngôn về Quyền con người và quyền công dân. ở Hoa Kỳ, Năm 1788
Hiến pháp đã quy định rõ về bằng độc quyền sáng chế và sự bảo hộ đối với
sáng chế thông qua việc cấp độc quyền cho người sáng chế.
Sáng chế của Guy-ten-béc đã đặt Giáo hội châu Âu vào một tình thế
đáng lo lắng vào nửa sau thế kỷ 15. Giáo hội thiên chúa bắt đầu cấm đoán các
sách vở do các nhà cải cách, các nhà khoa học, các nhà tư tưởng – triết học
nhất là các nhà tư tưởng Khai sáng. Chính do lẽ đó mà đặc quyền về in ấn đã
xuất hiện tại Anh và Pháp. Trong thế kỷ thứ 16, đặc quyền dành cho nhà in
vẫn tiếp tục được duy trì nhằm bảo hộ lợi nhuận của nhà in và cho phép kiểm
soát việc in ấn. Năm 1710 Đạo luật Anne đã được Quốc hội Anh ban hành,
Đạo luật đã giảm bớt một chút sự kiểm soát đối với nhà xuất bản trong in ấn

17
và cũng đã thừa nhận quyền của tác giả, cho họ hoặc người thừa kế của họ
độc quyền in lại sách trong vòng 14 năm kể từ khi sách được in lần đầu. Được
gọi tên là một “đạo luật khuyến học”, Đạo luật Anne là một trong những
nguồn tham khảo về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong Hiến pháp Hoa Kỳ. Ngay
trong giai đoạn ban đầu này, sự phát triển của luật về bằng độc quyền sáng
chế và quyền tác giả cũng đã phản ánh sự thăng trầm của nền kinh tế. Cùng
với sự lùi bước của Vơ-ni-dơ sau 1600 đã có một sự chuyển hướng trong tiến
bộ kinh tế từ miền Nam tới Tây Bắc châu Âu. Trước 1800, mặc dù có thể
nhận thấy được những ví dụ về sự tập trung hóa trong công nghiệp ở nhiều
nước châu Âu nhưng sự tăng trưởng sản xuất phần lớn vẫn là vấn đề mở rộng
sản xuất thủ công có quy mô nhỏ thay vì các phương pháp và tổ chức mới có
tính cấp tiến. Tuy nhiên, trong khoảng 1750 và 1870 Châu Âu đã trải qua thay
sự đổi lớn bắt nguồn từ sự phát triển đô thị, xây dựng đường sắt, đầu tư vốn,
phát triển kinh tế xuyên đại dương, bên cạnh những hoạt động khác. Tới cuối
thế kỷ 19, các yếu tố nói trên đã dẫn đến công cuộc công nghiệp hóa có quy
mô lớn dựa trên các ý tưởng mới về công nghiệp hóa, sự xuất hiện của những
chính phủ tập trung hóa và chủ nghĩa dân tộc ở mức độ mạnh mẽ hơn. Sự phát
triển nói trên đã dẫn đến việc nhiều nước thiết lập hệ thống pháp luật hiện đại
đầu tiên của mình về bằng độc quyền sáng chế và quyền tác giả.
1.3.2. Sự ra đời của Công ƣớc Berne
Vào giữa thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 19, một nhà văn nổi tiếng đã
nhận thấy tình trạng các tác phẩm của các nhà văn lớn trong đó có ông, bị
xuất bản, sao chép bất hợp pháp ở các nước khác, và họ không nhận được
nhuận bút từ những hoạt động xuất bản phi pháp đó. Đó chính là nhà văn
Vích-to Huy-gô (1802 – 1885) – tác giả của những tác phẩm nổi tiếng “Nhà
thờ Đức bà Pa-ri” và “Những người khốn khổ” (“Notre-Dame de Paris”
(1831) và “Les Miserables” (1862)). Nhờ những nỗ lực của ông và một số
nhà văn nổi tiếng khác, một Hiệp hội đã ra đời: Hiệp hội Văn học quốc tế mà
sau này được biết đến là Hiệp hội Văn học và Nghệ thuật quốc tế, với mục

18
đích thiết lập một hình thức cơ bản nào đó cho việc bảo hộ quốc tế đối với các
tác phẩm của họ. Năm 1886, để quy định cơ sở cho việc công nhận lẫn nhau
về quyền tác giả giữa các quốc gia khác nhau, một điều ước quốc tế lớn khác
về Bảo hộ quyền tác giả đã được ban hành, đó là Công ước Berne về Bảo hộ
tác phẩm văn học và nghệ thuật.
Sự phát triển như vũ bão của kinh tế và khoa học kỹ thuật đã làm cho
việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát
triển kinh tế: vai trò và ảnh hưởng của các sản phẩm – tài sản trí tuệ ngày càng
trở nên quan trọng.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà các sản phẩm trí tuệ đã đóng vai trò
quan trọng đến như thế trong toàn bộ đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của
nhân loại thì việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói
riêng trên phạm vi quốc tế càng trở nên cần thiết.
Nhận thức được vấn đề này, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO)
cùng các quốc gia thành viên cũng quan tâm đến việc xây dựng hàng loạt các
điều ước quốc tế quan trọng trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ như: Công ước
Berne về Bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật; Công ước Paris về Việc
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; Thoả ước Madrid về Đăng ký quốc tế nhãn
hiệu hàng hoá; Công ước Rome 1961 về Bảo hộ người biểu diễn, người ghi
âm, tổ chức phát sóng; Công ước Washington năm 1989 về Sở hữu trí tuệ đối
với mạch tích hợp… Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ
thuật đã dẫn đến sự hình thành và phát triển nhiều đối tượng mới của quyền
sở hữu trí tuệ. Do vậy, trong quan hệ quốc tế hiện nay, mà đặc biệt là trong
quan hệ kinh tế quốc tế, vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ luôn là một nội
dung được nhiều nước quan tâm.
Công ước quốc tế về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật được ký
kết ngày 9-9-1886 tại Berne – Thủ đô Thụy Sĩ. Hiện nay có 156 nước gia nhập
Công ước, tập hợp các nước thành viên gọi là Liên hiệp Berne. Qua 118 năm
vận hành, Công ước đã có 8 lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1896, 1908,

19
1914, 1928, 1948, 1967, 1971, 1979. Công ước hiện hành là Công ước được
sửa đổi ngày 24-7-1971 tại Paris và bổ sung vào ngày 2-10-1979. Công ước
gồm 38 điều chính, 9 điều bổ sung và phụ lục gồm 6 điều.
Gần đây là hai hiệp ước WIPO Copyright Treaty (WCT) và WIPO
“Performances and Phonograms Treaty” (WPPT), ký tháng 12.1996, còn gọi
là “Internet Treaties” – “các Hiệp ước Internet” vì qui định các biện pháp bảo
vệ sở hữu tri thức trước các phương tiện sao chép tối tân qua kỹ thuật điện tử.
Ngoài ra, hiệp định TRIPs (Agretác giảent on Trade-Related Aspects
of Intellectual Property Rights) của tổ chức WTO sát nhập Công ước Berne
vào khung pháp lý của WTO và bổ sung các qui định về thực thi, đặt vấn đề
bảo vệ bản quyền và sở hữu tri thức nói chung dưới sự chi phối của bộ máy
giải quyết tranh chấp của WTO. Các vi phạm bản quyền do đó có thể bị xét
xử trong khuôn khổ đa phương và dẫn đến những biện pháp trả đũa hay trừng
phạt cụ thể qua quan hệ thương mại.
Trong một trăm năm đầu tiên kể từ khi Công ước Berne ra đời, sự phát
triển trong bảo hộ quyền tác giả đã lên phạm vi quốc tế. Trong một trăm năm
đầu tiên cũng diễn ra sự thiết lập và phát triển của quan hệ hợp tác giữa các
quốc gia trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả. Trong suốt thế kỷ vừa qua, việc
bảo hộ quyền tác giả nói riêng và quyền sở hữu trí tuệ nói chung đã đạt được
kết quả là trên thực tế là nhiều quốc gia thừa nhận vai trò của sở hữu trí tuệ
trong thúc đẩy, kích thích đổi mới và thành tựu về công nghệ, nghệ thuật.
Nguyên Tổng Giám đốc WIPO Arpad Bogsch đã từng nói:
Việc tìm kiếm những giải pháp công nghệ mới và hoạt động
sáng tạo văn hoá xứng đáng được khuyến khích không ngừng, bởi vì
như lịch sử các dân tộc đã cho thấy bên cạnh sự phát triển về tinh
thần, sáng chế và sáng tạo văn hoá còn là nguồn lực chính yếu cho
phát triển xã hội và kinh tế của nhân loại. Thực phẩm, chăm sóc y
tế, thông tin liên lạc và những nhu cầu thiết yếu khác đối với sự

20
sống còn của loài người nhờ các sáng chế và sáng tạo mà đã được
cải thiện, đang được cải thiện và sẽ được cải thiện [10].
Công ước quy định mỗi quốc gia tham gia sẽ công nhận bản quyền các
tác phẩm của các tác giả thuộc các nước thành viên tham gia ký kết. Các tác
phẩm được bảo vệ bản quyền theo Công ước này bao gồm các tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học được định hình dưới một dạng vật chất nhất định,
không phân biệt hình thức và cách thức thể hiện. Sau đây chúng ta sẽ nghiên
cứu một số nội dung chính của Công ước.
1.3.3. Nội dung cơ bản của Công ƣớc Berne
Công ước Berne có ba nguyên tắc cơ bản (nguyên tắc đối xử quốc gia,
nguyên tắc bảo hộ đương nhiên và nguyên tắc bảo hộ độc lập) cùng một loạt
các quy định về sự bảo hộ tối thiểu cũng như các quy định đặc biệt dành cho
các nước đang phát triển:
1.3.3.1 Nguyên tắc đối xử bình đẳng: tác phẩm có nguồn gốc từ các
nước thành viên đều được bảo hộ như nhau
Đối với những tác phẩm được Công ước này bảo hộ, các tác
giả được hưởng quyền tác giả ở các nước Liên hiệp không phải là
quốc gia gốc của tác phẩm, những quyền do luật của nước đó dành
cho công dân của mình trong hiện tại và trong tương lai cũng như
những quyền mà Công ước này đặc biệt quy định [5].
Về mặt nguyên tắc, quyền tác giả phát sinh trên phạm vi lãnh thổ nào
thì được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ đó, nước mà tác giả là công dân; hoặc
người không phải là công dân nhưng quốc gia đó là nơi họ cư trú thường
xuyên; hoặc là nước mà tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
Tuy vậy, hiện nay trong bối cảnh toàn cầu hoá cùng sự với sự ứng
dụng của khoa học kỹ thuật vào đời sống, nhất là sự phát triển của internet,
phạm vi bảo hộ của quyền tác giả cần được mở rộng hơn theo các điều ước
quốc tế. Do đó, việc các quốc gia tham gia Công ước Berne sẽ bảo đảm việc

21
bảo hộ quyền tác giả không chỉ bó hẹp trong lãnh thổ của một quốc gia nữa
mà đã được mở rộng ra khu vực và trên phạm vi khu vực hoặc toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, nguyên tắc đối xử bình đẳng nổi lên như một nguyên tắc
quan trọng nhất khi tham gia và thực thi Công ước.
Cốt lõi của Công ước là nguyên tắc đối xử công bằng hay đối xử quốc
gia, tức là sự bảo hộ công bằng giữa người trong nước và người nước ngoài,
tác phẩm trong nước và tác phẩm nước ngoài. Định nghĩa về nguyên tắc này
được thể hiện hoàn hảo nhất phiên bản sửa đổi ngày 24-7-1971 tại Paris,
thông qua quy định về đối xử quốc gia tại Điều 2:
Các chủ thể hoặc công dân của mỗi quốc gia thành viên
được hưởng các thuận lợi mà pháp luật tương ứng của họ hiện
đang hoặc sau này dành cho người trong nước đối với bằng độc
quyền sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và tên
thương mại. Do đó, họ nhận được cùng một sự bảo hộ như người
trong nước và cùng một chế tài pháp lý đối với mọi hành vi xâm
phạm quyền của họ, với điều kiện là họ tôn trọng các thủ tục hình
thức và điều kiện mà pháp luật trong nước của mỗi quốc gia quy
định bắt buộc đối với người trong nước [5].
Nguyên tắc đối xử bình đẳng có hai khía cạnh. Thứ nhất, đó là tất cả
các quốc gia tham gia sẽ công nhận và bảo vệ bản quyền các tác phẩm của các
tác giả thuộc các nước thành viên tham gia ký kết trên lãnh thổ của mình,
không phân biệt bất kỳ một quốc gia, vùng lãnh thổ hay khối liên kết nào
khác. Thứ hai, là các biện pháp bảo hộ quyền tác giả đối với mọi loại hình tác
phẩm, mọi tác giả… trên lãnh thổ các nước thành viên được các quốc gia áp
dụng như nhau không phân biệt đối xử.
Đây là một nguyên tắc hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc chung của
luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, không nên hiểu là sẽ có cái gọi là “bản quyền
quốc tế” – tự động bảo vệ tác phẩm của một tác giả trên toàn thế giới. Sự bảo
hộ nhằm chống việc sử dụng trái phép tại một quốc gia cụ thể chủ yếu phụ

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *