9719_Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội – Thực trạng tại thành phố Hà Nội

luận văn tốt nghiệp

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THẾ MỪNG

CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ TRONG QUY ĐỊNH LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
THỰC TRẠNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THẾ MỪNG

CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ TRONG QUY ĐỊNH LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
THỰC TRẠNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu

Hà Nội – 2015

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………. 1
CHƢƠNG 1KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HƢU TRÍ VÀ CHẾ ĐỘ HƢU
TRÍ
…………………………………………………………………………………………………….. 6
1.1. Khái niệm về hƣu trí và sự cần thiết phải có bảo hiểm hƣu trí
……….. 6
1.1.1. Quan niệm về hưu trí
……………………………………………………………………. 6
1.1.2. Sự cần thiết phải có bảo hiểm hưu trí
…………………………………………….. 8
1.2. Khái niệm chế độ hƣu trí
…………………………………………………………….. 10
1.2.1. Định nghĩa chế độ hưu trí …………………………………………………………… 10
1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của chế độ hưu trí ………………………………………….. 12
1.2.3. Vai trò của chế độ hưu trí …………………………………………………………… 17
1.3. Chế độ hƣu trítrong pháp luật một số nƣớc trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam ………………………………………………………………… 19
1.3.1 Chế độ hưu trítrong pháp luật một số nước
……………………………………. 19
1.3.2. Bài học kinh nghiệm dành cho Việt nam ………………………………………. 30
CHƢƠNG 2THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ TRONG LUẬT BẢO
HIỂM XÃ HỘI HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI …………………………………………………………….. 33
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về chế độ hƣu trí …………………… 33
2.1.1 Về đối tượng hưởng
…………………………………………………………………….. 33
2.1.2. Về điều kiện hưởng
…………………………………………………………………….. 34
2.1.3. Về mức hưởng …………………………………………………………………………… 38
2.1.4. Về quỹ hưu trí
……………………………………………………………………………. 43
2.1.5. Về hồ sơ hưởng chế độ hưu trí …………………………………………………….. 47
2.2. Thực trạng áp dụng chế độ hƣu trí trên địa bàn thành phố Hà Nội …… 51
2.2.1. Kết quả đạt được ……………………………………………………………………….. 51
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc
…………………………………………………………. 56
2.2.3. Nguyên nhân của sự hạn chế ………………………………………………………. 59

2.3. Một số điểm mới về chế độ hƣu trí trong Luật BHXH 2014 …………. 60
CHƢƠNG 3GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ TRONG LUẬT BẢO HIỂM XÃ
HÔI TỪ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ……….. 64
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hƣu trí ………. 64
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hƣu trí ……….. 65
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hƣu trí từ
thực tiển trên địa bàn thành phố Hà Nội ……………………………………………. 70
3.3.1. Về các quy định pháp luật
…………………………………………………………… 70
3.3.2. Về tổ chức thực hiện pháp luật ……………………………………………………. 75
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
…………………………………………….. 82

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài
Như chúng ta đã biếtbảo hiểm xã hội là sự bảo đảm bù đắp hoặc thay
thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập
từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay sức lao động
không được sử dụng, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính
do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội và các nguồn thu hợp
pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia
đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Bảo hiểm xã hội đã trở thành một nhu cầu tất yếu khách quan, một
trong những quyền cơ bản của con người, đúng như trong “Tuyên ngôn nhân
quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc” đã nêu: “Mọi quốc gia trên thế giới
không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, không phân biệt giàu hay nghèo đều
phải thực hiện các chế độ về bảo hiểm xã hội” [26]. Chế độ hưu trí là một
trong những chế độ quan trọng nhấtcủa hệ thốngan sinh xã hội, góp phần
quan trọng làm cho xã hội được ổn định.Qua một thời gian dài tổ chức thực
hiện, chế đô ̣ hưu trí cùng các ch ế độ bảo hiểm xã hội khác đã đảm bảo đời
sống cho người lao động, tạo điều kiện cho họ yên tâm lao động sản xuất
nâng cao chất lượng cuộc sống, giữ vững ổn định chính trị xã hội. Nhà nước
ta đang từng bước hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ
hưu trí nói riêngbằng việc ban hành các Văn bản, Nghị định, Thông tư và gần
đây nhất là Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm y tế cùng các văn bản hướng
dẫn thực hiện để phù h ợp với sự phát triển của đất nước và xu th ế hội nhập
kinh tế thế giới.
Ở Việt Nam, qua 40 năm thực hiện, chế độ hưu trí luôn có vị trí quan
trọng đặc biệt đối với người tham gia bảo hiểm xã hội. Chế độ hưu trí cùng
với các chế độ bảo hiểm xã hội khác đã góp phần rất to lớn vào việc ổn định
đời sống của công nhân viên chức, lực lượng vũ trang và gia đình họ làm cho
2

họ yên tâm lao động sản xuất, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của
đất nước trong thời kỳhội nhập. Nhờ có chế độ hưu trí mà người lao động sau
khi hết tuổi lao động hoặc sau một số năm công tác nhất định đã được nghỉ
hưu và được nhận tiền hưu để ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, do điều kiện lịch
sử chế độ hưu trí thời kỳ bao cấp chưa thể hiện đúng bản chất của nó mà thể
hiện tính ưu đãi bao cấp của Nhà nước cho một bộ phận dân cư là công nhân
viên chức, lực lượng vũ trang. Nhưng trong thời kỳ đó chế độ hưu trí cũng đã
góp phần rất lớn vào việc ổn định đời sống cho người lao động. Đến nay, khi
nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường -hàng hóa, nền kinh tế tăng trưởng,
phát triển rộng đa ngành nghề, tạo công ăn, việc làm cho nhiều người lao
động, dẫn đến nhu cầu về bảo hiểm xã hội đa dạng và ngày càng tăng, số
lượng người về hưu cũng ngày càng nhiều thì đời sống của họ luôn luôn là mối
quan tâm lớn của Đảng và nhà nước ta.
Từ đó đặt ra yêu cầu là thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người về hưu
như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất, đồng thời phù hợp với hoàn cảnh
đất nước trong thời kỳ đổi mới… Để đáp ứng được yêu cầu này thì việc xây
dựng và hoàn thiện chế độ hưu trí cho phù hợp với cơ chế quản lý mới là hết
sức cần thiết.
Thành phố Hà Nội là một đơn vị hành chính có dân sốđông thứ hai cả
nước, là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa xã hội của cả nước. Với dân số
đông, lực lượng lao động dồi dàonên vấn đề thực hiện các quy định của Luật
bảo hiểm xã hộitrong đó có chế độ hưu trí là rất phức tạp, nhiều vướng mắc
trong quá trình thực hiện phát sinh cần tìm được các phương án giải quyết.
Từ những sự phân tích trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Chế độ hưu
trí trong Luật bảo hiểm xã hội -Thực trạng tại thành phố Hà Nội” làm đề
tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế độ hưu trí là một trong những chế độ quan trọng nhất trong Luật
bảo hiểm xã hội của bất kỳ quốc gia nào. Nó xuất hiện từ giai đoạn đầu hình
3

thành các chính sách bảo hiểm xã hội của các quốc gia. Ở Việt Nam nghiên
cứu về chế độ hưu trí đã được quan tâm từ rất lâu. Vấn đề này được nghiên
cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến một số công trình sau:
– Tác giả Bùi Ngọc Thanh với bài viết: “Kiến nghị sửa đổi chế độ hưu
trí trong Luật bảo hiểm xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19/2013;
– Tác giả Nguyễn Thị Kim Phụng với bài viết: “Góp ý vào Dự thảo
Luật Bảo hiểm xã hội: Hoàn thiện chế độ bảo hiểm hưu trí”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số 8/2005.
– Tác giả Đặng Như Lợi với bài viết: “Cải cách Luật bảo hiểm xã hội để
mở rộng bảo hiểm hưu trí đối với người cao tuổi”, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 12/2014;
Ngoài ra có thể kể đến một số công trình nghiên cứu ở cấp độ khóa
luận tốt nghiệp nghiên cứu về vấn đề này như:
– Tác giả Nguyễn Thị Hiên với công trình: Những điểm mới về chế độ
bảo hiểm hưu trí của Luật bảo hiểm xã hội 2006, Trường Đại học Luật Hà
Nội, năm 2007.
– Tác giả Lê Ngọc Linh với công trình: Cải cách chế độ bảo hiểm hưu
trí trên thế giới và một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Trường Đại học
Luật Hà Nội, năm 2008.
– Tác giả Trần Công Dũng với tác phẩm: “Góp phần hoàn thiện chế độ
hưu trí trong pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”, Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2002.
Tất cả những công trình trên đây đều tập trung nghiên cứu về vấn đề
chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội các thời kỳ. Tuy nhiên, ở góc độ
nào đó chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và sâu
sắc về vấn đề chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2006, từ đó làm
cơ sở để hoàn thiện hơn chế độ bảo hiểm hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội.
Như vậy việc nghiên cứu đề tài “Chế độ hưu trí trong quy định của Luật bảo
4

hiểm xã hội – Thực trạng tại thành phố Hà Nội” là cần thiết cả về vấn đề lý
luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận về nội dung, vai trò của chế độ bảo
hiểm hưu trí. Ngoài ra, luận văn còn đánh giá thực trạng của các quy định
pháp luật về chế độ hưu trí, chỉ ra những điểm hạn chế và nguyên nhân của sự
bất cập để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện các quy định về chế độ hưu trí ở
nước ta hiện nay từ thực tế trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Từ mục đích trên đề tài đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Nghiên cứu đề ra định nghĩa, đặc điểm, vai trò của chế độ hưu trí trong
chính sách bảo hiểm xã hội ở một quốc gia.
Nghiên cứu so sánh một số chính sách về chế độ hưu trí trong luật bảo
hiểm xã hội một số quốc gia trên thế giới từ đó rút ra bài học cho Việt Nam;
Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ bảo hiểm
hưu trí.
Nghiên cứu thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí tại thành phố Hà Nội, từ
đó rút ra những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật về chế độ
hưu trí và thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí tại Hà Nội.
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Bảo hiểm xã hội về chế độ hưu trí.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vẫn đề lý luận về chế độ bảo hiểm hưu trí,
về thực trạng các quy định của pháp luật về bảo hiểm hưu trí và thực trạng
thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các quy định
về bảo hiểm hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 và các văn bản
hướng dẫn thi hành cũng như về thực trạng thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí
của thành phố Hà Nội, đồng thời so sánh, đánh giá các điểm hạn chế của Luật
bảo hiểm xã hội năm 2006 với Luật bảo hiểm xã hội năm 2014.
5

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về duy vật lịch sử và duy
vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật đặc biệt là về
chính sách an sinh xã hội trong đó có chế độ bảo hiểm hưu trí.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của
ngành luật học như: Các phương pháp tổng hợp, phân tích thống kê, điều tra
xã hội học và phương pháp so sánh…
6. Đóng góp của luận văn
Góp phần làm rõ và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn
về hoạt động bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ bảo hiểm hưu trí nói riêng.
Làm rõ thực trạng thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí trên địa bàn thành
phố Hà Nội trong những năm vừa qua.
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về chế độ
bảo hiểm hưu trí và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo hiểm hưu
trí ở Việt Nam hiện nay.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và học tập của sinh
viên, học viên chuyên ngànhluật. Ngoài ra đề tài còn có thể tham khảo trong quá
trình xây dựng chính sách về chế độ hưu trí và nâng cao hiệu quả thực hiện chế
độ hưu trí tại thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về hưu trí và chế độ hưu trí
Chương 2: Thực trạng chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội hiện
hành và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chế độ hưu trí trên trong Luật bảo hiểm xã hội từ thực tiễn trên địa bàn thành
phố Hà Nội
6

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HƢU TRÍ VÀ CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ

1.1. Khái niệm về hƣu trí và sự cần thiết phải có bảo hiểm hƣu trí
1.1.1. Quan niệm về hưu trí
Hưu trí là khái niệm được dùng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng
đều được hiểu dưới khía cạnh thống nhất là giai đoạn tuổi già, người lao động
đã hết tuổi lao động không tham gia vào các công việc lao động chính nữa.
Hưu trí là tên gọi chỉ chung cho những người đã về hưu hoặc nghỉ hưu theo
chế độ và được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Hưu trí thường là người
già, người có thâm niên công tác nhất định (ngoại trừ một số trường hợp nhà
nước cho nghỉ mất sức vì thực hiện các công việc nặng nhọc, độc hại…) [29,
tr.23]. Quan điểm về hưu trí thường xuất phát từ căn cứ về sức lao động của
người lao động và căn cứ điều kiện kinh tế xã hội.
Căn cứ về sức lao động của người lao động
Theo thời gian khả năng của con người cũng sẽ giảm dần, không một ai
có thể khoẻ mạnh để lao động sản xuất ra của cải vật chất suốt cả cuộc đời.
Khi già yếu khoản thu nhập mà họ dùng để chi tiêu cho cuộc sống sẽ hoặc là
do tích góp trong quá trình lao động hoặc do được con cháu chu cấp… Những
nguồn thu nhập này không thường xuyên và phụ thuộc vào điều kiện của từng
người. Để đảm bảo lợi ích cho người lao động khi họ hết tuổi lao động và
giúp họ có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định, Nhà nước đã thực hiện chế
độ bảo hiểm hưu trí.
Do vậy chế độ hưu trí là hình thức bảo đảm thu nhập cho người lao
động khi đã hết tuổi lao động cho đến khi họ chết. Trong quá trình lao động,
họ cống hiến sức lao động để xây dựng đất nước bằng cách tạo ra thu nhập
cho xã hội và cho bản thân. Do đó đến khi họ không còn khả năng lao động
nữa thì người lao động cần được sự quan tâm ngược lại từ phía xã hội. Đó
chính là khoản tiền trợ cấp hưu trí hàng tháng phù hợp với số phí bảo hiểm xã
7

hội mà họ đã đóng góp trong suốt quá trình lao động. Nguồn trợ cấp này tuy ít
hơn so với lúc đang làm việc nhưng nó rất quan trọng và cần thiết giúp cho
người lao động ổn định cả về mặt vật chất cũng như tinh thần trong cuộc sống
sau khi đã nghỉ hưu.
Căn cứ về điều kiện kinh tế-xã hội
Cơ chế đóng góp hình thành nên quỹ hưu trí đó là người lao động chỉ
cần trích ra một tỷ lệ % tiền lương tương đối nhỏ khi còn đang làm việc trong
một khoảng thời gian nhất định để đóng góp để đến khi hết tuổi lao động họ
sẽ được chế độ hưu trí chi trả lương hưu từ nguồn quỹ đó. Thế nhưng không
phải từ chính những khoản mà họ đóng góp. Bởi lẽ những khoản mà họ đóng
góp trong thời gian làm việc sẽ được dùng để chi trả cho những người đã về
hưu trước đó, nên khi họ về hưu thì những khoản đóng góp của thế hệ sau sẽ
được dùng để trợ cấp cho họ. Khi có chế độ hưu trí thì người lao động sẽ yên
tâm hơn về cuộc sống sau này của mình, có được sự ổn định cuộc sống trong
quá trình nghỉ hưu. Chính vì vậy họ sẽ làm việc lao động một cách chăm chỉ
để đạt năng suất cao nên làm tăng nguồn thu nhập cho bản thân họ và cả cho
xã hội. Qua đó góp phần làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng đời sống
của người dân cũng được nâng cao. Thu nhập của người lao động trong quá
trình làm việc càng lớn thì lương hưu nhận được sau này càng cao.Như ta đã
biết thì chế độ hưu trí là chế độ chi trả dài hạn cho nên nguồn quỹ nhàn rỗi sẽ rất
lớn đây sẽ là nguồn vốn đầu tư lớn cho phát triển nền kinh tế và xã hội.
Như vậy từ đó có thể hiểu chế độ hưu trí là một chế độ mang tính xã
hội hóa cao được thực hiện một cách thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Nói cách khác, chế độ hưu trí lấy đóng góp của thế
hệ sau chi trả cho các thế hệ trước. Vì vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết
giữa các thế hệ, làm cho mọi người trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau
hơn thể hiện mối quan tâm sâu sắc giữa người với người trong xã hội.

8

1.1.2. Sự cần thiết phải có bảo hiểm hưu trí
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả
năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ
tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp
phần đảm bảo an toàn xã hội [39, tr.56].
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là sự phát triển của lực
lượng sản xuất trên thế giới, bảo hiểm xã hội ngày càng trở thành nhu cầu
thường xuyên, tự nguyện và chính đáng của người lao động. Ngay từ thế kỷ
XVI những người nông dân ở vùng Anper đã nhận thấy để trợ cấp cho trường
hợp một số người bị ốm đau hay tai nạn. Họ đã thành lập hội tương hỗ với
cách thức mỗi người đều trích ra một phần thu nhập để đóng góp chung vào
một quỹ, phòng khi có ai bị đau ốm hay tai nạn thì dùng quỹ đó để giúp đỡ.
Hình thức sơ khai này được bảo hiểm xã hội phát triển dần nên, phạm vi được
mở rộng ra để có thêm nhiều người tham gia, mở thêm các loại trợ cấp bổ
sung [27].
Nguyên tắc chung trong hoạt động bảo hiểm này là gắn liền quyền lợi
được hưởng với nghĩa vụ đóng góp. Tuy vậy bảo hiểm xã hội chỉ thực sự trở
thành một lĩnh vực hoạt động mang tính chất và ý nghĩa xã hội sâu sắc từ đầu
thế kỷ 19. Quá trình đó gắn liền với sự phát triển sản xuất công nghiệp, của
nền kinh tế thị trường và thị trường sức lao động mà trong đó có quan hệ chủ
thợ trong lao động được trở nên phổ biến.
Một bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm trong lịch sử được hình thành
ở nước Anh vào năm 1819. Bộ luật này có tên là bộ luật nhà máy. Nội dung
cơ bản trong luật này là bảo hiểm cho lao động trong các xưởng thợở một nước
công nghiệp khác, nước Đức đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau vào năm 1883,
luật tai nạn lao động năm 1884 và luật bảo hiểm người già và người tàn tật do
lao động vào năm 1889 [40, tr.45]. Sự ra đời các bộ luật chính thức đầu tiên đó
phản ánh một yêu cầu tất yếu khách quan của bảo hiểm xã hội.
9

Sang thế kỷ 20, hầu hết các nước trên thế giới mà trước hết là các nước
công nghiệp phát triển ở một trình độ cao đều ban hành và thực hiện điều luật
về bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Với sự phát triển như vậy, bảo
hiểm xã hội đã trở thành một lĩnh vực mang tính quốc tế rộng lớn. Hiện nay
có hơn 160 quốc gia trên thế giới thực hiện bảo hiểm xã hội [25, tr.31].
Bảo hiểm hưu trí có vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi người
lao động, đó là phần tích lũy thu nhập của người lao động khi hết tuổi lao
động không có khả năng lao động. Bảo hiểm hưu trí giúp đảm bảo đời sống
cho người lao động khi họ về hưu do đó giúp cho xã hội ổn định và gắn bó.
Ngày nay, tỷ lệ người già trong dân số càng tăng do đó ổn định đời sống cho
bộ phận này là rất quan trọng. Mặt khác, khi nghỉ hưu người lao động được
sống thoải mái hơn và an nhàn hơn. Đối với người có trình độ có khả năng họ
lại tiếp tục cống hiến, truyền đạt kinh nghiệm cho thế hệ sau.
Người lao động trong quá trình lao động họ có được sự bảo đảm chắc
chắn về phần thu nhập khi họ nghỉ hưu, làm cho họ yên tâm chú ý, không lo
nghĩ về điều kiện sống khi nghỉ hưu do đó có thể làm việc với năng suất và
chất lượng cao hơn.
Giúp người lao động tiết kiệm cho bản thân mình ngay trong quá trình
lao động để bảo đảm đời sống khi nghỉ hưu, giảm bớt phần nào gánh nặng
cho người thân, gia đình và xã hội.
Như vậy, trong suốt thời kỳ lịch sử, một nhu cầu tất yếu của con người
là an dưỡng tuổi già mà không có sự lo lắng về thu nhập và cuộc sống. Khi về
già sức lao động bị giảm sút, họ không thể làm việc tạo ra thu nhập. Do đó,
nhu cầu cần một khoản tài chính ổn định hàng tháng để trang trải các thu
nhập. Khi mà mô hình tháp dân số chuyển sang mô hình dân số già thì nhu
cầu này càng lớn hơn và gánh nặng lên xã hội càng nhiều. Chính vì vậy bảo
hiểm hưu trí là cứu cánh cho các chính sách an sinh xã hội của bất kỳ quốc
gia nào.

10

1.2. Khái niệm chế độ hƣu trí
1.2.1. Định nghĩachế độ hưu trí
Để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển, con người phải lao động để
tạo ra của cải vật chất. Nhưng cùng với thời gian, con người sẽ bị già đi, sức
khoẻ của họ bị giảm sút không còn khả năng lao động, không còn khả năng tự
đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống.Lúc đó khoản thu nhập mà họ có thể sinh
sống hoặc là do tích góp trong quá trình lao động hoặc do con cháu nuôi
dưỡng… Những nguồn thu nhập này không thường xuyên và phụ thuộc vào
điều kiện của từng người. Đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích cho người lao
động khi họ hết tuổi lao động và giúp họ có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn
định đời sống, do đóNhà nước đã thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí.
Như vậy, chế độ hưu trí là một chế độ mang tính xã hội hóa cao được
thực hiện một cách thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Nói cách khác, chế độ bảo hiểm hưu trílấy đóng góp của thế hệ sau chi
trả cho các thế hệ trước. Vì vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các
thế hệ, làm cho mọi người trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau hơn thể
hiện mối quan tâm sâu sắc giữa người với người trong xã hội.
Hiện nay cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về chế độ hưu trí
trong hệ thống các chính sách bảo hiểm xã hội.
Có quan điểm cho rằng, chế độ hưu trí là chế độ bảo hiểmxã hội đảm
bảo thu nhập cho người hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ
lao động nữa [40, tr.79].
Dưới góc độ pháp luật về an sinh xã hội thì: “Chế độ hưu trí là tổng
hợp các quy phạm pháp luật quy định về các điều kiện và mức trợ cấp cho
những người tham gia bảo hiểm hưu trí, khi đã hết tuổi lao động hoặc không
còn tham gia quan hệ lao động” [40, tr.80] Qua nghiên cứu các quan điểm khác nhau về chế độ hưu trí ta thấy, các
tác giả đều cho rằng chế độ hưu trí là chế độ áp dụng cho người lao động khi
họ đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động nữa. Ngoài
11

ra bản chất của chế độ hưu trí là sự đảm bảo thu nhập bằng việc trợ cấp của
quỹ bảo hiểm hưu trí dành cho người tham gia sau khi họ hết tuổi lao động
hoặc không tham gia quan hệ lao động nữa.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra định nghĩachế độ hưu trí: Là tổng
hợp các quy phạm pháp luật quy định về các điều kiện và mức trợ cấp cho
những người tham gia bảo hiểm hưu trí, khi đã hết tuổi lao động hoặc không
còn tham gia quan hệ lao động.

Vậy chế độ hưu trí là chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn nằm ngoài quá
trình lao động nhưng lại được thể hiện ngay trong quá trình lao động. Người
lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội trong một thời gian dài liên tục đến
khi đủ về số lượng thời gian tham gia đóng bảo hiểm xã hội theo quy định thì
mới đủ một trong những điều kiện để được hưởng bảo hiểm hưu trí.

Người được hưởng bảo hiểm hưu trí phải đạt đến một độ tuổi nhất
định nào đó hoặc được giảm tuổi trong một số trường hợp do nghề nghiệp
hoặc môi trường lao động tuỳ theo quy định của mỗi nước và mỗi giai đoạn
của lịch sử gắn với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội.

Khi đã đủ các điều kiện thì người lao động được hưởng trợ cấp hưu
trí trong khoảng thời gian tính từ lúc về hưu cho đến khi người lao động chết.
Quá trình hưởng dài hay ngắn tuỳ thuộc vào tuổi thọ của từng người.

Tỷ lệ hưởng và mức hưởng được xác định trên cơ sở mức đóng và
thời gian đóng bảo hiểm xã hội trong quá trình lao động.

Chế độ hưu trí có sự tách biệt giữa đóng và hưởng, đồng thời là chế
độ nằm ngoài quá trình lao động. Vì vậy, để được hưởng chế độ hưu trí thì
người lao động phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội ngay trong quá trình lao
động, số tiền đóng góp vào quỹ bảo hiểm hưu trí trong quá trình lao động
được tích luỹ và được dùng để chi trả lương hưu sau khi nghỉ việc, đồng thời
quỹ bảo hiểm xã hội cũng dùng để chi trả cho những người thuộc thế hệ trước
đang hưởng lương hưu. Như vậy có sự kế thừa giữa các thế hệ lao động trong
12

việc hình thành quỹ bảo hiểm hưu trí. Đây là đặc trưng thể hiện nguyên tắc số
đông bù số ít, đoàn kết, tương trợ của bảo hiểm hưu trí.

Thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa người lao động và người sử
dụng lao động. Người sử dụng lao động muốn có sự phát triển sản xuất kinh
doanh thì người việc tập trung thiết bị máy móc, họ cũng phải quan tâm đến
cuộc sống người lao động. Phải tạo cho người lao động việc làm và cũng phải
đảm bảo cuộc sống cho họ khi họ hết tuổi lao động.
1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của chế độ hưu trí
Thứ nhất, đảm bảo mọi thành viên trong xã hội (trong độ tuổi lao động
và có khả năng lao động) có quyền tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm
xã hội.
Đảng và Nhà nước chúng ta hết sức coi trọng, chăm lo chính sách an
sinh xã hội, trong đó bảo hiểm xã hội là một trụ cột, được thể hiện trong
Cương lĩnh, trong văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng, Nghị quyết, Kết luận
của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Và gần đây nhất là Kết luận số
23-KL/TW, ngày 29.5.2012 và Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 01.6.2012 của
Hội nghị Trung ương 5; Kết luận số 63-KL/TW ngày 27.5.2013 của Hội nghị
lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, đề cập khá cụ thể chính
sách bảo hiểm xã hội với định hướng đa dạng hóa hình thức, mở rộng đối
tượng tham gia, bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, tuân thủ
nguyên tắc đóng – hưởng, bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm xã hội, xây dựng
chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính phủ
tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50%
lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội[52, tr.34].

Thứ hai, đảm bảo thực sự cho người lao động về mức thu nhập để
có thể duy trì được cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời cũng như khi
tuổi già hết khả năng lao động.

Trong cả cuộc đời của người lao động thương thời gian lao động dài
hơn thời gian người lao động hết tuổi lao động đến lúc chết. Hơn nữa, không
13

phải tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng một lúc đều có nhu cầu bảo
hiểm. Do vậy, nguyên tắc trước hết của bảo hiểm xã hội nói chung và bảo
hiểm hưu trí nói riêng là lấy số đông bù số ít, lấy khoảng thời gian lao động
có thu nhập để bảo hiểm cho người lao động khi hết khả năng lao động.

Thứ ba,có sự phân biệt hợp lý chế độ hưởng bảo hiểm hưu trí giữa
lao động nam và lao động nữ. Một mặt xuất phát từ truyền thống ưu đãi phụ
nữ tồn tại từ lâu trong cộng đồng và được Nhà nước thừa nhận.

Trong Luật bảo hiểm xã hội, ngoài các quy định chung về chế độ
bảo hiểm xã hội đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội, còn có các
quy định riêng đối với lao động nữ. Vấn đề này được thể hiện khá rõ ràng
trong quy định về chế độ thai sản và chế độ hưu trí.

Về chế độ hưu trí, mức đóng và phương thức đóng vào quỹ hưu trí
thì tử tuất là như nhau giữa lao động nam và lao động nữ. Tuy nhiên lại có sự
khác nhau về độ tuổi được hưởng. Trong điều kiện làm việc bình thường, sức
khỏe bình thường và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên, độ
tuổi nghỉ hưu của lao động nữ là 55 tuổi (lao động nam là 60 tuổi), một số
trường hợp đặc biệt về điều kiện lao động hoặc bị suy giảm khả năng lao
động, độ tuổi nghỉ hưu của lao động nữ cũng thấp hơn độ tuổi của lao động
nam 5 tuổi.

Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội để
tính hưởng lương hưu là như nhau, nhưng mức hưởng cũng có sự khác nhau
về công thức tính. Mức lương hưu hàng tháng của người lao động đủ điều
kiện theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội được tính bằng 45% mức bình
quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với 15 năm
đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được
tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ, mức tối đa được hưởng bằng
75%. Như vậy, thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu đủ 75%
mức bình quân tiền lương, tiền công tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội
theo quy định của lao động nữ là 25 năm, của lao động nam là 30 năm. Mặc
14

dù sự khác nhau này không hẳn đã đảm bảo được quyền bình đẳng giữa lao
động nam và lao động nữ, trong một số trường hợp và với những nhóm đối
tượng nhất định, độ tuổi nghỉ hưu của nữ có thể tăng dần và ngang bằng với
nam như lao động trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giáo dục…

Vấn đề nêu trên không mang tính chất so sánh thiệt – hơn mà theo
quan điểm ưu tiên bảo vệ lao động nữ. Việc thiết kế chế độ, điều kiện hưởng,
mức hưởng và thời gian hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội của lao động nữ
liên quan đến nhiều yếu tố như giới tính, thể chất, tâm sinh lý, văn hóa truyền
thống…đặc biệt là thiên chức của phụ nữ nói chung, lao động nữ nói riêng
trong việc sinh con, nuôi con và giáo dục con cái, bởi vì tâm lý, tình cảm, tính
cách, lối sống…của con trẻ chịu ảnh hưởng rất lớn từ người mẹ – một trong
những yếu tố cơ bản xây dựng nhân cách một con người. Chính vì vậy, chính
sách bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ nằm trong sự tương quan giữa các
chính sách khác về phụ nữ như chính sách về sự tiến bộ của phụ nữ; chính
sách về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; chính sách bình đẳng
giới.

Thứ tư, giảm độ tuổi nghỉ hưu đối với một số ngành nghề, lĩnh vực
nhất định. Nguyên tắc này quy định người lao động làm những công việc
nặng nhọc độc hại, làm việc ở những vùng sâu vùng xa hoặc làm việc trong
lực lượng vũ trang sẽ được nghỉ hưu sớm hơn nhưng không phải trừ tỷ lệ
lương hưu.

Theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, người lao động
được hưởng lương hưu khi nghỉ việc mà nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60, nữ từ
đủ 50 đến đủ 55 tuổi và có 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên, trong đó có
đủ 15 năm làm việc hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh
mục do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ
15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên.

Trường hợp người lao động đã đủ điều kiện hưởng lương hưu theo
quy định trên mà vẫn muốn tiếp tục làm việc và người sử dụng lao động vẫn
15

có nhu cầu sử dụng thì người lao động vẫn tiếp tục làm việc và tham gia bảo
hiểm xã hội bắt buộc theo quy định. Trường hợp người sử dụng lao động
không có nhu cầu hoặc người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì thủ
tục hồ sơ giải quyết để người lao động hưởng lương hưu được quy định tại
Điều 119, Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội. Theo đó người sử dụng lao động
phải ra quyết định nghỉ việc và lập hồ sơ hưởng lương hưu đối với người đang
đóng bảo hiểm xã hội gửi cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết theo quy định.

Thứ năm,bảo đảm nguồn quỹ bảo hiểm xã hội.

Bảo đảm an toàn, cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội được xem là một
trong những mục tiêu chính trong của Luật BHXH (năm 2010). Tuy nhiên,
với nhiều điểm mới được đưa ra, như: thay đổi công thức tính lương hưu, tăng
thời gian đóng bảo hiểm xã hội, nâng tuổi về hưu… có nhiều tranh luận khác
nhau.

Về công thức tính lương hưu, vẫn giữ nguyên tỷ lệ hưởng lương hưu
tối đa là 75% nhưng thay đổi cách tính tỷ lệ hưởng lương hưu theo hướng có
lộ trình tăng dần.

Theo Ðiều 55 của Luật năm 2014,có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01
năm 2016, số năm đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với 45% mức bình quân
tiền lương tháng để tính lương hưu cho người về hưu vào năm 2016 là 16
năm; năm 2017 là 17 năm; năm 2018 là 18 năm; năm 2019 là 19 năm và năm
2020 là 20 năm (thay vì cách tính hiện nay là 15 năm đóng bảo hiểm xã hội
được hưởng 45%).

Tăng tỷ lệ giảm trừ do về hưu trước tuổi từ 1% lên 2% tương ứng
với mỗi năm về hưu trước tuổi.

Thống kê của bảo hiểm xã hội Việt Nam cho thấy, từ năm 2010 đến
nay hơn 70% số người hưởng lương hưu có hơn 30 năm đóng bảo hiểm (đối
với nam) và 25 năm (đối với nữ). Ðiều này cho thấy tác động của việc điều
chỉnh theo quy định mới sẽ chỉ ảnh hưởng nhiều tới khoảng 30% số người
không đủ số năm đóng góp để được hưởng mức đóng tối đa.
16

Thứ sáu,bảo đảm sự thống nhất và liên tục của bảo hiểm xã hội nói
chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng.

Chế độ hưu trí là chế độ mang tính chất hoàn trả và ít nhiều có sự
tách biệt giữa đóng và hưởng vì người tham gia bảo hiểm đóng suốt thời kỳ
lao động được hưởng trợ cấp khi về hưu điều này thể hiện tính kế thừa liên
tục giữa những người lao động để hình thành quỹ hưu trí. Thời gian đóng và
hưởng có thể chênh lệch nhau nhiều hay ít phụ thuộc vào tuổi thọ cũng như số
năm tham gia công tác.

Đảm bảo quyền lợi cho người lao động và người sử dụng lao động
khi tham gia bao hiểm xã hội, thì được hưởng các chế bảo hiểm ngắn hạn như
chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao đông … cũng như chế độ bảo hiểm dài hạn
như chế độ hưu trí, tử tuất. Bảo đảm thời gian đóng, mức đóng phù hợp với
mức hưởng bảo hiểm xã hội, nhằm chăm lo tốt đời sống cho người lao động,
gia đình của họ và ổn định đời sống kinh tế – xã hội [43, tr.68].

Thứ bảy, đảm bảo sự công bằng trong cho đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội và bảo đảm ổn định nhiều mặt về kính tế – xã hội.

Chế độ hưu trí rất quan trọng trong chính sách bảo hiểmxã hội của
một quốc gia, hầu hết người lao động của quốc gia đó đều tham gia chế độ
hưu trí gần như cả cuộc đời mình, tác động đời đời sống vật chất, tinh thần
của người lao động và gia đình của họ cũng như của xã hội, như vậy chế độ
hưu trí có ảnh hưởng đến hầu như toàn bộ dân số của một nước và có thể ảnh
hưởng rất lớn đến nhiều mặt kinh tế xã hội của quốc gia đó. Để không ảnh
hưởng đến đời sống của người lao động nói riêng và ảnh hưởng đến kinh tế –
xã hội của một quốc gia nói chung thì cần thực hiện tốt chế độ hưu trí, đồng
thời, đảm bảo sự công bằng của người tham gia bảo hiểm xã hội[43, tr.58] 1.2.3. Vai trò của chế độ hưu trí
Qua hoạt động bảo hiểm xã hội, những rủi ro trong đời sống của người
lao động được dàn trải theo nhiều chiều, tạo khả năng giải quyết an toàn nhất,
với chi phí thấp nhất. Bảo hiểm xã hội là căn cứ đánh giá trình độ quản lý rủi
17

ro và mức độ an sinh xã hội đạt được trong mỗi nước. Bảo hiểm xã hội còn là
sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Hoạt động
bảo hiểm xã hội cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị
trường tài chính phong phú và kinh tế, xã hội phát triển. Từ đó có thể nhận
thấy chế độ hưu trí có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn
hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá-
hiện đại hoá thì những “rủi ro” như ốm đau, tai nạn lao động- bệnh nghề
nghiệp, thai sản, mất việc làm…lại diễn ra một cách thường xuyên và ngày
càng phổ biến hơn, phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây khó
khăn cho người lao động về cả mặt vật chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng không
tốt cho cả cộng đồng.
Thứnhất,đối với người lao động, chế độ hưu trí đã đảm bảo được việc
thực hiện quyền và lợi ích chính đáng của người lao động sau khi đã hoàn
thành nghĩa vụ lao động với xã hội. Tiền lương mà họ nhận được là kết quả
tích luỹ trong suốt quá trình làm việc đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Đây
là khoản thu nhập chính đáng, là chỗ dựa chủ yếu nhằm bảo đảm cuộc sống
về cả vật chất lẫn tinh thần cho người lao động trong quãng đời còn lại sau
quá trình lao động. Có thể khi về già, nhiều người lao động cũng có những
khoản tích luỹ, có chỗ dựa là con cháu song phần lớn là họ trông cậy vào khoản
trợ cấp hưu trí. Hơn nữa, khoản trợ cấp này còn là chỗ dựa tinh thần cho người
hết tuổi lao động. Người về hưu sẽ cảm thấy tự tin, yên tâm trong cuộc sống
khi họ được hưởng lương hưu, không bị mặc cảm là gánh nặng của gia đình
và xã hội.
Đối với người sử dụng lao động,Bảo hiểm hưu trí giúp các tổ chức sử
dụng lao động ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc phân
phối các chi phí cho người lao động một cách hợp lý. Bảo hiểm xã hội tạo
điều kiện để người sử dụng lao động có trách nhiệm với người lao động
không chỉ khi trực tiếp sử dụng lao động mà trong suốt cuộc đời người lao
18

động. Bảo hiểm xã hội còn giúp đơn vị người sử dụng lao động ổn định
nguồn chi ngay cả khi có rủi ro lớn xảy ra

Thứ hai,tham gia bảo hiểm xã hội vừa mang tính bắt buộc, vừa
mang tính tự nguyện.

Chính sách bảo hiểm xã hội với định hướng đa dạng hóa hình thức,
mở rộng đối tượng tham gia, bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm,
tuân thủ nguyên tắc đóng – hưởng, bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm xã hội, xây
dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính
thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật như Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, trong các văn bản của các cơ
quan Nhà nước khác… [53, tr.37] Về hình thức tham gia bảo hiểm được mở rộng cho nhiều đồi tượng có
thể tham gia bảo hiểm, chủ yếu với hai hình thức là bảo hiểm bắt buộc (áp
dụng cho các đối tượng khi đủ các điều kiện được tham gia), bảo hiểm xã hội
tự nguyện được mở rộng hơn về đối tượng tham gia và mức đóng phí, Nhà
nước thực hiện chính sách khuyến khích nhiều người dân tham gia bảo hiểm
xã hội tự nguyện.
Thứ ba,đối với xã hội, chế độ hưu trí thể hiện trách nhiệm của Nhà
nước, của xã hội và của người sử dụng lao động đối với những người đã có
quá trình lao động đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, nay hết
tuổi lao động. Chế độ này phản ánh rõ nét các giá trị xã hội, tính nhân văn,
nhân đạo của dân tộc, là một trong những nội dung nòng cốt của chính sách
đảm bảo xã hội quốc gia.
Hiện nay xu hướng già hoá của dân số thế giới dẫn đến số lượng người
nghỉ hưu ngày càng tăng. Điều đó cho thấy rõ vai trò ngày càng quan trọng
của chế độ hưu trí trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Hơn nữa,
chế độ bảo hiểm hưu trí còn thể hiện được sự quan tâm chăm sóc của Nhà
nước, người sử dụng lao động đối với người lao động, và nó còn thể hiện đạo
19

lý của dân tộc đồng thời còn phản ánh trình độ văn minh của một chế độ xã
hội [45, tr.48].
Sau khi về hưu không tham gia lao động nữa đồng thời họ sẽ không
đóng góp vào quỹ nữa thì lúc này số tiền mà người lao động đã đóng góp
trước đó khi còn làm việc sẽ được dùng để chi trả một số tiền trợ cấp gọi là
lương hưu. Lương hưu thường được cơ quan bảo hiểm chi trả định kỳ theo
tháng cho người về hưu. Việc chi trả định kì hàng tháng sẽ giúp cho người về
hưu trang trải được cuộc sống của chính mình không phải phụ thuộc vào con
cái hay xã hội. Không còn làm việc nữa nhưng họ vẫn nhận được lương. Điều
này sẽ làm cho họ yên tâm hơn về cuộc sống sau này.
Chế độ hưu trí là chế độ mang tính chất hoàn trả và ít nhiều có sự tách
biệt giữa đóng và hưởng vì người tham gia bảo hiểm đóng suốt thời kỳ lao
động được hưởng trợ cấp khi về hưu điều này thể hiện tính kế thừa liên tục
giữa những người lao động để hình thành quỹ hưu trí
. Thời gian đóng và
hưởng có thể chênh lệch nhau nhiều hay ít phụ thuộc vào tuổi thọ cũng như số
năm tham gia công tác. Những người nào mà có tuổi thọ cao thì thời gian
được hưởng chế độ hưu trí càng dài và ngược lại. nên việc xác định mức đóng
mức hưởng rất phức tạp ảnh hưởng rất lớn đến nguồn quỹ hưu trí.
1.3. Chế độ hƣu trítrong pháp luật một số nƣớc trên thế giới và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.3.1 Chế độ hƣu trítrong pháp luật một số nƣớc[49] Ở Canada
Theo quan điểm tại Canada thì tình trạng hưu trí của mỗi người là khác
nhau, quy tắc chung là mọi người cần ít nhất là 70% thu nhập trước khi nghỉ
hưu để có thể sống một cách thoải mái trong thời kỳ nghỉ hưu. Hệ thống thu
nhập hưu trí của Canada thường được so sánh với một ngôi nhà 3 tầng:
Tầng thứ nhất là an sinh tuổi già (OAS) đảm bảo sự hỗ trợ cơ bản cho
những người từ 65 tuổi đáp ứng được một số đòi hỏi về thời gian cư trú.
20

Tầng thứ hai là chế độ trợ cấp hưu trí ở Canada (CPP) đảm bảo sự hỗ
trợ bổ sung trên cơ sở thu nhập và đóng góp cho người từ 60 tuổi trở lên.
Trong chế độ này cũng có trợ cấp thương tật, cho người góa và tử tuất.
Quebech có một chế độ riêng tương tự.
Tầng thứ ba là trợ cấp hưu trí tư nhân và tiết kiệm cá nhân, một số
chương trình được hỗ trợ về thuế, như trợ cấp hưu trí nghề nghiệp (RPPs) và
Chương trình tiết kiệm hưu trí có đăng ký (RRSPs) [49, tr.17].
Về chế độ an sinh tuổi già (OAS) là một phần chủ yếu của hệ thống của
Canada về thu nhập cho người về hưu. Các trợ cấp bao gồm trợ cấp cơ bản
của An sinh tuổi già, các Bổ sung về thu nhập được bảo đảm và Trợ cấp cho
vợ hoặc chồng. Theo Luật về bảo hiểm người già có hiệu lực từ năm 1952,
thay thế cho Luật năm 1927, cho phép chính phủ liên bang chia sẻ chi phí về
phúc lợi người già cho các bang việc chi trả về bảo hiểm người già, việc chi
trả này theo đánh giá các nguồn.
Luật này của Canada đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Trong số
những sửa quan trọng nhất có thể kể đến: Việc giảm tuổi có thể nhận trợ cấp
từ 70 tuổi xuống còn 65 tuổi; Việc thiết lập bổ sung về thu nhập được bảo
đảm; Tăng hàng năm trợ cấp theo giá sinh hoạt; Chỉ số hóa hàng quý; thiết lập
trợ cấp cho vợ hoặc chồng…
Về kinh phí, quỹ An sinh tuổi già được tài trợ bằng nguồn thu thuế của
Chính phủ liên bang. Về quản lý, An sinh tuổi già được Tổng vụ về các
chương trình bảo hiểm thu nhập của Bộ phát triển nguồn nhân lực Canada
quản lý qua các văn phòng vùng đặt tại mỗi bang hoặc lãnh thổ. Về chỉ số
hóa, tất cả các trợ cấp được chi trả theo Luật về bảo hiểm người già được tăng
vào tháng 01, tháng 4 và tháng 10 hàng năm, theo sự gia tăng của giá sinh
hoạt, theo chỉ số giá cả tiêu dùng.
Chế độ trợ cấp hưu trí của Canada (CPP) là một chế độ bảo hiểm xã hội
đóng góp dựa trên thu nhập. Chế độ bảo hộ người đã tham gia đóng góp và
gia đình họ chống lại sự mất thu nhập có thể do sự về hưu, sự tàn phế và
21

chết.Chếđộ được áp dụng trên toàn Canada. Quessbec có một chương trình
tương tự, đó là Chế độ trợ cấp hưu trí của Quesbec liên quan chặt chẽ với chế
độ trợ cấp hưu trí của Canada. Những thỏa thuận giữa chính phủ liên bang và
bang là sự điều phối giữa hai chế độ. Chế độ hưu trí ở Canada được thể hiện
cụ thể như sau:
Về kinh phí,chế độ trợ cấp hưu trí được tài trợ theo nguồn đóng góp từ
người sử dụng lao động, người lao động và người làm việc cho mình cũng
như nhờ có lợi ích từ Qũy đầu tư của Chế độ trợ cấp hưu trí của Canada.
Cơ quan đầu tư của Chế độ trợ cấp hưu trí hoạt động độc lập với các
chính phủ liên bang và bang. Cơ quan sẽ kêu gọi các chuyên gia cao cấp để
đầu tư quỹ của chế độ trợ cấp hưu trí trong các thị trường tài chính. Cơ quan
sẽ chịu gần như cùng các quy tắc đầu tư giống như các chế độ hưu trí khác.
Cơ quan này chịu trách nhiệm trước công chúng và sẽ báo cáo định kỳ về hiệu
quả đầu tư.
Về số tiền đóng góp,sự đóng góp được trích từ khoảng lợi hàng năm
tính gộp và mức tối đa đòi hỏi là mức tối đa lợi tức hàng năm có thể trợ cấp
(MGAP). MGAP liên quan trực tiếp đến tiền công trung bình Canada. Trong
mục đích bảo đảm sự bền vững tài chính của Chế độ trợ cấp hưu trí, các tỉ lệ
đóng góp sẽ tiếp tục tăng lên dần dần để đạt được tỉ lệ 9,9%. Các bộ trưởng
tài chính liên bang và bang sẽ phải xem xét và cập nhật ba năm một lần bảng
tính sẵn tỉ lệ được dự kiến này cho đến 25%.
Về quản lý, tổng vụ các chương trình an toàn thu nhập của bộ phát triển
nguồn nhân lực quản lý Chế độ trợ cấp hưu trí qua các văn phòng vùng đặt ở
mỗi bang và mỗi lãnh thổ. Phòng quan hệ quốc tế, đặt ở Ottawa chịu trách
nhiệm trách nhiệm các trợ cấp trong khuôn khổ các thỏa thuận quốc tế về
ansinh xã hội do Canada đã ký kết.
Về điều kiện có thể được nhận bảo hiểm, tất cả mọi người thực hiện tối
thiểu một sự đóng góp hợp thức vào Chế độ trợ cấp hưu trí (CPP) có thể nhận
một trợ cấp hưu trí hàng tháng sau ngày sinh thứ 60 của mình. Những người

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *