11271_Tiểu luận Mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở nước ta

luận văn tốt nghiệp

Tiểu luận:

Mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế
trong thời kỳ đổi mới ở nước ta

Mở đầu

Chính trị với kinh tế là mối quan hệ cơ bản nhất, quyết định nhất tới sự vận động
và phát triển của mọi xã hội. Điều đó đặt ra sự cần thiết phải nhận thức đầy đủ cả về lý
luận và những kinh nghiệm lịch sử về sự tác động của chính trị vào phát triển kinh tế
nhằm rút ra những giải pháp thiết thực cho công cuộc đổi mới toàn diện theo định hướng
XHCN ở nước ta.
Trong đời sống chính trị, các giai cấp thống trị đều sử dụng quyền lực nhà nước để
giải quyết các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích kinh tế. Nhưng khó khăn lớn nhất của sự
tác động của chính trị trong việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta là nghiên cứu về kinh tế thị trường vẫn chưa làm sáng tỏ câu trả
lời về mặt lý luận (về quy luật, cơ cấu, biện pháp thực hiện…).
Vì vậy, trước hết cần luận giải vai trò của chính trị với kinh tế làm rõ xu thế biến
đổi, phát triển quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở giai đoạn hiện nay. Sự tác
động của chính trị vào việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường. Trong phạm vi
một bài tiểu luận ngắn chỉ nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn ngắn gọn mà
thôi.

Phần nội dung

I. Cơ sở lý luận giữa chính trị và kinh tế
1. Khái niệm “chính trị” và “kinh tế”
“Chính trị” theo nghĩa chung nhất được hiểu như hoạt động liên quan đến mối
quan hệ giữa các nhóm xã hội lớn, trước hết là giữa các giai cấp, xét rộng hơn nữa là
quan hệ giữa các dân tộc, giữa các quốc gia trên thế giới. Xét về thực chất, chính trị là
quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc, trong đó
trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế trong việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà
nước. Ph.Ăngghen khẳng định, chính trị là sự thống trị của giai cấp này đối với các giai
cấp khác trong xã hội, là việc một giai cấp hay liên minh giai cấp nào đó nắm quyền lực
để cai trị các giai cấp khác, để lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội. Còn theo Lênin,
trong chính trị vấn đề cốt lõi nhất là “thiết chế quyền lực nhà nước”. Phạm vi của chính
trị, trước hết bao hàm “sự tham gia vào các công việc của nhà nước, định hướng hoạt
động của nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”.
Như vậy, một vấn đề sẽ mang tính chính trị, nếu việc giải quyết nó động chạm đến lợi ích
của giai cấp xã hội, đến quyền lực nhà nước. Do chính trị là quan hệ giữa các giai cấp xã
hội, tức là sản phẩm của xã hội có giai cấp, gắn liền với sự ra đời, phát triển của nhà
nước, nên nó là một hiện tượng lịch sử. Điều đó có nghĩa, nó có quá trình hình thành,
phát triển và tiêu vong, như mọi quá trình, hiện tượng lịch sử xã hội khác. Đã có lúc xã
hội loài người tồn tại mà không có chính trị, và cũng sẽ có lúc xã hội không cần đến
chính trị với tư cách cơ quan quyền lực nhà nước nữa.
Trong chính trị, vấn đề nắm quyền lực chính trị (biểu hiện tập trung ở quyền lực
nhà nước) là một mục tiêu trọng tâm trực tiếp mà giai cấp, nhóm xã hội nào cũng hướng
tới. Bởi vì, giai cấp, lực lượng nắm được quyền lực chính trị cũng đồng nghĩa với việc
nắm được công cụ cơ bản để giải quyết quan hệ lợi ích với các giai cấp, nhóm xã hội
khác theo hướng có lợi cho giai cấp, nhóm mình. Nắm được quyền lực nhà nước, giai cấp
thống trị có điều kiện thực hiện lợi ích của giai cấp mình bằng cách xây dựng hệ thống

pháp luật phản ánh ý chí nguyện vọng của bản thân, triển khai thực hiện đường lối, chính
sách phản ánh quan điểm, lợi ích của chính nó.
“Kinh tế” là một phạm trù dùng để chỉ tổ hợp tất cả các quan hệ kinh tế (quan hệ
giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất) của một xã hội ở thời điểm lịch sử xác định,
để chỉ cơ sở kinh tế của xã hội. Trong tổ hợp tất cả các quan hệ ấy thì quan hệ sở hữu đối
với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định, chi phối các quan hệ kinh tế khác, như quan
hệ tổ chức sản xuất xã hội, quan hệ phân phối sản phẩm. Như vậy, lực lượng, giai cấp xã
hội nào nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất cơ bản, thì cũng có quyền quyết định
trong tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm.
Khái niệm kinh tế còn được dùng để chỉ toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác
nhau của một nền kinh tế quốc dân (như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…). Ngoài ra,
khái niệm kinh tế cũng có thể được dùng ở nghĩa: chỉ một tính chất đặc trưng thể hiện
mục tiêu then chốt, đó là tính hiệu quả (năng suất, chất lượng, giảm hao phí…) của mọi
quá trình sản xuất kinh doanh.
Từ việc phân tích nội hàm của các khái niệm “chính trị” và “kinh tế”, khi nghiên
cứu vai trò của chính trị đối với kinh tế, chúng ta có thể tiếp cận từ những phương diện
sau:
Thứ nhất, từ quan hệ của các lĩnh vực cơ bản của chính trị, quyền lực chính trị
(đường lối, chính sách; tổ chức, thiết chế chính trị; người lãnh đạo chính trị) với toàn bộ
nền kinh tế nói chung.
Thứ hai, từ quan hệ của chính trị, quyền lực chính trị nói chung với các lĩnh vực
kinh tế cơ bản (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ…) hoặc với các quan hệ kinh tế cơ
bản, như quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối, hoặc với các hoạt động
kinh tế, như hoạt động kinh tế trong nước, hoạt động kinh tế đối ngoại.
Thứ ba, từ cấp độ quan hệ hẹp, cụ thể hơn, như chính sách về nông nghiệp, chính
sách về sở hữu…
2. Quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế
Có thể khẳng định rằng, quan hệ giữa chính trị với kinh tế bao hàm những nội
dung và hình thức khác nhau, tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu khác nhau, nhưng đặc

trưng bản chất của quan hệ này được biểu hiện ở quan hệ của việc nắm và thực thi quyền
lực chính trị với tính hiệu quả của nền kinh tế.
Quan điểm mác-xít về quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế là cơ sở
phương pháp luận để nghiên cứu vai trò của chính trị đối với kinh tế. Khi phân tích mối
quan hệ này, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng, thực chất đây
là bộ phận cốt lõi, quan trọng nhất của quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng, thể hiện ở vai trò quy định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng
tầng và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở
hạ tầng. Trong tất cả các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, chính trị là yếu tố liên quan,
tác động trực tiếp đến hạ tầng cơ sở của xã hội. Trong khi khẳng định kinh tế đóng vai trò
cơ sở, nền tảng, cốt vật chất khách quan của chính trị, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin đánh giá rất cao vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế. Sự tác
động của chính trị đối với kinh tế được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, bao hàm
cả yếu tố tích cực lẫn tiêu cực, quy lại có ba chiều hướng: thúc đẩy kinh tế phát triển; kìm
hãm sự phát triển của kinh tế; thúc đẩy phương diện này, kìm hãm phương diện kia của
kinh tế.
Kế thừa tư tưởng cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen về quan hệ của chính trị với
kinh tế, trong quá trình trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới ở Liên
Xô, V.I.Lênin tiếp tục phát triển những luận điểm lý luận về quan hệ của chính trị với
kinh tế. Thống nhất với C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng, phát triển LLSX,
phát triển sản xuất là một trong những cơ sở, tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tác động của
chính trị đối với kinh tế. Với tư cách là một lý luận cách mạng bằng con đường hiện thực,
học thuyết mác xít đặt mục tiêu căn bản và quan trọng là giải phóng sức sản xuất. Trong
lý luận đó giai cấp tư sản trở thành đối tượng của cách mạng vô sản không phải chỉ do
đối lập tình cảm giai cấp, mà căn bản là do trong những điều kiện đương thời, giai cấp tư
sản đã trở thành một trong những lực lượng xã hội chủ yếu cản trở sự phát triển của
LLSX nói riêng, của toàn bộ nền sản xuất xã hội nói chung. Theo tinh thần đó, nhận thức
và giải quyết quan hệ chính trị với kinh tế bên cạnh việc phải ý thức tới vị trí và lợi ích
của giai cấp cầm quyền thì yêu cầu cơ bản, nền tảng cần phải tính tới là quan hệ và sự tác

động của chính trị với kinh tế phải vì mục tiêu phát triển sức sản xuất, phát triển sản xuất.
Điều này có nghĩa, xét từ phương diện vai trò của chính trị đối với kinh tế thì một giai
cấp xã hội, một thiết chế chính trị xã hội, một đường lối chính sách nào đó chỉ được coi là
tiến bộ, là phù hợp với xu thế phát triển, khi sự tồn tại và hoạt động của nó tạo điều kiện
thúc đẩy và tạo đà cho sức sản xuất phát triển.
Sự phát triển, bổ sung của V.I.Lênin vào quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về
vai trò của chính trị đối với kinh tế được thể hiện đặc biệt rõ nét ở hai luận điểm kinh điển
của Người: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” và “chính trị không thể không
chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”(1).
Về luận điểm thứ nhất: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Luận
điểm này có cơ sở từ chính thực tiễn của quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người, nó
chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của chính trị. Luận điểm này cần được hiểu như sau:
Sự hình thành, tồn tại và phát triển của chính trị là trên cơ sở những đồi hỏi khách
quan của sự phát triển kinh tế, của thực trạng kinh tế, của sự liên hệ những lợi ích kinh tế
căn bản của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong nền kinh tế. Chẳng hạn, phong trào
công nhân, công đoàn, các đảng cộng sản… như là sự phản ánh trực tiếp vị trí, những lợi
ích cơ bản của giai cấp công nhân công nghiệp trong thời kỳ cách mạng công nghiệp.
Sự phản ánh đó có tính chất tập trung, thông qua việc hình thành những tổ chức
chính trị, những chính sách để từ đó giải quyết những vấn đề quyết định mục tiêu và động
lực của sự phát triển kinh tế, tạo điều kiện, tạo môi trường và bảo đảm cho hoạt động
kinh tế diễn ra suôn sẻ. Điều này được thể hiện rõ qua vai trò và tác dụng rất lớn của pháp
luật, chính sách kinh tế trong hoạt động kinh tế ở xã hội tư bản hiện đại. Hoặc qua vai trò
quyết định, khởi xướng của các quyết sách chính trị đổi mới, cải cách kinh tế ở các nước
XHCN. ở đây, sự thay đổi căn bản và đáng kể trong kinh tế bao giờ cũng được bắt đầu
bằng những quyết định chính trị.
Là “sự biểu hiện tập trung của kinh tế”, nên chính trị phải mang trong mình quy
định kinh tế khách quan. Nghĩa là, phải phản ánh nó trong cấu trúc, trong phương thức
hoạt động của các thành tố cấu thành nên hệ thống chính trị, trong các quyết sách chính

(1) V.I.Lênin, Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,1977, tr.349.

trị. Những yêu cầu, điều kiện của quy luật kinh tế khách quan cần phải được tôn trọng và
tuân thủ, kể cả trong trường hợp những điều đó trước mắt có thể mâu thuẫn, trái ngược
với mong muốn, mục đích chủ quan của giai cấp, nhóm xã hội cầm quyền. Điều này
thường xảy ra ở các nước đang phát triển. Tại đây, nhà nước thông qua các chính sách
của mình phải chấp nhận và duy trì sự bất bình đẳng trong thu nhập ở mức độ nào đó để
có sự tăng trưởng, phát triển. Bởi vì, sự bất bình đẳng trong kinh tế ở mức nhất định lại là
nhân tố thúc đẩy đổi mới sản xuất và công nghệ, tức là có tác dụng thúc đẩy sự phát triển.
Do những nguyên nhân khách quan của sự vận động và phát triển kinh tế, sự bất bình
đẳng rất có thể lại là bước tất yếu phải qua để đạt tới sự bình đẳng hơn. Hay như ở thực tế
nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản và Nhà nước CHXHCN Việt Nam chấp nhận, tạo điều
kiện cho sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế phi XHCN (kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế tư bản nước ngoài…), mặc dù xét về bản chất, các thành phần kinh tế đó
không phù hợp với bản chất chế độ chính trị XHCN của chúng ta.
Về luận điểm thứ hai: “Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với
kinh tế”. Có được nhận thức đúng “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”, vì thế cơ
bản là có đủ cơ sở để khẳng định “Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so
với kinh tế”.
Về phương diện nhận thức, việc khẳng định sự ưu tiên của chính trị so với kinh tế
là đúng, hợp lý. Bởi vì, ưu tiên cho chính trị là ưu tiên cho những vấn đề căn bản, quyết
định đối với sự phát triển của bản thân kinh tế.
Về phương diện thực tiễn, giành, nắm quyền lực chính trị là điều kiện cần, có ý
nghĩa quyết định để giai cấp cách mạng triển khai xây dựng một chế độ kinh tế – xã hội vì
lợi ích của bản thân và những giai cấp, lực lượng xã hội đồng minh với mình. Hơn thế,
trong thực tế nếu không có một đường lối chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất định
không thể giữ vững được sự thống nhất chính trị của mình và do vậy cũng không thể
hoàn thành được nhiệm vụ kinh tế. Như Lênin đã khẳng định: “không có một lập trường
chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống

trị của mình, và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh
vực sản xuất”(2).
Ưu tiên chính trị còn với nghĩa chính trị là thành quả đạt được, tức là sự vận động
phát triển kinh tế phải tính đến việc bảo vệ và phát triển thành quả chính trị đã đạt được,
phải chịu sự chi phối của thành quả chính trị. Một lực lượng, giai cấp xã hội khi đã nắm
được quyền lực chính trị trong tay, tất yếu phải sử dụng quyền lực đó để điều hành, lái sự
phát triển xã hội nói chung, kinh tế nói riêng theo hướng đem lại lợi ích nhiều nhất, tạo
ưu thế cho chính bản thân giai cấp, nhóm mình. Đồng thời, mọi hành động, chính sách
phát triển kinh tế, xã hội do giai cấp nắm quyền lực chính trị ấy đề xướng và triển
khai, xét đến cùng, đều hướng tới mục tiêu củng cố quyền lực chính trị của họ. Rõ
ràng, ở đây chính trị, nói cụ thể hơn là duy trì, bảo vệ quyền lực chính trị của giai cấp,
lực lượng nắm quyền, luôn là ưu tiên hàng đầu.
Hiểu đúng hai luận điểm nêu trên của V.I.Lênin, sẽ giúp chúng ta, trong lý luận và
thực tiễn, tránh được cả khuynh hướng tuyệt đối hoá chính trị lẫn khuynh hướng tuyệt đối
hoá kinh tế – những sai lầm rất dễ mắc phải trong đổi mới CNXH hiện nay.
Có thể khẳng định, các nhà kinh điển mác xít đều thống nhất rằng, quan hệ biện
chứng giữa kinh tế và chính trị được thể hiện ở chỗ, kinh tế và chính trị là hai mặt thống
nhất biện chứng trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Trong sự tác động qua lại
giữa hai lĩnh vực này của đời sống xã hội thì kinh tế giữ vai trò quy định đối với chính
trị; quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan hệ vật chất quy định quan hệ chính
trị. Vai trò quy định của kinh tế được thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, với tư cách
nền tảng vật chất, cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội, kinh tế sản sinh ra một kết cấu, thể
chế chính trị tương ứng. Thứ hai, xét đến cùng sự biến đổi căn bản trong kinh tế dẫn đến
sự biến đổi căn bản trong chính trị. Với sự biến đổi căn bản của kinh tế, thì trong chính trị
trước sau cũng diễn ra những biến đổi tương ứng. Khi trong kinh tế chưa diễn ra những
thay đổi căn bản thì trong lĩnh vực chính trị cũng khó xảy ra biến động gì đáng kể.
Quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị còn là sự tác động trở lại của chính
trị đối với kinh tế. Chủ nghĩa duy vật mác xít chỉ ra rằng, chính trị nảy sinh trên nền tảng

(2) V.I.Lênin, Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.350.

kinh tế, chịu sự quy định của kinh tế, song nó lại mang tính độc lập tương đối. Chính trị
không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế mà nó tác động trở lại rất mạnh đối với kinh
tế. Trong hệ thống chính trị của xã hội thì nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết
định sự hiện thực hoá các tất yếu kinh tế, vì như Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Bạo lực (nghĩa là
quyền lực nhà nước) cũng là một tiềm lực kinh tế”(3).
Khái quát lại, tác động của chính trị đối với kinh tế được biểu hiện ở hai xu hướng
chủ đạo: nếu sự tác động đó phù hợp với quy luật vận động của kinh tế, yêu cầu của
LLSX, thì thúc đẩy kinh tế phát triển. Nếu tác động không phù hợp với quy luật vận động
của kinh tế, thì sẽ cản trở, kìm hãm sự phát triển kinh tế. Nếu nhận thức đúng và hành
động phù hợp với những quy luật kinh tế, thì chính trị thực hiện được vai trò định hướng
những hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế.
Có thể nói, xã hội càng phát triển, thì vai trò của chủ thể xã hội càng tăng. Trong
điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vai trò
của chính trị trở nên đặc biệt quan trọng, nếu không nói là quyết định.
II. định hướng kinh tế ở nước ta hiện nay
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con
đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách
quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ cấu tập trung quan liêu bao
cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết
hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người,
có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển
quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử

(3) C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.739.

nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn
Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị thanh niên 6 khoá VI (tháng 3-1989) phát triển thêm một bước, đưa ra
quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ
nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có
tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Đến Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6-1991) tiếp tục nói rõ hơn chủ
trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam. Cương lĩnh 1991 của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận
mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành
tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Nhưng lúc đó,
cũng mới nói nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường chưa dùng khái niệm “kinh tế thị
trường”. Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định phát triển kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng
quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều
năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của
Đảng Cộng sản Việt Nam Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa
dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên những nguyên tắc
và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội mà trong đó quá
trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng gắn với thị trường, được thực hiện thông qua thị
trường. Vì vậy kinh tế thị trường không chỉ là công nghệ, là kỹ thuật mà còn là quan hệ xã
hội, nó không chỉ bao hàm yếu tố lực lượng sản xuất mà còn quan hệ sản xuất. Kinh tế thị
trường gồm nhiều hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị.

Vì vậy không có kinh tế thị trường chung chung, thuần tuý, trừu tượng, tách khỏi các
hình thái kinh tế – xã hội, tách rời chế độ xã hội. Trong các chế độ xã hội khác nhau, kinh tế
thị trường mang tính chất xã hội khác nhau, có những hậu quả xã hội khác nhau. Tác động
tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường đến đâu còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vào
đường lối của đảng cầm quyền, vào chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có hai đặc điểm cơ bản: Một là,
đây là nền kinh tế thị trường mới bước đầu hình thành, còn sơ khai, còn ở trình độ thấp, các
loại thị trường chưa hình thành đầy đủ, đồng bộ.
Hai là, kinh tế thị trường mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa, nó khác với kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa, nó do Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước xã hội chủ nghĩa
quản lý.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là tất yếu, bởi vì:
– Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một
đặc điểm bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Không có Đảng Cộng sản lãnh
đạo và Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý thị trường không thể có kinh tế thị trường định
hướng XHCN mà đó sẽ là kinh tế thị trường định hướng tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường vốn có xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Nhờ có Đảng Cộng sản
lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp và sự quản lý của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa bằng chính sách, pháp luật, bằng các công cụ quản lý vĩ mô (tài chính, tín dụng, kế
hoạch, quy hoạch…) sẽ hạn chế tính tự phát tư bản chủ nghĩa, đảm bảo được định hướng
XHCN cho sự phát triển của kinh tế thị trường, thực hiện được sự kết hợp giữa kế hoạch và
thị trường, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Kinh tế thị trường vốn có hai mặt: mặt phải (tích cực) như thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng nhanh, chú trọng lợi ích và hiệu quả kinh tế… và mặt trái (tiêu cực) như thúc đẩy phân
hoá giàu – nghèo, khuyến khích lối sống thực dụng vị kỷ, chạy theo đồng tiền, hạ thấp giá trị
đạo đức…; mặt trái của kinh tế thị trường mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy
được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường.

Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là những lực lượng lãnh đạo và quản lý
xã hội. Những lực lượng này có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế khách
quan, chuyển hoá chúng thành đường lối, chính sách, pháp luật, kế hoạch… để tổ chức thực
hiện, đưa vào cuộc sống, nâng cao đời sống của quần chúng nhân dân đông đảo nhằm thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là những nhân tố cơ bản của hệ thống
chính trị, của kiến trúc thượng tầng chính trị. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản
lý của Nhà nước chính là tăng cường sự tác động của chính trị đối với kinh tế thị trường để thúc
đẩy kinh tế phát triển và giữ vững định hướng XHCN của kinh tế thị trường; ngược lại, sự phát
triển của kinh tế thị trường sẽ buộc Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nhất là đổi mới phương
thức lãnh đạo, còn Nhà nước phải đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, phải cải cách hành
chính cho phù hợp với yêu cầu, quy luật của kinh tế thị trường.
Như vậy, trong công thức do Đảng Cộng sản Việt Nam nêu lên “phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã phản ánh một tư tưởng biện chứng rất quan trọng
của Lênin – tư tưởng về sự tự giác kết hợp giữa mặt đối lập biện chứng: chủ nghĩa xã hội và
kinh tế thị trường, những mặt đối lập tưởng chừng không thể kết hợp được như đất với trời,
như nước với lửa, như người cộng sản với người buôn xỉ. Vấn đề là ở chỗ kết hợp như thế
nào để tạo ra những “âm thanh du dương êm tai” chứ không phải những “điệu nhạc chói tai”
như Lênin đã từng nói một cách hình ảnh. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quyết định trong sự kết hợp đó.
2. Thực chất của đổi mới kinh tế vừa qua ở Việt Nam chính là thừa nhận sự tồn tại
khách quan của quan hệ hàng hoá – tiền tệ và cơ chế thị trường dựa trên tư duy lý luận mới
về quan hệ giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội. Từ đó vai trò của Nhà nước đối với
kinh tế cũng có sự thay đổi căn bản. Đó là quá trình chuyển Nhà nước từ độc quyền sang
quan hệ mới giữa Nhà nước và thị trường (“bàn tay hữu hình” – “bàn tay vô hình”), giữa Nhà
nước và doanh nghiệp, giữa Nhà nước và dân trong hoạt động kinh tế. Nhà nước trước đây là
chủ thể của chế độ sở hữu, bây giờ đang chủ đạo trong hệ thống đa sở hữu; trước đây là trực
tiếp kinh doanh bây giờ sang thiết kế “luật chơi”, hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho sản
xuất, kinh doanh, trước đây là kế hoạch hoá trực tiếp bây giờ sang điều tiết bằng công cụ

kinh tế vĩ mô. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ở Việt Nam, chức năng cơ
bản của Nhà nước về kinh tế bao gồm:
– Định hướng phát triển nền kinh tế thông qua chiến lược, chính sách, kế hoạch, quy
hoạch và các công cụ quản lý vĩ mô.
– Phát triển tất cả các thành phần kinh tế trên cơ sở đa dạng hoá các quan hệ sở hữu,
lấy kinh tế Nhà nước làm chủ đạo; thực hiện chế độ phân phối lợi ích một cách hợp lý thông
qua việc sử dụng các công cụ ngân sách, thuế, tín dụng, tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
– Tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh về kinh tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất, tạo mọi thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động bình đẳng, tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh.
– Thực hiện tốt chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế theo đúng pháp
luật và chính sách. Nghiêm trị các hoạt động buôn lậu, gian lận, trốn thuế, tham nhũng, quan
liêu, sách nhiễu phiền hà…
Sau 18 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường ở nước ta bước đầu được hình thành sự
quản lý nhà nước về kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, kinh tế thị
trường còn sơ khai, sự quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều yếu kém, hiệu lực và hiệu quả
quản lý còn thấp. Hệ thống luật pháp, chính sách chưa đồng bộ và chưa nhất quán, kỷ cương
pháp luật chưa nghiêm. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch, quy hoạch xây dựng,
quản lý đất đai… còn nhiều yếu kém, sơ hở; thủ tục hành chính rườm rà, cải cách hành chính
còn chậm và chưa kiên quyết. Do đó việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà
nước đối với kinh tế thị trường ở Việt Nam là một yêu cầu khách quan, cấp bách. Để thực
hiện yêu cầu này, cần thực hiện một số giải pháp sau đây:
a. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế để tạo ra khuôn khổ pháp lý
cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những khuyết tật
của kinh tế thị trường. Hệ thống pháp luật này là công cụ chủ yếu để Nhà nước quản lý kinh
tế.

Trong thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều luật, pháp lệnh để đáp
ứng yêu cầu đổi mới kinh tế. Tuy nhiên đến nay hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam
còn thiếu và chưa đồng bộ, nhanh bị thay đổi. Vì vậy, cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật kinh tế để thể chế hoá Cương lĩnh, đường lối, các chủ tr ương, chính sách của
Đảng. Cần sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh hiện hành và ban hành các luật mới như luật
cạnh tranh, luật chống độc quyền, luật chứng khoán và thị trường chứng khoán, luật bảo hộ
quyền sở hữu tư nhân… Cần cải tiến công tác làm luật, tăng cường vai trò của Quốc hội, các
uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội chuyên trách trong việc đưa ra và xem xét các
dự án luật.
b. Hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN chủ nghĩa
Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường bao gồm thị trường hàng hoá và dịch
vụ, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường vốn, thị trường chứng
khoán, thị trường bảo hiểm, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản.
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh
tranh và hợp tác để phát triển. Thông qua chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách kết
hợp sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế – xã hội, đảm
bảo cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết phân phối và thu nhập.
Tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước theo quy định của pháp luật, kiên
quyết đấu tranh chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại, tham nhũng, lãng phí…
tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền
kinh doanh. Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng sở hữu tài
sản công của Nhà nước, phân định rõ quản lý hành chính nhà nước với quản lý sản xuất kinh
doanh.
c. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế
Đổi mới công tác kế hoạch hoá tập trung trong nền kinh tế thị trường. Nâng cao
chất lượng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã
hội; tăng cường thông tin kinh tế, công tác kế toán, thống kê.

Giải quyết mối quan hệ giữa thu và chi ngân sách. Bảo đảm tính minh bạch, công
bằng trong chi ngân sách nhà nước. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình
đất nước và cam kết quốc tế. Nâng cao hiệu quả đầu tư vốn và sử dụng vốn, chống lãng
phí thất thoát. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp nhà nước.
d. Đẩy mạnh cải cách hành chính
Trong những năm qua ở Việt Nam đã tiến hành một bước cải cách hành chính, tuy
nhiên như Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: “Cải cách hành chính tiến
hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước cồng kềnh, trùng
lặp chức năng với nhiều tầng nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, không
ít trường hợp trên và dưới, Trung ương và địa phương hành động không thống nhất, gây
khó khăn cho việc phát triển kinh tế – xã hội và làm giảm động lực phát triển”(1).
Vì vậy cấp bách phải đẩy mạnh cải cách hành chính theo chương trình tổng thể cải
cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 do Chính phủ phê duyệt nhằm nâng cao
năng lực quản lý nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Nhiệm vụ chủ yếu của cải cách hành chính bao gồm:
– Cải cách tổ chức bộ máy các cấp từ Trung ương đến địa phương theo hướng tinh
gọn, có hiệu lực, hiệu quả, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm.
– Cải cách công cụ và chế độ công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong
sạch, có năng lực.
– Cải cách thủ tục hành chính theo hướng thống nhất, công khai, minh bạch, đơn
giản, xoá bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà, sách nhiễu cho nhân dân và các doanh
nghiệp.
Việc cải cách hành chính nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước trong
sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả theo hướng xây dựng một Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2001, tr.77.

III. Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò của chính trị trong
hội nhập kinh tế ở nước ta
Để tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế thành công, tức là để quá trình đó đi đúng
theo định hướng của Đảng, Nhà nước ta; để nó có thể phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN, trước mắt là phục vụ cho việc thực hiện
“Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đất nước giai đoạn 2001-2010” và “Kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006-2010″, cần xác định những phương hướng chủ yếu,
triển khai thực hiện một số giải pháp cấp bách để tăng cường, phát huy vai trò của chính
trị đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong những thập niên đầu thế
kỷ XXI.
1. Phương hướng
1.1. Tăng cường lãnh đạo chính trị đảm bảo định hướng XHCN trong quá trình
hội nhập
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với các hoạt động hội nhập kinh
tế là một phương hướng mang tính chiến lược, lâu dài, có ý nghĩa quyết định, đảm bảo
hội nhập đúng hướng và thành công. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam chính là đảm bảo định hướng XHCN trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để củng
cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước đối với các hoạt động hội nhập thì
cần phải coi hội nhập là một trong những lĩnh vực then chốt trong hoạt động của các tổ
chức Đảng, chính quyền ở mọi cấp. Từ đó xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể chỉ
đạo thống nhất từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm sự phối hợp đồng bộ giữa các
bộ, ngành trong việc hoạch định chủ trương, chính sách, biện pháp và thực hiện các mục
tiêu đã đề ra.
Điều quan trọng là phải duy trì được sự ồn định chính trị xã hội trong nước để tập
trung sức cho phát triển kinh tế và hột nhập có hiệu quả. Các cam kết mở cửa chỉ có thể
thực hiện được khi chúng phù hợp với thực tế phát triển trong nước và có đủ các điều
kiện khả thi, đặc biệt là sự tồn tại của một khuôn khổ pháp lý cần thiết và thực sự có hiệu
lực. Giữ vững ấn định chính trị xã hội trong nước tạo điều kiện để các nhà đầu tư nước
ngoài an tâm bỏ vốn vào làm ăn lâu dài ở nước ta, đồng thời cho phép Đảng, Nhà nước

và cơ quan chính quyền các cấp rảnh tay, tập trưng trí tuệ, sức lực để lãnh đạo kinh tế và
các hoạt động hội nhập.
Đảm bảo định hướng XHCN trong hội nhập cũng có nghĩa là quán triệt sâu sắc
và tuân thủ nghiêm ngặt một nguyên tắc chỉ đạo cơ bản là: hội nhập kinh tế quốc tế là sự
nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực
của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Thành phần kinh tế nhà nước là một trong những nhân tố quan trọng nhất đảm bảo
cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta giữ được định hướng XHCN. Quá
trình hình thành và lãnh đạo thực hiện chiến lược đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta
cho thấy, một trong những phương hướng đổi mới cơ bản của Đảng ta về vấn đề quan hệ
sản xuất là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dựa trên chế độ sở hữu đa
dạng, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN. Trong nền kinh tế đa thành phần như vậy, mỗi thành phần kinh tế đều có một vị
trị vai trò nhất định đối với việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, thúc đẩy sự
phát triển của LLSX. Tuy nhiên, khi khẳng định và triển khai xây dựng một nền kinh tế
đa thành phần ở nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước ta không coi mọi thành phần kinh
tế đều có vị trí và vai trò ngang nhau trong nền kinh tế quốc dân. Thừa nhận rằng mỗi
thành phần kinh tế trong nền kinh tế đa thành phần ở nước ta đều có vị trí, vai trò tích cực
nhất định, song Đảng ta khẳng định thành phần kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo,
đầu tàu, đồng thời kinh tế nhà nước kết hợp với kinh tế tập thể phải trở thành nền tảng,
cột trụ của nền kinh tế quốc gia. Đây chính là nhân tố thể hiện tính định hướng XHCN
của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ. Nếu kinh tế nhà nước không đảm bảo được
vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quá độ đa thành phần này thì sẽ ảnh hưởng
không những tới tính chất của nền kinh tế quá độ lên CNXH mà còn tạo ra nguy cơ đi
chệch hướng, không thực hiện được mục tiêu chiến lược là đi lên CNXH. Bởi vì, nền
tảng kinh tế của CNXH, sức mạnh kinh tế của CNXH chích là kinh tế nhà nước kết hợp
với kinh tế tập thể. Do vậy, việc duy trì vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ hiện nay không chỉ đảm bảo đi đúng
hướng mà còn dần thiết lập, củng cố sức mạnh kinh tế của chế độ xã hội mới – xã hội

XHCN. Tương tự như vậy, phát huy vai trò đầu tàu, chủ đạo của kinh tế nhà nước kết
hợp với kinh tế tập thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của nước ta là
nhân tố quan trọng nhất đảm bảo định hướng XHCN của quá trình hội nhập.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần giữ vững nguyên tắc: hợp tác, hội nhập phải đảm
bảo lợi ích dân tộc chân chính, lợi ích của CNXH. Trong hội nhập, một mặt chúng ta chủ
động hợp tác với các nước trên thế giới nhằm khai thác tối đa các lợi thế, song mặt khác,
không ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đối phó với những tình huống xấu,
ảnh hưởng tiêu cực tới ổn định chính trị và sự vững chắc của chế độ XHCN. Bởi lẽ,
chúng ta thừa hiểu ràng, các thế lực thù địch không khi nào chịu từ bỏ âm mưu tiêu diệt
CNXH.
Tổ chức Đảng các cấp, từ Trung ương tới địa phương cần thường xuyên quan
tâm chỉ đạo công tác hội nhập kinh tế quốc tế, định hướng để các hoạt động hội nhập vì
lợi ích dân tộc, phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Chính phủ cần xây dựng chiến lược, lộ trình cụ thể về hội nhập kinh tế quốc tế và
tổ chức bộ máy hữu hiệu để triển khai hoạt động hội nhập. Quốc hội có chương trình xây
dựng và điều chỉnh luật pháp vừa bảo đảm định hướng XHCN của ta vừa phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các địa phương, các doanh
nghiệp có chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện các nghị quyết của Đảng, tạo thành
sức mạnh tổng hợp bảo đảm thực hiện nghiêm túc những nguyên tắc mục tiêu hội nhập
kinh tế quốc tế.
Tăng cường.g sự gắn kết, phối hợp đồng bộ giữa các bộ, các ngành, các địa
phương, gắt kết các ban của Đảng với các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể quần chúng,
dưới sự Lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ về các hoạt động hội
nhập kinh tế quốc tế. Trong triển khai thực hiện mục tiêu, nguyên tắc hội nhập thì sự lãnh
đạo của Đảng và tổ chức thực hiện của Chính phủ có ý nghĩa quyết định, sự phối hợp
đồng bộ giữa các ngành các cấp đóng vai trò then chốt. Sự tham gia của các cơ quan
Quốc hội, các ban của Đảng sẽ góp phần tăng cường sự chỉ đạo, giám sát việc hội nhập ở
tầm vĩ mô.

Sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng sẽ bảo đảm cho hội nhập
kinh tế quốc tế được quán triệt sâu rộng trong các tầng lớp xã hội, giúp cho dư luận xã
hội nhận thức rõ hơn thời cơ, cũng như thách thức trong hội nhập kinh tế. Từ đó hiểu
đúng để hành động đúng, không mất cảnh giác trước âm mưu (diễn biến hoà bình”, “bạo
loạn lật đổ” của các thế lực thù địch, vững vàng đi vào hội nhập kinh tế quốc tế. tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc, phân
biệt đúng bạn – thù, đối tác thực giả.
1.2. Tiếp tục đổi mới tư duy chính trị phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế
Như trên đã phân tích, những thành công và tồn tại, cũng như những vấn đề đã
và đang nảy sinh liên quan đến vai trò của chính trị trong quá trình triển khai hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta đều gắn với tư duy, nhận thức của Đảng, Nhà nước, các cấp
chính quyền, các doanh nghiệp và toàn thể xã hội. Do vậy, một trong những phương
hướng chủ yếu nhằm phát huy vai trò của chính trị trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước
ta là phải tiếp tục đổi mới tư duy chính trị cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Cụ thể là cần nhận thức đúng, chính xác yêu cầu khách quan về hội nhập, thấy
rõ cơ hội và thách thức. Phải làm cho toàn Đảng, toàn dân ý thức rõ rằng, hội nhập kinh
tế quốc tế của chúng ta là một yêu cầu tất yếu khách quan, phù hợp với sự phát triển của
thời đại ngày càng có xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá mạnh mẽ. Đồng thời, trong
điều kiện của nước ta, hội nhập quốc tế không chỉ là quá trình diễn ra dưới sức ép của xu
hướng tất yếu của thời đại, mà điều quan trọng hơn, đây còn là một quá trình mang tính
chủ động, đáp ứng lợi ích nhu cầu phát triển nội tại của đất nước chúng ta. Sự chủ động
này xuất phát không chỉ từ việc thừa nhận lợi ích to lớn do hội nhập đem lại, mà còn từ ý
thức về những thách thức gay gắt phát sinh do hội nhập. Chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế là chủ trương rất đúng đắn, kịp thời của Đảng, Nhà nước ta. Nước ta không thể CNH –
HĐH, không thể thoát cảnh nghèo nàn lạc hậu nếu đứng ngoài, biệt lập với thế giới. Đi
lên CNXH càng không thể đóng cửa mà đi lên. Nếu không có LLSX phát triển mà nói
CNXH thì hoàn toàn là ảo tưởng. Nhưng trong thế giới ngày nay, LLSX hiện đại lấy đâu
ra nếu không phải từ thế giới, thông qua hội nhập quốc tế trao đổi, buôn bán, thu hút đầu

tư nước ngoài, thông qua đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng
hoá, biết lợi dụng khôn khéo những mâu thuẫn giữa các nước.
Cùng với ý thức về tính tất yếu khách quan phải hội nhập kinh tế quốc tế, chúng
ta cũng cần nhận thức đầy đủ những thời cơ và nguy cơ, thách thức sẽ nảy sinh trong quá
trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, từ đó có chính sách, hành động thích
hợp kịp thời phát huy lợi thế tận dụng thời cơ, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ thách thức.
Về cơ hội và thuận lợi: Không phải chúng ta tiến hành hội nhập với hai bàn tay
trắng, mà đất nước ta có tiềm năng to lớn cả về tài nguyên thiên nhiên lẫn vốn con người
để đi vào hội nhập với một vị thế xứng đáng. Những lợi thế gồm có: tài nguyên thiên
nhiên phong phú, chưa khai thác đáng kể; vị trí địa – chính trị quan trọng, nước ta vừa
nằm trong một khu vực phát triển năng động nhất của thế giới hiện nay, vừa là điểm giao
cắt của những tuyến đường hàng hải quan trọng ở châu á – Thái Bình Dương, vì vậy đây
là một yếu tố chiến lược quan trọng đối với hoạt động kinh tế, giao lưu, trao đổi buôn bán
của khu vực và thế giới; lực lượng lao động của nước ta trẻ, cần cù, chịu khó, khéo léo;
nước ta là một thị trường tiêu thụ tiềm tàng với gần 80 triệu dân có sức mua ngày càng
tăng. Đó là những yếu tố nội lực quyết định, những lợi thế rất lớn trong phân công lao
động quốc tế hiện nay. Thêm vào đó, với chính sách đối ngoại đổi mới, rộng mở, đa dạng
hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, chúng ta đã tạo dựng được một sự tuỳ thuộc lẫn
nhau đáng kể với nền kinh tế thế giới và khu vực về thị trường nông sản và thị trường
năng lượng.
Chúng ta bước vào hội nhập khi đã và đang thực hiện thành công quá trình đổi
mới. Hai quá trình này gắn bó, bổ trợ cho nhau, bởi vì những cam kết quốc tế về hội nhập
kinh tế không trái với những chủ trương đổi mới của ta, ngược lại phần nào có tác dụng
xúc tác, thúc đẩy quá trình đổi mới. Thực hiện thành công đổi mới là tạo điều kiện cho ta
hội nhập hiệu quả nhất. Nhịp độ phát triển kinh tế tương đối cao và sự ổn định về chính
trị mà nước ta duy trì được trong hơn 5 năm đổi mới vừa qua đã tạo thế và đà cho Việt
Nam hội nhập. Đặc biệt, những thành tựu chúng ta đạt được trong quá trình xây dựng
một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định

hướng XHCN với một số thể chế cơ bản của kinh tế thị trường đã được hình thành và
phát triển là tiền đề cần thiết để chúng ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới tạo điều kiện cho ta tranh thủ
ngoại lực, khai thác nhiều loại tiềm năng thông qua hợp tác đa dạng với thế giới nhằm
phát huy những lợi thế của ta, thu hút đầu tư nước ngoài, tranh thủ những công nghệ hiện
đại, kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh tiên tiến của thế giới để đầy mạnh CNH –
HĐH, để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện để bảo đảm an ninh quốc gia. An
ninh kinh tế có ý nghĩa quyết định, đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ an ninh chủ
quyền quốc gia và độc lặp dân tộc. Kinh tế vững mạnh là tiền đề vật chết hàng đầu cần có
cho ổn định chính trị trong nước. Kinh tế phát triển, tăng thu nhập ngân sách, tăng của
cải vật chất, tăng GDP của đất nước thì Chính phủ mới có tiền để mua sắm vũ khí hiện
đại tiên tiến, mới có điều kiện để chăm lo, nâng cao, cải thiện đời sống vật chất cho tất
cả cán bộ, chiến sĩ, sĩ quan quân đội. Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho ngày càng nhiều
nước gắn bó lợi ích kinh tế với chúng ta. Các nhà đầu tư nước ngoài càng đầu tư nhiều
vào làm ăn ở ta, thì lợi ích kinh tế vật chất của họ trên lãnh thổ ta càng lớn, do vậy họ sẽ
không muốn đất nước ta rối loạn, mất ấn định, nhất là xảy ra chiến tranh. Do vậy, ở mức
độ nhất định hội nhập kinh tế quốc tế tạo tiền đề vật chất và tinh thần thuận lợi để chúng
ta duy trì được ổn định chính trị trong nước, tăng cường tiềm năng bảo vệ an ninh quốc
gia, chủ quyền dân tộc.
Về khó khăn và thách thức: Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khó khăn
lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt là trình độ phát triển kinh tế còn thấp, khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp, các ngành sản xuất, các sản phẩm và dịch vụ còn yếu. Thực
tế hội nhập thời gian qua cho thấy, khả năng cạnh tranh là yếu tố đóng vai trò quyết định
tới sự thành bại của hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay, khả năng cạnh
tranh phải được nhìn nhận từ ba góc đd có liên quan mật thiết với nhau: khả năng cạnh
tranh của từng mặt hàng và loại hình dịch vụ, của từng doanh nghiệp và của cả quốc gia.
Xét trên cả ba phương diện này thì chúng ta đều còn yếu so với phần lớn các đổi tác.
Chúng ta đang phải giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu nhanh chóng hội nhập quốc tế để

tranh thủ các điều kiện thu lợi cho phát triển kinh tế với nhu cầu có đủ thời gian xây dựng
một nền kinh tế có sức cạnh tranh để hội nhập có hiệu quả.
Chúng ta bước vào hội nhập sau rất nhiều nước trong khu vực tà trên thế giới.
Thời điềm ta xúc tiến các bước tiếp theo của quá trình hội nhập cũng là lúc khu vực Đông
Nam á rơi vào một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trầm trọng, nó càng làm nổi lên
mặt trái, những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá. Do vậy, nếu không có bản lĩnh, không
có quyết tâm cao, không có tầm nhìn chiến lược, thì chúng ta dễ nản lòng, tự khép mình
lại để tự vệ.
Các cơ chế của một nền kinh tế thị trường ở nước ta mới đang trong giai đoạn
hình thành. Hệ thống pháp luật của ta vừa thừa lại vừa thiếu, chưa đồng bộ, còn không ít
sơ hở. Ta đặc biệt thiếu các luật liên quan đến kinh tế đối ngoại hiện đại. Không ít những
luật đang có thì hoặc là quá giản đơn, hoặc là không phù hợp với thông lệ quốc tế.
Một khó khăn lớn nữa là sự hiểu biết của chúng ta về các đối tác, cũng như về
các thể chế kinh tế, thương mại quốc tế mà chúng ta đã hoặc đang xúc tiến đàm phán để
tham gia còn rất hạn hẹp. Đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia hoạt động hội nhập kinh tế
quốc tế của ta còn yếu cả về khả năng chuyên môn, kỹ năng hoạt động đa phương lẫn
trình độ ngoại ngữ. Hiểu biết thị trường thế giới, luật pháp thương mại quốc tế của cán bộ
ta còn rất hạn chế. Có thể nói thẳng rằng, đội ngũ cán bộ của ta hoạt động trong lĩnh vực
này vừa thiếu về số lượng lại vừa yếu về chất lượng.
Các ngành, các cấp, các địa phương, các doanh nghiệp chưa sẵn sàng bước vào
hội nhập. Tình trạng này được thể hiện khá rõ ở thái độ trông chờ sự trợ giúp của Nhà
nước, ở tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp, ở những đề nghị Chính phủ kéo dài sự bảo hộ
đối với hàng hoá sản xuất trong nước…
Rõ ràng là tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta vừa có những thuận lợi,
thời cơ to lớn vừa phải đối mặt với những thách thức, khó khăn không nhỏ. Cần ý thức
sâu sắc rằng, đó là điều không tránh khỏi, một thực tế khách quan. Kinh nghiệm hội nhập
kinh tế của tất cả các nước, kể cả các nước phát triển, cho thấy trong lĩnh vực kinh tế, hội
nhập không phải chỉ toàn “được” mà không có “thiệt”, không có sự trả giá. Vì vậy, chúng
ta cần nhìn nhận một cách biện chứng đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể,

trong hội nhập kinh lễ quốc tế hiện nay, thì hợp tác luôn đi liền với đấu tranh, liên kết đi
liền với cạnh tranh, mục đích của các chủ thề hội nhập là làm thế nào để giành “cái được”
tối đa và hạn chế “cái thiệt” đến mức tối thiểu ở đây, đánh giá được hay thiệt cũng cần c
cái nhìn toàn diện đối với toàn bộ nền kinh tế, không nên chỉ hạn chế trong đánh giá cái
được của từng ngành, từng lĩnh vực riêng lẻ. Điều quan trọng là về tổng thể thì cái được
phải nhiều hơn cái thua thiệt.
Đổi mới tư duy chính trị trong quá trình triển khai hội nhập kinh tế quốc tế còn
bao hàm một phương diện quan trọng nữa là đổi mới quan niệm về an ninh quốc gia, độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia cho phù hợp với tình hình mới của thế giới. Nếu quan
niệm chủ quyền một cách tuyệt đối như là “muốn làm gì thì làm” hoặc “không chịu bết
kỳ ảnh hưởng nào từ bên ngoài” thì rõ ràng không thể phủ nhận được là hội nhập kinh tế
quốc tế gây phương hại tới quyền tuyệt đối đó. Bởi vì, khi tham gia vào quá trình này,
các chính phủ từng nước phải chấp nhận giới hạn quyền lực riêng của mình trên một số
lĩnh vực thông qua việc tuân thủ những luật chơi chung và chịu tác động của tình trạng
tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nước (điều này có nghĩa là việc quyết sách và
hành vi ứng xử của các nước trong một số lĩnh vực không còn độc lập theo nghĩa tuyệt
đối được nữa). Tuy nhiên, nếu dựa trên quan niệm chủ quyền một cách linh hoạt hơn
trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, thì có thể lập luận rằng với sự
chủ động hội nhập, các chính phủ không hề từ bỏ hoặc giảm bớt quyền lực nhà nước của
mình, thậm chí về một số mặt quyền lực này, nhất là khả năng thực thi quyền lực, còn
được củng cố và mở rộng hơn, nhờ có sự hợp tác quốc tế và kết quả của “quá trình học
hỏi”. Thực tế phát triển của xã hội loài người và các quốc gia cho thấy, quyền lực nhà
nước vẫn đang ngày một tăng mở rộng thêm ra nhiều lĩnh vực. Điều này đặc biệt thể hiện
rõ ở hoạt động lập pháp của nhà nước.
Cần đổi mới quan niệm về an ninh quốc gia. Quan niệm truyền thống về an ninh
quốc gia (chủ yếu nói đến an ninh quân sự) thường bị phê phán là phiến diện và không
còn phù hợp với sự phát triển mới của tình hình quốc tế hiện nay. Giờ đây, xu hướng
chung cho rằng cần có một quan niệm tổng thể về an ninh quốc gia. Tức là, cần hiểu an
ninh quốc gia như là một tổ hợp bao gồm an ninh quân sự, an ninh chính trị, an ninh kinh

tế, an ninh xã hội, an ninh môi trường, an ninh con người. Trong đó, an ninh quân sự liên
quan đến cảm nhận về sự tồn tại của các mối đe doạ, tấn công, xâm lược của các lực
lượng quân sự đối địch làm tổn hại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của quốc gia và khả năng của quốc gia có thể đối phó với các hiểm hoạ đó. An ninh chính
trị liên quan tới sự ổn định chính trị, sự tồn tại của các thiết chế chính trị, hệ thống nhà
nước và ý thức hệ là nền tảng ru tưởng của quốc gia. An ninh kinh tế !an quan đến khả
nàng tiếp cận các nguồn lực, tài chính, thị trường cần thiết bảo đảm cho sự phát triển bền
vững của nền kinh tế, phúc lợi của nhà nước và sức mạnh của nhà nước, bảo đảm có thể
ngán ngừa và đối phó hiệu quả với những biến động của môi trường trong nước và quốc
tế, góp cần đắc lực giữ vững ổn định, an ninh chính trị xã hội và tăng cường khả năng
quốc phòng. An ninh kinh tế bao hàm cả an ninh lương thực, an ninh tài chính. An ninh
xã hội gắn với sự duy trì và bảo vệ hợp lý và phù hợp với tiến trình phát triển các giá trị
cơ bản của cộng đồng các dân tộc trong môi quốc gia như ngôn ngữ, tôn giáo, truyền
thống văn hoá, bản sắc dân tộc, phong tục tập quán. An ninh môi trường liên quan đến
việc duy trì và bảo vệ hệ thống sinh thái, môi trường, bảo đảm cho con người có thề sống
yên ổn và hoạt động bình thường. An ninh con người liên quan đến sự bảo vệ các quyền
của con người chống lại những vi phạm từ phía nhà nước hay xã hội.
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, khi mà các quốc gia dân tộc ngày càng tuỳ
thuộc lẫn nhau nhiều hơn, khi mà hệ thống quan hệ quốc tế trở nên đa dạng, phức tạp,
biến động nhanh chóng không ngừng, thì an ninh của từng quốc gia thành viên luôn gắn
với an ninh của khu vực và an ninh toàn cầu. Do vậy, nếu khu vực mất ổn định, thì quốc
gia nằm trong khu vực ấy cũng không thể yên ổn được. Giờ đây, an ninh ổn định của
từng quốc gia và của khu vực cũng như cả thế giới vừa là điều kiện vừa là kết quả của
nhau.
2. Một số giải pháp cơ bản
2.1. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ làm cơ sở cho sự chủ động hội nhập
quốc tế
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối
chính trì của một quốc gia, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn phát triển. Có giữ được độc

lập tự chủ, mới duy trì được phát triển bền vững và có hiệu quả cho chính ngay nền kinh
tế trong mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế Và để đảm bảo độc lập tự chủ về chính trị, thì
phải xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ. Đây là bài học kinh nghiệm thực tế không
chỉ của riêng nước ta mà còn của không ít quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Hơn
thế, giờ đây nước ta phát triển kinh tế để đi lên CNXH trong bối cảnh quốc tế có nhiều
diễn biến phức tạp, các lực lượng chống phá CNXH thường xuyên tìm cách ngăn cản và
phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Nếu không tạo dựng được một nền kinh
tế độc lập tự chủ, thì rất dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế
để lôi kéo, hoặc khống chế, ép buộc chúng ta phải thay đổi chế độ chính trị. đi chệch quỹ
đạo của CNXH. Nói cách khác, có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo
được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất – kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập
tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất để bảo đảm cho sự độc lập tự chủ bền vững về
chính trị. Không thể có độc lập tự chủ về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Độc lập tự
chủ về kinh tế là cơ sở cho độc lập tự chủ về các mặt khác, làm nền tảng phát huy sức
mạnh tổng hợp của một quốc gia.
Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm vững chắc định
hướng XHCN và giữ vững những giá trị truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc trong
công cuộc phát triển kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Không
phải chờ đến khi đạt trình độ phát triển cao mới đặt vấn đề giữ vững độc lập tự chủ, mà
ngay từ đầu, ngay bây giờ đã phải bảo đảm yêu cầu cơ bản về độc lập tự chủ. trước hết là
về đường lối chính trị, các nguyên tắc cơ bản về phát triển kinh tế. Đương nhiên, xây
dựng kinh tế độc lập tự chủ là một quá trình lâu dài. đi từ thấp đến cao, ngày càng hoàn
chỉnh, ngày càng bền vững hơn.
2.2. Đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng và đổi mới hệ
thống luật kinh tế phù hợp mới luật kinh tế thương mại quốc tế
Công cuộc đổi mới, cải cách bộ máy hành chính cần tập trung vào các việc chủ
yếu sau:
Phân biệt rõ ràng chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với kinh tế với
chức năng quản lý sản xuất kinh doanh.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *