TRƯỜNG……………..
KHOA……………
…………..o0o…………..
TIỂU LUẬN
Lợi nhuận trong nền kinh
tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1
MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề
2
B. Nội dung
3
I. Một số vấn đề lý luận vê
3
1. Bản chất và các hình thức của lợi nhuận
4
2. Các quan điểm tư sản về lợi nhuận
11
II. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường đinh hướng
xã hội chủ nghĩa Việt nam
14
1. Những tác động tích cực trong nền kinh tế
14
2. Giá trị thặng dư siêu ngạch – một trong những nguồn gốc sự
giàu có của các quốc gia trong điều kiện hiện đại
19
3.Vấn đề lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt
nam
22
III. Giá trị lý luận và thực tiễn của học thuyết lợi nhuận
28
1. ý nghĩa của học thuyết lợi nhuận – lịch sử và hiện tại
28
1. ý nghĩa của học thuyết lợi nhuận – lịch sử và hiện tại
19
2. ý nghĩa của lợi nhuận trong quá trình đi lên CNXH ở Việt Nam
30
3. Hậu quả của việc theo đuổi lợi nhuận
33
C. Kết luận
35
2
A: Đặt vấn đề
Mac đã cống hiến cả cuộc đời của mình vào một xã hội tốt đẹp, một xã hội
công bằng văn minh đó chính là CNXH. Ông đã để lại cho nhân loại rất
nhiều tác phẩm. Hai phát kiến vĩ đại nhất của Mác là học thuyết giá trị
thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hai phát kiến này đã làm thay đổi
nhận thức của toàn nhân loại. Với hai phát kiến này, Mac đã biến chủ nghĩa
xã hội không tưởng thành CNXH khoa học. Cho tới nay gần hai thế kỷ đã
trải qua nhưng hai phát kiến vĩ đại này vẫn giữ nguyên giá trị của nó.
Đối với nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì vấn đề nhận thức
và vận dụng các học thuyết của Mac – Đặc biệt là học thuyết GTTD, để làm
kim chỉ nam cho các hoạt động để đi đến đích cuối cùng là một vấn đề cực
kỳ quan trọng. Xuất phát từ nhận thức trên với nền kinh tế nước ta đang
chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì
không ai khác, không quốc gia nào khác mà tự tìm ra đường lối phát triển
kinh tế phù hợp với điều kiện tình hình hiện nay. Yêu cầu đặt ra là chúng ta
phải hiểu rõ nguồn gốc, bản chất của các yếu tố bên trong của nền kinh tế
đặc biệt là những yếu tố chính thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị
trường. Một trong những yếu tố chính là lợi nhuận. Vậy thế nào là lợi
nhuận? nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò
như thế nào trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường… Đây cũng chính
là những vấn đề cấp thiết, tất yếu đòi hỏi phải có lời giải đáp nhanh chóng,
chính xác phù hợp với tình hình để đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện
nay. Và đây cũng chính là lý do vì sao em chọn đề tài này.
Nội dung chính của đề tài bao gồm 3 phần:
3
I: Một số vần đề lý luận về lợi nhuận.
II: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
III: Giá trị lý luận và thực tiễn của học thuyết lợi nhuận.
Đây là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn. Quá trình nghiên cứu nó đòi
hỏi phải xuất phát từ các quan điểm của các nhà kinh tế học trước Mác kết
hợp với quan điểm của Mác và với thực tiễn. Với những hiểu biết còn
nhiều hạn chế và thời gian có hạn nên trong bài viết còn nhiều vấn đề chưa
chính xác nhiều vấn đề còn thiếu tính thời sự, em mong được sự chỉ bảo
sửa chữa cho thấy. Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Tiến Long đã
tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em hoàn thành bài đề án này.
4
B: NỘI DUNG
I. một số vấn đề lý luận về lợi nhuận
1. Bản chất và các hình thức của lợi nhuận
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lợi nhuận
C.Mác (1818 – 1883) và F. Ănghen (1820 – 1895) là hai nhà tư tưởng vĩ đại
đã có công sáng lập ra chủ nghĩa Mác, vũ khí tư tưởng sắc bén của giai cấp
công nhân trên toàn thế giới. Hai ông đã viết rất nhiều tác phẩm phân tích
nền kinh tế TBCN, chỉ rõ những đặc điểm, những qui luật kinh tế, những
xu hướng vận động, những ưu thế và hạn chế của nó, mà trong đó nổi tiếng
nhất là bộ tư bản “tác phẩm kinh tế chính trị học nổi tiếng nhất của thế kỷ
chúng ta ” theo như Lênin đã viết. Trong bộ tư bản này Mác đã nêu lên một
trong những phát kiến vĩ đại nhất của ông đó là học thuyết về giá trị thặng
dư và chỉ ra rằng nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận chính là xuất phát từ
giá trị thặng dư. Do vậy, muốn làm rõ được nguồn gốc, bản chất và vai trò
của lợi nhuận chúng ta phải đi từ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, quy
luật kinh tế cơ bản của CNTB.
1.1.1. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giá
trị sử dụng không phải là mục đích, bởi vì nhà tư bản muốn sản xuất ra một
giá trị sử dụng mang giá trị trao đổi. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra
mặt hàng hoá có giá trị lớn hơn tổng số giá trị những tư liệu sản xuất và giá
trị sức lao động mà nhà tư bản đã mua để sản xuất ra hàng hoá đó, nghĩa là
muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau về sản xuất sợi.
5
Tư bản ứng trước
Giá trị của sản phẩm mới (20kgsợi)
– Tiền mua bông : 20$
– Giá trị của bông chuyển vào sợi 20$
– Hao mòn máy móc 4$
– Giá trị của máy móc chuyển vào sợi 4$
– Tiền mua sức lao động của công
nhân trong 1 ngày: 3$
– Giá trị do lao động của người công nhân
tạo ra trong 12 giờ :0,5 x 12 = 6$
27$
30$
Như vậy toàn bộ chính phủ của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức
lao động là 27 đôla. Trong 12 h lao động, công nhân tạo ra 1 sản phẩm mới
(20kg sợi) có giá trị bằng 30đôla, lớn hơn giá trị ứng trước là 3 đôla. Vậy
27 đôla ứng trước đã chuyển hoá thành 30 đôla, đã đem lại một giá trị
thặng dư là 3 đôla. Do đó tiền đã biến thành tư bản. Phần giá trị mới dôi ra
so với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư.
Vậy giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
1.1.2. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
a). Chi phí sản xuất TBCN.
Như mọi người đều biết, muốn tạo ra giá trị hàng hoá thì tất yếu phải chi
phí một số lao động nhất định là lao động quá khứ và lao động hiện đại.
Lao động quá khứ tức là giá trị tư liệu sản xuất C
Lao động hiện tại là lao động tạo ra giá trị mới V + m
Đứng trên quan điểm xã hội thì chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá là
C + V + m. Trên thực tế, nhà tư bản chỉ ứng ra một số tư bản để mua tư liệu
sản xuất (C) và mua sức lao động (V). Do đó, nhà tư bản chỉ xem hao phí
bao nhiêu tư bản chứ không xem hao phí bao nhiêu lao động xã hội. C.Mác
gọi chi phí đó là chi phí sản xuất TBCN, và ký hiệu bằng K (K = C + V).
6
Khi đó công thức giá trị hàng hoá (C + V + m) chuyển thành k + m
b). Lợi nhuận.
Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất TBCN luôn có một khoảng chênh
lệch, cho nên sau khi bán hàng hoá, nhà tư bản không những bù đắp được
lượng tư bản đã ứng ra, mà còn thu được số tiền lời ngang với m. Số tiền
này được gọi là lợi nhuận.
Vậy, giá trị thặng được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là
con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hoá là lợi
nhuận và ký hiệu là P.
Khi đó giá trị hàng hoá (k + m) sẽ chuyển dịch thành k + p.
Vấn đề đặt ra là P và m có gì khác nhau?
Về mặt lượng: nếu hàng hoá bán đúng giá trị thì m = P; m và P giống nhau
ở chỗ chúng đều có chung nguồn gốc là kết quả lao động không công của
công nhân làm thuê.
Về mặt chất: m phản ánh nguồn gốc sinh ra từ V, còn P được xem như toàn
bộ tư bản ứng trước đề ra. Do đó P đã che dấu quan hệ bóc lột TBCN, che
dấu nguồn gốc thực sự của nó.
c). Tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ suất tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và
toàn bộ tư bản ứng trước, ký hiệu là P’
P’ = Error! . 100% = Error!. 100%.
Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì
có lợi hơn. P’ cao hay thấp là tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan như:
tỷ suất giá trị thặng dư, sự tiết kiệm tư bản bất biến; cấu tạo hữu cơ của tư
bản; tốc độ chu chuyển tư bản.
1.1.3. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
7
a). Cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu
thụ hàng hoá đó có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Biện pháp cạnh tranh: Các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng
cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao năng suất lao động nhằm làm cho
giá trị cá biệt của hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để
thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành nên giá trị xã hội
của từng loại hàng hoá.
b). Cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh
trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi
hơn.
Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành
khác, tức là tự phân phối tư bản (V và C) vào các ngành sản xuất khác
nhau.
Kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành dần tỷ suất lợi nhuận bình
quân và giá trị hàng hoá chuyển thành giá trị sản xuất.
Như chúng ta đều biết, do các xí nghiệp trong nội bộ từng ngành, cũng như
giữa các ngành có cấu tạo hữu cơ của tư bản không giống nhau, cho nên để
thu được nhiều lợi nhuận thì các nhà tư bản phải chọn những ngành nào có
tỷ suất lợi nhuận cao để đầu tư vốn.
Xét 3 ngành sản xuất sau:
Ngành sản xuất
Chi phí sản xuất
Giá trị thặng dư P'(%)
8
với m’ = 100%
Cơ khí
80C + 20V
20
20
Dệt
70C + 30V
30
30
Da
60C + 40V
40
40
Như vậy, cùng một lượng tư bản đầu tư, nhưng do cấu tạo hữu cơ khác
nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Do đó nhà tư bản ở ngành cơ khí sẽ
chuyển tư bản của mình sang ngành da, làm cho sản phẩm ở ngành da
nhiều lên làm cho cung lớn hơn cầu, do đó giá cả của ngành da sẽ thấp hơn
giá trị của nó, và tỷ suất ngành da sẽ hạ thấp xuống. Ngược lại, sản phẩm
của ngành cơ khí sẽ giảm đi, nên giá cả sẽ cao hơn giá trị, và do đó tỷ suất
lợi nhuận ở ngành cơ khí sẽ tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành
này sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các
ngành. Kết quả hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị
thặng dư trong xã hội và tổng tư bản xã hội đầu tư vào tất cả các lĩnh vực,
các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu là ⎯P
⎯P = Error! . 100%
Quá trình bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỷ
suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của quy luật tỷ
suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của quy luật
giá trị thặng dư trong thời kỳ tự do cạnh tranh của CNTB.
1.2. Các hình thức của lợi nhuận.
1.2.1. Lợi nhuận thương nghiệp.
9
Đối với tư bản thương nghiệp trước CNTB thì lợi nhuận thương nghiệp
được coi là do mua rẻ, bán đắt mà là kết quả của việc ăn cắp lừa đảo, mà
đại bộ phận lợi nhuận thương nghiệp chính là do những việc ăn cắp và lừa
đảo mà ra cả.
Đối với thương nghiệp TBCN thì lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá
trị thặng dự được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công
nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp.
Lợi nhuận thương nghiệp được hình thành do sự chênh lệch giữa giá bán và
giá mua hàng hoá nhưng điều đó không có nghĩa là nhà tư bản thương
nghiệp bán hàng hoá cao hơn giá trị của nó, mà là nhà tư bản thương
nghiệp mua hàng hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì anh ta bán đúng giá trị
của nó.
1.2.2. Lợi tức cho vay.
Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân, mà nhà tư bản đi vay trả cho nhà
tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà
tư bản đi vay sử dụng.
Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo
ra trong lĩnh vực sản xuất.
1.2.3. Lợi nhuận ngân hàng.
Ngân hàng TBCN là tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới giữa
người đi vay và người cho vay. Ngân hàng có hai nghiệp vụ: nhận gửi và
cho vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người gửi
tiền vào, còn trong nghiệp vụ cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi
vay. Lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay.
10
Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ đi những khoản chi
phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với các khoản thu nhập khác về
kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng. Lợi nhuận ngân
hàng ngang bằng với lợi nhuận bình quân.
1.2.4. Địa tô.
Chúng ta đều thấy rằng, cũng như các nhà tư bản kinh doanh trong công
nghiệp, nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi
nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nông nghiệp thì họ phải
thuê ruộng đất của địa chủ. Vì vậy ngoài lợi nhuận bình quân ra, nhà tư
bản phải thu thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận
bình quân đó, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương
đối ổn định và lâu dài và họ phải trả cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô
TBCN.
Vậy địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi
phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
Có hai loại địa tô là địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối.
+ Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận thừa ra ngoài lợi nhuận bình quân,
thu được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số
chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung được quy định trên ruộng đất xấu
nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất hạng trung bình và tốt. Thực
của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch, đó là một phần giá trị thặng
do do công nhân nông nghiệp tạo ra.
Có hai loại địa tô chênh lệch.
Địa tô chênh lệch I, là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có độ mầu
mỡ tự nhiên thuận lợi, có vị trí gần nơi tiêu thụ hay gần đường giao thông.
Địa tô chênh lệch II, là địa tô thu được nhờ thâm canh mà có.
11
+ Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân,
được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn
trong công nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông sản và giá cả sản
xuất chung.
2. Các quan điểm tư sản về lợi nhuận.
2.1. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương ra đời trong điều kiện lịch sử là thời kỳ tan rã của
chế độ phong kiến và thời kỳ tích luỹ nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản
(CNTB), khi kinh tế hàng hoá và ngoại thương đang trên đà phát triển. Mặc
dù thời kỳ này chưa biết đến các qui luật kinh tế và còn nhiều hạn chế về
tính quy luật nhưng hệ thống quan điểm học thuyết kinh tế trọng thương đã
tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lý luận kinh tế thị trường sau
này phát triển.
Những người theo chủ nghĩa trọng thương rất coi trọng thương nghiệp và
cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông mua bán trao đổi sinh ra. Nó là
kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có. Theo họ không
một người nào thu được lợi nhuận mà không làm thiệt hại kẻ khác, dân tộc
này làm giàu trên sự hy sinh lợi ích của dân tộc khác, trong trao đổi phải có
một bên lợi một bên thiệt.
Những người theo chủ nghĩa trọng thương coi đồng tiền là đại biểu duy
nhất của của cải, là tiêu chuẩn để đánh giá mọi hình thức của nghề nghiệp.
Họ cho rằng khối lượng tiền đề chỉ có thể tăng bằng con đường ngoại
thương thông qua chính sách xuất siêu (xuất nhiều, nhập ít) điều này được
thể hiện qua câu nói của Montchritan: “Nội thương là ống dẫn, ngoại
thương là máy bơm, muốn tăng của cải phải có ngoại thương nhập dần của
cải qua nội thương”.
12
Như vậy quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng thương chưa lý giải
được nguồn gốc của lợi nhuận. Khi phê phán chủ nghĩa trọng thương (trong
bộ tư bản quyển I, tập 1) Mác đã viết: “Người ta trao đổi hàng hoá với hàng
hoá, hàng hoá vớ tiền tệ có cùng giá trị với hàng hoá đó, tức là trao đổi giữa
các vật ngang giá, rõ ràng là không ai rút ra được từ trong lưu thông nhiều
giá trị hơn số giá trị đã bỏ vào trong đó. Vậy giá trị thặng dư tuyệt nhiên
không thể hình thành ra được”.
2.2. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng nông.
Cũng như chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông ra đời trong thời
kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN)
nhưng ở giai đoạn kinh tế phát triển hơn. Những người theo chủ nghĩa
trọng nông cho rằng lợi nhuận thương nghiệp có được chẳng qua là nhờ các
khoản tiết kiệm chi phí thương mại, họ cho rằng thương mại chỉ đơn thuần
là trao đổi ngang giá trị này lấy giá trị khác vì vậy mà không bên nào có
lợi. Thương nghiệp không sinh ra của cải, trao đổi không làm cho tài sản
tăng lên vì tài sản được tạo ra trong quá trình sản xuất còn trong trao đổi
chỉ đơn thuần là trao đổi giá trị mà thôi. Vì vâỵ chủ nghĩa trọng nông cho
rằng giá trị thặng dư hay sản phẩm thuần tuý là quà tặng vật chất của thiên
nhiên và nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần tuý. Như
vậy chủ nghĩa trọng nông đã chỉ ra được là trao đổi không sinh ra của cải.
2.3. Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh.
Do sự phát triển của sản xuất và tính chuyên môn hoá ngày càng cao thì
quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa trong
nông ngày càng tỏ rõ tính chất khiến nó không đáp ứng được những yêu
cầu mới đặt ra. Do đó đòi hỏi phải có những học thuyết mới phù hợp hơn vì
vậy kinh tế chính trị học tư sản cổ điển anh ra đời.
Một số đại biểu của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh.
13
+ William Petty (1623 – 1687): là nhà kinh tế học người Anh được Mác
đánh giá là cha đẻ của kinh tế học cổ điển, Ông đã tìm thấy phạm trù địa tô
mà chủ nghĩa trọng thương đã bỏ qua, ông cho rằng địa tô là số chênh lệch
giữa giá trị sản phẩm và chi phí sản xuất (tiền lương, tiền giống…) còn về
vấn đề lợi tức ông coi nó cũng như tiền thuê ruộng.
+ Adam Smith (1723 – 1790): Ông là người đầu tiên tuyên bố rằng “Lao
động là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư”. Theo ông lợi nhuận là “Khoản
khấu trừ thứ 2” vào sản phẩm lao động. Theo cách giải thích này của ông
thì lợi nhuận, địa tô và lợi tức chỉ là các hình thức khác nhau của giá trị do
công nhân tạo ra ngoài tiền lương. Và chính ông cũng đã khẳng định rằng
“giá trị hàng hoá bao gồm: tiền công + Lợi nhuận + Địa tô”.
+ Davit Ricardo (1772 – 1823): Ông cho rằng “lợi nhuận là số còn lại ngoài
tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân”. Ông đã thấy được xu thế
hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận, ông giải thích nguyên nhân của sự
giảm sút này nằm trong sự vận động biến đổi giữa 3 giai cấp: địa chủ, công
nhân, nhà tư bản. Ông cho rằng do qui luật mầu mỡ đất đai ngày càng
giảm, làm cho tiền lương công nhân và địa tô tăng lên còn lợi nhuận không
tăng. Theo ông thì địa chủ là người có lợi, công nhân thì không có lợi cũng
không bị thiệt, chỉ có nhà tư bản là bị hại vì tỉ suất lợi nhuận giảm xuống.
Hạn chế của ông là chưa phân biệt được phạm trù giá trị thặng dư tuy nhiên
ông vẫn khẳng định rằng: Giá trị do công nhân tạo ra lớn hơn tiền công mà
họ nhận được và đó cũng chính là nguồn gốc sinh ra tiền lương, lợi nhuận
và địa tô.
II: VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Những tác động tích cực trong nền kinh tế
1.1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
14
Như đã biết, các nhà tư bản, các doanh nghiệp đầu tư để tiến hành quá trình
sản xuất kinh doanh với mục tiêu là thu được càng nhiều lợi nhuận càng tốt
và cũng chính khoản lợi nhuận thu được này cũng là nguyên nhân chính
quyết định sự tồn tại phát triển hay sự phá sản của doanh nghiệp. Nếu
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tức là thu được lợi nhuận thì một phần lợi
nhuận này sẽ được sử dụng để tái đầu tư để tái mở rộng sản xuất và doanh
nghiệp sẽ ngày càng phát triển. Ngược lại nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
thì nó sẽ bị đào thải theo qui luật của sự phát triển. Vì vậycác nhà tư bản,
các doanh nghiệp tìm mọi cách để tạo ra càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Để
đạt được điều đó thì thời kỳ ban đầu họ kéo dài ngày lao động của người
công nhân nhưng phương pháp này có nhiều hạn chế và bị sự phản đối gay
gắt của nghiệp đoàn và giai cấp công nhân do đó để thu được lợi nhuận cao
thì chỉ có cách nâng coa năng suất lao động bằng áp dụng những kỹ thuật
mới, những phát minh mới vào trong sản xuất. Chính mục đích áp dụng
những kỹ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào
lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Những phát minh khoa học lần lượt ra đời
đặc biệt là ở thế kỷ 19 và 20 đã đưa lực lượng sản xuất phát triển một cách
nhanh chóng. Và chính việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật này
vào sản xuất đã giúp cho các nhà tư bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn
thuần mà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Người công nhân chính là người trực tiếp sử dụng vận hành công nghệ mới
do đó đòi hỏi họ phải có một trình độ nhất định nào đó thì mới có thể sử
dụng được các trang thiết bị kỹ thuật mới đó. Chính vì vậy mà mỗi người
công nhân phải tự học hỏi để nâng cao trình độ, nâng cao tay nghề nếu
không chính họ sẽ bị đào thải. Còn về phíâ nhà tư bản thì họ cũng hiểu rằng
để đạt được hiệu quả cao và tận dụng được hết công suất của các trang thiết
bị kỹ thuật mới đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề
15
với trình độ cao vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ
tay nghề của công nhân của nhà tư bản đã diễn ra ngày càng mạnh mẽ và
trở thành một yêu cầu tất yếu. Qua đó trình độ của người lao động ngày
càng được nâng cao và nó đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển lên một
tầm cao mới.
1.2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển.
Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất và tái sản xuất xã hội: Sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng.
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế xã hội và quan hệ kinh tế – tổ
chức.
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với
nhau thông qua quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Như đã trình bày ở phần trên, mục tiêu hàng đầu của các nhà sản xuất là
thu được lợi nhuận tối đa. Chính mục tiêu này đã thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất và nó kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất cho
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Bên cạnh đó mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận đòi hỏi các nhà kinh tế, các tổ
chức kinh tế phải bảo đảm được tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh tức là phải làm thế nào để với một chi phí bỏ ra là ít nhất sẽ thu
về được số lợi nhuận lớn nhất. Điều đó đòi hỏi phải có tính chuyên môn
hoá cao trong công tác tổ chức quản lý. Các doanh nghiệp, các đơn vị sản
xuất bắt đầu cắt giảm biên chế, thu gọn bộ máy quản lý làm cho bộ máy
quản lý gọn nhẹ hơn nhưng lại hoạt động rất có hiệu quả. Cùng với nó là
quá trình phân bố lại lực lượng lao động một cách cân đối, có kế hoạch để
đảm bảo khai thác một cách có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên. tất cả các
vấn đề trên đều xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận và chính nó đã cho thúc
16
đẩy quá trình phân phối theo lao động dẫn ra một cách hết sức mạnh mẽ
theo nguyên tắc làm nhiều hướng nhiều, làm ít hướng ít. Sự phân chia lợi
nhuận đã diễn ra dưới rất nhiều hình thức khác nhau một cách chặt chẽ giữa
các bên tham gia vào quá trình phân chia làm cho chế độ sở hữu ngày càng
được củng cố và phát triển. Quan hệ sở hữu từng bước được phát triển hơn,
rõ ràng hơn giữa các nhà tư bản và người lao động nói riêng, giữa các cá
nhân trong xã hội nói chung.
Như vậy với mục tiêu theo đuổi lợi nhuận đã thúc đẩy quan hệ sản xuất
phát triển bắt đầu từ quan hệ sản xuất tự suất tự cung và cho đến nay thì
quan hệ sản xuất XHCN đã rất phát triển.
1.3. Lợi nhuận là động lực phát triển của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ theo nhu
cầu của thị trường và xã hội với mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận hay là thu
được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Có thể nói lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu
quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kể từ lúc bắt đầu
tìm kiếm nhu cầu của thị trường cho tới khi tổ chức sản xuất ra hàng hoá
dịch vụ và bán nó ra thị trường. Kinh doanh tốt sẽ tạo ra được nhiều lợi
nhuận, khi lợi nhuận nhiều sẽ tạo ra khả năng để đầu tư tái sản xuất mở
rộng làm cho quy mô của quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng được
mở rộng, lợi nhuận sẽ ngày càng nhiều hơn. Ngược lại nếu doanh nghiệp
làm ăn kém hiệu quả tức là quá trình sản xuất kinh doanh không mang lại
lợi nhuận cho doanh nghiệp thì dấn đến phá sản là một tất yếu. Chính vì
vậy, lợi nhuận là động lực kinh tế thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng
nâng cao hiệu quả xử dụng hợp lý các nguồn lực, nâng cao năng suất chất
lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi
17
nhuận cao đồng thời việc thu được lợi nhuận cao sẽ kết thúc các doanh
nghiệp phục vụ tốt hơn nhu cầu của thị trường.
Lợi nhuận của doanh nghiệp không những là bộ phận quan trọng trong thu
nhập thuần tuý của doanh nghiệp mà nó còn là nguồn lực thu quan trọng
của ngân sách nhà nước, là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân của mỗi nước.
Bởi vì thu nhập thuần tuý (hay còn gọi là tích luỹ tiền tệ) của doanh nghiệp
là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân. Thu nhập thuần tuý càng lớn thì khả
năng tăng thu nhập quốc dân càng cao. Măt khác, nhờ có lợi nhuận thu
được các doanh nghiệp không những thực hiện được nghĩa vụ đóng góp
quan trọng trong nguồn thu của NSNN thông qua các sắc thuế theo luật
định mà còn tạo điều kiện tiền đề cho các doanh nghiệp thực hiện các hoạt
động từ thiện, nhân đạo.
Như vậy lợi nhuận có một vai trò cực kỳ quan trọng không những đối với
doanh nghiệp mà nó còn là nguồn thu quan trọng đối với NSNN. Với mục
tiêu lợi nhuận của mình, các doanh nghiệp không ngừng nâng cao trình độ
tay nghề, nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất và kinh doanh góp phần
nâng cao hiệu quả sản xuất chung của toàn xã hội. Ngoài ra, nhà nước,
chính phủ phải tạo ra hành lang pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế.
Lợi nhuận là lý do phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường. Nó thúc
đẩy quá trình mở cửa của nền kinh tế nhằm mở rộng việc trao đổi hàng hoá,
trao đổi khoa học kỹ thuật. Các nước tiến hành mở cửa nền kinh tế nhằm
thu hút nguồn lực từ bên ngoài và phát huy nguồn lực bên trong làm thay
đổi mạnh mẽ trình độ kỹ thuật công nghệ trong nước. Đồng thời đầu tư ra
18
nước ngoài sẽ mang lại mức lợi nhuận cao hơn ở trong nước. Như vậy để
thu được lợi nhuận cao hơn đòi hỏi các nước phải tăng cường liên doanh
liên kết, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới trên nguyên tắc
bình đẳng cùng có lợi.
1.5. Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội.
Muốn mở rộng sản xuất càng ngày càng hiện đại thì đòi hỏi phải tích luỹ
nhiều vốn. Như đã biết quá trình tái sản xuất mở rộng là sự lập lại quá trình
sản xuất cũ với quy mô lớn hơn trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước.
Muốn như vậy thì phải biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ
thêm. Do đó để tiến hành được quá trình tái sản xuất xã hội mở rộng thì đòi
hỏi trong quá trình sản xuất phải tạo ra được lợi nhuận, lợi nhuận tạo ra
được càng nhiều thì quá trình tái sản xuất mở rộng càng diễn ra nhanh hơn
và với quy mô lớn hơn. Ngược lại, việc thu được lợi nhuận cao sẽ kích
thích các chủ doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất để thu được
lợi nhuận cao hơn.
1.6. Vai trò của lợi nhuận đối với các mặt khác của đời sống xã hội.
Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn là một điều tất yếu
khách quan, đó chính là một phần thu nhập của những người đóng góp sức
lao động hay vốn tài sản của mình vào quá trình sản xuất. Tuy nhiên, bên
cạnh những người này còn có những người vì một lý do nào đó mà không
thể tham gia vào lao động được, đời sống của những người này là do gia
đình họ hoặc xã hội đảm bảo. Mặt khác, đời sống của CBCNVC nhà nước
và tất cả những người đang lao động ở tất cả các thành phần kinh tế cũng
không phải dựa vào tiền công cá nhân mà nó còn dựa vào các quỹ phúc lợi
công cộng của nhà nước, của các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Nó
nhằm mục đích đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội đều có mức sống
bình thường tối thiểu. Phân phối thù lao ngoài lao động còn kích thích lao
19
động sản xuất, kích thích sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội. Mặt
khác mỗi quốc gia đều có một bộ máy hành chính nhà nước, việc nuôi
sống bộ máy nhà nước tiêu tốn một khoản chi phí rất lớn. Bên cạnh đó, vấn
đề an ninh quốc phòng và vấn đề giáo dục luôn đòi hỏi được ưu tiên hàng
đầu.
Tất cả các khoản chi tiêu trên đều lấy từ NSNN, lấy từ phần vốn tích luỹ
của các doanh nghiệp, các nguồn này đều được hình thành từ lợi nhuận thu
được trong quá trình sản xuất kinh doanh của toàn xã hội. Lợi nhuận thu
được càng nhiều thì phần dành cho các vấn đề trên càng nhiều. Ngoài ra
khi lợi nhuận cao sẽ có điều kiện đầu tư phát triển nhân tố con người cả về
mặt lý luận và thực tiễn, đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Tất cả
những điều trên đều góp phần nâng cao đời sống xã hội và tạo điều kiện
cho sự phát triển kinh tế, phát triển giáo dục, quốc phòng của quốc gia.
2. Giá trị thặng dư siêu ngạch – một trong những nguồn gốc sự giàu có của
các quốc gia trong điều kiện hiện đại.
Dưới tác động của qui luật giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản đã vận động
phát triển qua ba giai đoạn từng bước thực hiện các cuộc đảo lộn… có tác
dụng đẩy nhanh tăng năng suất lao động xã hội để giảm thời gian lao động
tất yếu xuống mức tối thiểu cần thiết tăng tối đa thời gia cho việc sản xuất
ra giá trị thặng dư.
Bước đầu của quá trình đó diễn ra trong buổi “bình minh” của CNTB (cuối
thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI). Khi đó, các nhà tư bản chỉ có số vốn liếng ít ỏi
và công cụ lao động thủ công lạc hậu, nhưng có khát vọng thu được nhiều
giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản đã khắc phục mâu thuẫn này bằng cuộc
cách mạng hoá tổ chức lao động biến lao động cá thể manh mún thành lao
động hiệp tác phù hợp với yêu cầu tất yếu kinh tế tạo ra sức lao động “cộng
thể” một mặt làm cho năng suất lao động xã hội được nâng cao, cho phép
20
giảm lao động tất yếu, tăng lao động thặng dư, do đó tạo ra nhiều giá trị
thặng dư cho nhà tư bản. Mặt khác, tạo tiền đề cho CNTB tiến lên một giai
đoạn cao hơn bằng quá trình cách mạng hoá sức lao động, từ đó hình thành
nên công trường thủ công. Công trường thủ công TBCN đã tạo nên bước
phát triển mới về năng suất lao động xã hội nhờ đó mà giảm thấp đáng kể
thời gian lao động tất yếu, tăng thêm tương ứng thời gian lao động thặng
dư, đem lại nhiều lợi nhuân cho nhà tư bản. Chính các công trường thủ
công đã tạo ra cho CNTB có đủ các điều kiện tiền đề về kinh tế kỹ thuật, xã
hội để tiến lên thực hiện một bước đảo lộn toàn diện và sâu sắc quá trình
lao động cũng như bản thân phương thức sản xuất TBCN. Từ đó chuyển
nền sản xuất này nên giai đoạn công nghiệp cơ khí, thay thế lao động thủ
công bằng lao động máy móc, tạo nên bước nhảy vọt cho năng suất lao
động, cho phép CNTB tiến hành bóc lột chủ yếu theo phương pháp bóc lột
giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư nhiều, lợi nhuận lớn, lại kích thích lòng thèm khát của các
nhà tư bản làm sao thu được nhiều hơn nữa. Bản thân các nhà tư bản này
mở rộng được sử dụng máy móc, các nhà tư bản khác cũng đua tranh sử
dụng máy móc để thu được nhiều giá trị thặng dư. Kết quả là máy móc trửo
thành phổ biến trong các công xưởng và nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự
phát triển của máy móc như vậy đã làm phát sinh giá trị thặng dư tương đối
bằng cách: trực tiếp làm cho sức lao động giảm giá, gián tiếp làm cho sức
lao động rẻ đi nhờ tăng năng suất lao động xã hội, làm cho những hàng hoá
cấu thành giá trị sức lao động giảm xuống. Do đó, người ta chỉ cần dùng
một phần ít hơn của ngày lao động để bù đắp lại giá trị sức lao động làm
cho việc sản xuất giá trị thặng dư tương đối trở thành phương pháp chủ yếu
trong việc tăng giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
21
Bằng những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện
đại nắm giữ được, chủ nghĩa tư bản đã thực hiện sự bóc lột tinh vi gắn
quyện và rất hiệu nghiệm ở cả ba phương pháp. Nhưng chủ yếu là bóc lột
giá trị thặng dư siêu ngạch.
Ở các nước tư bản phát triển nhờ áp dụng một cách phổ biến khoa học
phương tiện kỹ thuật hiện đại trong tất cả các ngành sản xuất và dịch vụ mà
năng suất lao động xã hội tăng cao. Do đó làm cho giá trị của hàng hoá đều
giảm xuống thì nó do giá trị các hàng hoá liên quan đến tái sản xuất sức lao
động quyết định. Cho nên trong các nước này động lực trực tiếp, thường
xuyên thúc đẩy các nhà tư bản chăm lo tổ chức sản xuất và tiến bộ khoa
học kỹ thuật là giá trị thặng dư siêu ngạch. Nhưng phương pháp bóc lột giá
trị thặng dư tương đối là chủ yếu. Vì giá trị thặng dư tương đối tăng lên
cùng với sự tăng lên và giảm xuống của sức sản xuất lao động.
Ngày nay khối lượng lợi nhuận kếch sù mà các nước tư bản có được chủ
yếu là do bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch thông qua kinh tế với thị
trường nông thôn chính quốc và đặc biệt là mở rộng quan hệ kinh tế với
nước ngoài, nhất là các nước kém phát triển.
Trong điều kiện của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại,
các nước tư bản phát triển nhất là các Công ty độc quyền xuyên quốc gia và
đa quốc gia có ưu thế hơn hẳn trong việc áp dụng những thành tựu khoa
học mới nhất của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ vào sản xuất kinh
doanh. Do đó các nước tư bản và các tổ chức độc quyền đó có nhiều khả
năng sản xuất ra GTTTD siêu ngạch, đây là nguồn rất to lớn và khá ổn định
của lợi nhuận siêu ngạch khổng lồ mà các nước tư bản phát triển và các tổ
chức độc quyền thu được trong quan hệ kinh tế với các nước kém phát
triển. Chẳng hạn như thông thường họ bán những mặt hàng công nghệ
phẩm với mức giá hàng năm tăng từ 15% đến 17% trong khi đó họ mua
22
hàng khoáng sản và nông – lâm – hải sản của các nước kém phát triển với
mức giá hàng năm chỉ tăng từ 3- 5% thậm chí có một số mặt hàng giá trị
giảm nghĩa là, CNTB hiện đại đang sử dụng giá cả “ canh kéo” độc quyền
trong quan hệ kinh tế “ Đông Tây” để bóc lột gián tiếp giai cấp công nhân
và quần chúng lao động ở các nước kém phát triển.
Hậu quả của quá trình trên là các nước tư bản thu được lợi nhuận siêu
ngạch kếch xù và giầu lên nhanh chóng. Trái lại các nước kém phát triển
thì tài nguyên ngày một cạn kiệt, sức người mòn mỏi, nợ chồng chất và nạn
đói liên miên…
3. Vấn đề lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam.
3.1 Vài nét về hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp Việt Nam từ 1975 đến
trước đổi mới(1986)
Sau khi thống nhất đất nước (1975) cả nước ta bắt tay vào xây dựng nền
kinh tế với mục tiêu đưa cả nước tiến lên CNXH. Để đạt được mục tiêu đó,
trong giai đoạn đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng và
nhà nước ta đã áp dụgn mô hình kinh tế “ chỉ huy tập trung”.
Có thể nói, mô hình “ kinh tế chỉ huy tập trung” nói trên xét về thực chất là
mô hình kinh tế tự cấp tự túc “phát triển ở trình độ cao, với quy mô lớn.
Với mô hình này nhà nước kiểm soát hầu hết các phương tiện sản xuất kinh
doanh, kiểm soát giá cả, tiền lương và toàn bộ quá trình phân phối hàng
hoá, dịch vụ trong nề kinh tế. Riêng về phía các doanh nghiệp thì nhà nước
cấp phát vốn hoàn toàn sau đó của năm, các doanh nghiệp phải nộp toàn bộ
kết quả hoạt đông sản xuất của xí nghiệp mình cho nhà nước, nếu doanh
nghiệp làm ăn có lãi thì nhà nước thu, còn nếu doanh nghiệp làm ăn thu lỗ
thì nhà nước bù. Hình thức này đã triệt tiêu mọi động lực sản xuất của
doanh nghiệp hiện tượgn “tái giá, lỗ thật”là khá phổ biến. Các doanh
nghiệp hoạt động không lấy mục tiêu lợi nhuận làm chính, cán bộ công
23
nhân thì luôn được hưởng một mức lương cứng, mọi phát minh, nỗ lực của
họ chỉ được khen thưởng về mặt tinh thần. Tất cả các yếu tố trên đẫ thủ tiêu
mọi động lực lợi ích của nền kinh tế nói chung, của các chủ thể kinh tế và
người lao động nói riêng làm cho nền kinh tế hoạt động thiếu sinh khí và
kếm năng động. Về tình hình các doanh nghiệp có thể tóm tắt một vài nét
sau.
– Các doanh nghiệp quốc doanh bị mai một, thiếu tinh thần trách nhiệm,
thiếu tự chủ, hoàn toàn ỷ lại cấp trên và nhà nước. Vì các doanh nghiệp
hoạt động theo cơ chế: sản xuất , kinh doanh theo chỉ tiêu của nhà nước
giao; được nhà nước cung cấp các yếu tố đầu vào ( máy móc thiết bị, vốn,
vật tư…) và bao tiêu hàng hoá ở đầu ra cho doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp làm ăn có lãi thì nộp cho nhà nước còn lỗ thì nhà nước chịu do đó
các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động rất kém hiệu quả. Theo đánh giá
sơ bộ các doanh nghiệp nhà nước thì cho tới năm 1988 chỉ có 20.25%
doanh nghiệp làm ăn có lãi, 30- 35% doanh nghiệp hoà vốn, còn lại khoảng
40% doanh nghiệp bị lỗ vốn. Các doanh nghiệp quốc doanh quản lý và sử
dụng khoảng 70% tổng số vốn và giá trị vật tư của toàn xã hội và 26,3%
thu nhập quốc dân. Hơn nữa, tài sản và vốn nhà nước giao cho các doanh
nghiệp này không được bảo tồn, năng lực sản xuất không được tấi tạo và
mở rộng, trái lại, bị thất thoát, mất mát nhiều nhưng trách nhiệm này không
biết quy cho ai:
– Các doanh nghiệp tư nhân không được thừa nhận hợp pháp, không được
nhà nước tạo điều kiện sản xuất doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tư nhân
chủ yếu hoạt động trong các ngành tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp
nhẹ. Do cơ sở vật chất kỹ thuật kém, lại không được sự khuyến khích đầu
tư của nhà nước nên hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp là yếu kém,
tỷ suất lợi nhuận thấp. Do chính sách phân biệt đối xử của nhà nước, đặc
24
biệt là về thuế nên để đảm bảo nguồn lợi nhuận thu được thì họ kinh doanh
chủ yếu dưới dạng trái phép trốn thuế, do đó, lợi nhuận thu được hầu hết là
xuất phát từ hoạt động kinh tế ngầm.
Như vậy “cơ chế kinh tế tập trung bao cấp” không quan tâm đến lợi nhuận
và lợi ích của doanh nghiệp và người lao động đã triệt trên mọi động lực
sản xuất , khiến cho nên kinh tế rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội
bắt đầu từ những năm 70, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp hầu như bị
đình đốn, giá cả tăng nhanh và thường tăng đột biến; tiền tệ bị mất giá bởi
tình trạng siêu lạm phát, sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của người
tiêu dùng… làm cho cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn. Về mặt xã hội. số
người thất nghiệp tăng, người dân hoài nghi, lo lắng, buồn chán, ít quan
tâm đến lý tưởng và thể chế nhất là tầng lớp trẻ.
Đứng trước tình hình như vậy, đảng và nhà nước đã chủ trương đổi mới cơ
chế kinh tế (vào năm 1986) và đã thu được những thành tựu đáng kể.
3.2 Vai trò của lợi nhuận trong công cuộc đổi mới ở nước ta (từ 1986 đến
nay).
3.2.1 vài nét về nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN
Nước ta từ sau cuộc cải cách 1986, đã và đang từng bước thể hiện quá trình
mang tính quy luật đó là việc chuyển đổi từ cơ chế kinh tế bao cấp sang cơ
chế kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Cơ chế này phát
huy vai trò điều tiết của thị trường từng bước hình thành một thị trường
cạnh tranh làm cho hàng hoá lưu thông ,cung cầu cân đối, giá cả ổn định…
đến đây một vấn đề cơ bản đặt ra là “ thế nào là vốn kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN”
Trước tiên ta phải hiểu thế nào là nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ
chế thị trường, trong đó những vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào