11244_Tiểu luận Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế thị trường thời kỳ quá độ ở nước ta

luận văn tốt nghiệp

TRƯỜNG………………….
KHOA…………………

…………..o0o…………..

TIỂU LUẬN

Học thuyết tuần hoàn và chu
chuyển tư bản và sự vận dụng nó
vào nền kinh tế thị trường thời
kỳ quá độ ở nước ta

1
LỜI MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay –nền kinh tế quá độ lên chủ
nghĩa xã hội có sự quản lý của nhà nước ,việc quản lý và dụng vốn của cả nước ,của
từng thành phần kinh tế ,của từng doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp và hết sức
bức thiết. Đặc biệt trong vài năm trở lại đây kinh tế thị trường đã tạo raq một môi
trường kinh tế hết sức sôi động và cạnh tranh gay gắt ; do đó để tốn tại và phát triển
đứng vững trên thị trường các doanh nghiệp cần kết hợp phân tích lý thuyết tuần
hoàn và chu chuyển tư bản với điều kiện hiện có của doanh nghiệp để từ đó có
những quyết định đúng đắn đối với việc phân bổ các nhân tố sản xuất sao cho phù
hợp
Xuất phát từ thực tiễn của vấn đề đó, cùng với sự tâm đắc ý nghĩa của đề tài và
lòng ham thích tìm hiểu sâu hơn về môn kinh tế chính trị nói chung, vấn đề tuần
hoàn và chu chuyển nói chung em đã quyết định chọn đề tài:
“Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế
thị trường thời kỳ quá độ ở nước ta”.
Với lý luận và thực tiễn như vậy đề án của em có kết cấu như sau:
Phần 1: Mở đầu
Nói lên tính cấp thiết của đề tài,phương pháp và phạm vi nghiên cứu
Phần 2: Nội dung
Bao gồm cơ sở lý luận của đề tài, thực trạng ở Việt Nam và mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp cho vấn đề
Phần 3 : Kết luận
ý nghĩa của đề tài
Với khuôn khổ một tiểu luận, thời gian và trình độ có hạn nên tiểu luận của
em không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Em rất mong có sự động viên và đóng
góp ý kiến của thầy cô giáo bộ môn kinh tế chính trị để tiểu luận của em được
hoàn thiện hơn.

2

3
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1.Tuần hoàn của tư bản
1.1 Ba giai đoạn vận động và phát triển
Sự biến hoá hình thái của tư bản trong quá trình vận động .Tính chất TBCN ở
trong từng giai đoạn.
Giai đoạn I:T-H
Giai đoạn này biến tiền tệ thành hàng hoá:T-H.Đối với người mua ,đó là tiền biến
thành hàng.Còn đối với người bán,thì đó là biến hàng thành tiền.Đó là một hành vi
lưu thông hàng hoá thông thường .Nhưng nếu nhìn vào nôị dung vật chất của việc
mua bán đó,thì sẽ thấy tính chất tư bản chủ nghĩa của nó.
Hàng hoá mua bán là những loại hàng hoá nhất định ;tư liệu sản xuất và sức lao
động ,tức là những nhân tố của sản xuất. Quá trình mua bán đó có thể biểu diễn
thành:

T-H

Như thế nghĩa là có hai hành vi mua bán:T-SLĐ và T-TLSX. Hai hành vi này xảy
ra trên hai thị trường hoàn toàn khác nhau là thị trường sức lao động và thị trường
hàng hoá thông thường. Tiền của nhà tư bản phải chia làm hai phần theo tỉ lệ thích
đáng:một phần mua sức lao động,một phần mua tư liệu sản xuất.
Đối với hành vi T-TLSX,căn cứ vào ngành kinh doanh cụ thể phải tính toán thế
nào để mua đủ tư liệu sản xuất để sử dụng hết số nhân công thu được;nếu thiếu tư
liệu sản xuất thì không có việc cho công nhân làm,quyền sử dụng lao động thặng dư
sẽ trở thành vô ích đối với nhà tư bản. Ngược lại,nếu thiếu công nhân thì tư liệu sản
xuât sẽ không biến thành sản phẩm được.
Ta lại xét quá trình T-SLĐ. Nhà tư bản có tiền,công nhân có sức lao động,hai
bên mua bán với nhau. Đó là một quan hệ mua bán,một quan hệ hàng hoá – tiền tệ
thông thường. Nhưng đồng thời đó cũng là sự mua bán giữa một bên là nhà tư bản
TLSX
SLĐ

4
chuyên môn mua như thế và một bên là người vô sản chuyên môn bán như vậy. Sở
dĩ có quan hệ mua bán kiểu đó,chính là vì nhưngx điều kiện cần thiết để thực hiện
sức lao động – tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt- đã bị tách rời khỏi người lao
động. Tính chất tư bản chủ nghĩa trong việc mua bán trên không phải do bản thân
tiền tệ gây nên,và tiền tệ ở đây đã biến thành tư bản tiền tệ,chứ không còn là tiền tệ
thông thường nữa. Như vậy,giai đoạn I của sự vận động của tư bản là giai đoạn biến
tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.
Giai đoạn II:H..SX..H’
Sau khi mua được hàng hoá (tư liệu sản xuất và sức lao động) thì tư bản đã trút
bỏ hình thức tiền tệ mà mang hình thức hiện vật. Với hình thức hiện vật đó,nó
không thể tiếp tục lưu thông được. Nhà tư bản không thể đem bán công nhân như
hàng hoá được,vì công nhân chỉ bán sức lao động trong một thời gian ,chứ không
phải là nô lệ của nhà tư bản. Tư liệu sản xuất và sức lao động phải được đem ra tiêu
dùng cho sản xuất. Nhà tư bản bắt công nhân phải vận dụng tư liệu sản xuất để sản
xuất ra sản phẩm. Kết quả là nhà tư bản có được một số hàng hoá mới mà giá trị của
chúng lớn hơn giá trị của những nhân tố dùng để sản xuất ra số hàng hoá đó. Ở
đây,chúng ta coi quá trình sản xuất này như một giai đoạn trong sự vận động của tư
bản. Trong giai đoạn vận động này,tư bản trút bỏ hình thức tư bản sản xuất để
chuyển sang hình thức tư bản hàng hoá.
Giai đoạn III:H’-T’.
H’ sản xuất ra phải được bán đi. Nhà tư bản lại xuất hiện trên thị trường , nhưng
lần nà chỉ xuất hiện trên thị trường hàng hoá thông thường.
Bán H’ lấy T’,tức là T’đã lớn lên, vì có thêm giá trị thặng dư. Sở dĩ có thể thu về
một giá trị lớn hơn số giá trị đã bỏ ra trong giai đoạn đầu, chính là vì đến giai đoạn
III, đã ném ra thị trường một số hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị đã ứng ra trước
đây. Số lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà công nhân đã sáng tạo ra trong giai
đoạn sản xuất và bị nhà tư bản chiếm không.Như vậy, giai đoạn III của sự vận động
là giai đoạn biến tư bản hàng hoá thành tư bản tiền tệ.
Toàn bộ quá trình vận động tuần hoàn của tư bản có thể tóm tắt như sau:

5

Tư bản đã vận động qua ba giai đoạn và trong mỗi giai đoạn, tư bản đã tồn tại dưới
một hình thức và làm tròn một chức năng nhất định. Ở giai đoạn I, tư bản tồn tại
dưới hình thức tư bản tiền tệ mà chức năng của nó là mua hàng hoá.ở giai đoạn II,
tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản sản xuất mà chức năng của nó là sản xuất ra giá
trị thặng dư. ở giai đoạn III, tư bản tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản hàng hoá mà
chức năng của nó là thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.
Cuộc vận động đó là cuộc vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp.
Như vậy, tuần hoàn của tư bản là sự biến chuyển liên tiếp của tư bản qua ba giai
đoạn, trải qua ba hình thái, thực hiện ba chức năng tương ứng, để trở về hình thái
ban đầu với lượng giá trị lớn hơn.
1.2. Các hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp:
Trong ba giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản thì giai đoạn I và giai đoạn
III diễn ra trong lưu thông, thực hiện các chức năng mua yếu tố sản xuất và bán
hàng hoá có chứa đựng giá trị thặng dư. Giai đoạn II diễn ra trong sản xuất, thực
hiện chức năng sản xuất giá trị và giá trị thặng dư. Do vậy, giai đoạn II là giai đoạn
có tính chất quyết định vì chỉ trong giai đoạn đó mới sáng tạo ra giá trị và giá trị
thặng dư. Nhưng quá trình lưu thông (giai đoạn I và giai đoạn III) cũng có tác dụng
rất quan trọng, vì nếu không có lưu thông, thì không thể có tái sản xuất tư bản chủ
nghĩa, vì do đó tư bản chủ nghĩa không thể tồn tại được.
Tư bản chỉ có thể tuần hoàn một cách bình thường trong điều kiện các giai đoạn
được kế tiếp nhau không ngừng. Nếu ngừng trệ giai đoạn I, thì tiền tệ không chuyển
thành hành hoá được và sẽ khồng có được các điều kiện sản xuất hàng hoá. Nếu
ngừng trệ giai đoạn II, thì tư liệu sản xuất không kết hợp được với sức lao động, do
SLĐ
TLSX
…….SX…….H’-T’
T-H

6
đó không thể có sản phẩm mới.Nếu ngừng trệ giai đoạn III ,thì hàng hoá sẽ không
thể bán được, lưu thông sẽ bế tắc.
Mặt khác, tư bản cũng chỉ có thể tuần hoàn một cách bình thường, nếu như tư
bản của mỗi nhà tư bản công nghiệp, trong cùng một lúc, đều tồn tại dưới ba hình
thức: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hoá. Trong khi một bộ phận là tư
bản tiền tệ đang biến thành tư bản sản xuất, thì một bộ phận khác là tư bản sản xuất
đang biến thành tư bản hàng hoá, và một bộ phận thứ ba là tư bản hàng hoá thì lại
biến thành tư bản tiền tệ.Không những từng tư bản cá biệt đều như thế, mà tất cả
các tư bản trong xã hội cũng như thế. Các tư bản không ngừng vận động, không
ngừng trút bỏ hình thức này đẻ mang hình thức khác, thông qua sự vận đọng đó mà
lớn lên. Không thể quan niệm tư bản như một vật tĩnh.
Trong sự vận động liên tục của chủ nghĩa tư bản mỗi hình thái của tư bản đều có
thể là điểm mở đầu và điểm kết thúc của tuần hoàn tạo nên các hình thái tuần hoàn
khác nhau của tư bản.

2- Chu chuyển tư bản:
2.1 Chu chuyển của tư bản.Thời gian chu chuyển:

Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và
lặp đi lặp lại, chứ không phải là một quá trình cô lập, riêng lẻ, thì gọi là chu chuỷên
tư bản.
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi tư bản ứng ra dưới
một hình thức nhất định (tiền tệ, sản xuất, hàng hoá) cho đến khi nó trở về tay nhà
tư bản cũng dưới hình thức như thế, nhưng có thêm giá trị thặng dư.Thời gian chu
chuyển của tư bản là thước đo thời hạn đổi mới, thời hạn lắp lại quá trình tăng thêm
giá trị của tư bản.

Tuần hoàn của tư bản bao gồm quá trình sản xuất và quá trình lưu thông,
nên thời gian chu chuyển của tư bản cũng do thời gian sản xuất và thời gian lưu
thông cộng lại.

7

Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất.Thời
gian sản xuất lại bao gồm thời gian lao động và thời gian dự trữ sản xuất.
Thời gian sản xuất=thời gian lao động + thời gian gián đoạn lao động + thời gian dự
trữ sản xuất.

Thời gian lao động là thời gian người lao động tác động vào đối tượng lao
động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian hữu ích nhất, vì nó tạo ra giá trị cho sản
phẩm.

Thời gian gián đoạn lao động là thời gian đối tượng lao động, dưới dạng
bán thành phẩm nẳm trong lĩnh vực sản xuất, nhưng không có sự tác động của lao
động mà chịu sự tác động của thời gian như thời gian để cây lúa tự lớn lên, …Thời
gian gián đoạn lao động có thể xen kẽ với thời gian lao động hoặc tách ra thành một
thời kỳ riêng biệt, nó có thể dài ngắn khác nhau tuỳ thuộc vào các ngành sản xuất,
các sản phẩm chế tạo và phụ thuộc vào công nghệ sản xuất.

Thời gian dự trữ sản xuất là thời gian các yếu tố sản xuất đã được mua về,
sẵn sàng tham gia quá trình sản xuất,nhưng chưa thực sự được sử dụng vào quá
trình sản xuất còn ở dạng dự trữ. Sự dự trữ đó là điều kiện cho quá trình sản xuất
liên tục. Quy mô dự trữ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đặc điểm của các ngành, tình
hình của thị trường và năng lực tổ chức, quản lý sản xuất…

Cả thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất đều không tạo
ra giá trị cho sản phẩm. Sự tồn tại của các thời gian này là không tránh khỏi, nhưng
thời gian của chúng càng dài, hay sự chênh lệch giữa thời gian sản xuất với thời
gian lao động càng lớn thì hiệu quả của tư bản càng thấp. Rút ngắn thời gian này là
yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả của tư bản.

Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Thời
gian lưu thông gồm thời gian mua và thời gian bán, kể cả thời gian vận chuyển.
Thời gian lưu thông = thời gian mua + thời gian bán.
Thời gian lưu thông phụ thuộc vao nhiều yếu tố như :
– Tình hình thị trường, quan hệ cung-cầu và giá cả trên thị trường;

8
– Khoảng cách tới thị trường;
– Trình độ phát triển của giao thông vận tải…

Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, nhìn
chung, không tạo ra giá trị cho sản phẩm và giá trị thặng dư cho tư bản.Tuy nhiên,
sự tồn tại của nó là tất yếu và có vai trò quan trọng. Vì đó là đầu vào và đầu ra của
sản xuất. Cung cấp các điều kiện cho sản xuất và thực hiện sản phẩm do sản xuất
tạo ra. Rút ngắn thời gian lưu thông làm cho tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông
giảm xuống, tăng được lượng tư bản đầu tư cho sản xuất. Rút ngắn thời gian lưu
thông cũng làm rút ngắn thời gian chu chuyển, làm cho quá trình sản xuất lặp lại
nhanh hơn, tạo được nhiều giá trị và giá trị thặng dư hơn, làm tăng hiệu quả của tư
bản.

Do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như vây, nên thời gian chu chuyển
của các tư bản khác nhau(trong cùng một ngành và ở các ngành khác nhau) là rất
khác nhau. Để so sánh, cần tính tốc độ chu chuyển của tư bản bằng số vòng chu
chuyển thực hiện được trong một khoảng thơì gian nhất định, chẳng hạn trong một
năm.

Ví dụ, tư bản thứ nhất có thời gian chu chuyển 6 tháng và tư bản thứ 2 có
thời gian chu chuyển 8 tháng thì số vòng chu chuyển (n) trong năm của hai tư bản
đó là

2.2. Tư bản cố định và tư bản lưu động.
12 tháng
8 tháng
=1,5 vòng/ năm
n1=
12 tháng
6 tháng
= 2 vòng/ năm
n1=

9
Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận với thời gian chu chuyển khác nhau, do
đó ảnh hưởng tới thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản . Căn cứ vào sự khác
nhau trong phương thức chu chuyển về mặt giá trị của các bộ phận đó, tư bản sản
xuất được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
Tư bản cố định là bộ phận tư bản được sử dụng toàn bộ vào quá trình sản xuất,
nhưng giá trị của nó chỉ chuyển từng phần vào sản phẩm. Đặc điểm của tư bản cố
định là về hiện vật, nó luôn luôn bị cố định trong sản xuất, chỉ có giá trị của nó là
tham gia vào quá trình lưu thông cùng sản phẩm, hơn nữa nó cũng chỉ lưu thông
từng phần, còn một phần vẫn bị cố định trong tư liệu lao động, phần này không
ngừng giảm xuống cho tới khi nó chuyển hết giá trị vào sản phẩm. Thời gian mà tư
bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài hơn thời gian
một vòng tuần hoàn.
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản, khi tham gia vào quá trình sản xuất, nó
chuyển toàn bộ giá trị sang sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản
bất biến dưới hình thái nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ…Bộ phận tư bản khả
biến, xét về phương thức chu chuyển cũng giống như bộ phận tư bản bất biến lưu
động nói trên, nên cũng được xếp vào tư bản lưu động.
Như vậy, xét theo nguồng gốc tạo ra giá trị và giá trị thặng dư thì tư bản được
chia thành tư bản bất biến(c) và tư bản khả biến(v), còn khi xem xét về phương thức
chu chuyển giá trị thì tư bản được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Căn
cứ để phân chia không phải do đặc tính tự nhiên của chúng (lâu bền hay không lâu
bền, có di chuyển hay không di chuyển được …) mà có sự khác nhau về phương
thức chuyển giá trị, được quyêt định bởi chức năng của các bộ phận tư bản trong
quá trình sản xuất.
Trong thực tế, sự phân biệt giữa tư bản cố định và tư bản lưu động đôi khi rất
khó. Hơn nữa, vì các mục tiêu thực tiễn, đôi khi người ta sử dụng các tiêu chuẩn
quy ước khác cho việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động: quy mô tư bản,
thời hạn tồn tại, chi phí sửa chữa nhỏ hay lớn, thường xuyên hay định kỳ…

10
Trong quá trình hoạt động, tư bản cố định bị hao mòn đi. Có hai loại hao mòn
hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn do sử dụng hoặc do sự
phá huỷ của tự nhiên gây ra làm cho tư bản mất giá trị sử dụng. Hao mòn vô hình là
hao mòn do sự tiến bộkhoa học kỹ thuật, những máy móc, thiết bị được sản xuất ra
với chi phí sản xuất thấp hơn và có hiệu suất lớn hơn, làm cho những tư bản cố định
cũ giảm giá trị ngay khi giá trị sử dụng của nó vẫn còn nguyên vẹn hoặc mới suy
giảm một phần. Khi tính toán việc chuyển việc chuyển giá trị tư bản cố định vào
sản phẩm cần tính tới cả hình thức hao mòm này, nhất là hao mòn vô hình, nhằm
bảo đảm thu hồi được tư bản cố định đã sử dụng và góp phần rút ngắt khoảng cách
lạc hậu về các thế hệ kỹ thuật và công nghệ.
Trong quá trình hoạt động, tư bản cố định còn cần được bảo quản, cần có các
chi phí bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế các bộ phận … sử dụng một cách đúng đắn là
cách bảo dưỡng tốt nhất. Ngoài ra, vẫn cần các chi phí bảo quản khác (lau chùi, vệ
sinh công nghiệp, bôi trơn). Những chi phí bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế có thể
được thực hiện định kỳ hay đột xuất. Tất cả các chi phí đó được xác định theo kinh
nghiệm chung của xã hội, được bổ sung vào tư bản hoạt động và được phân bổ theo
tỷ lệ vào giá trị sản phẩm được chế tạo gắn vơí toàn bộ cuộc đời hoạt động của tư
bản cố định. Để hạn chế sự phá huỷ của tự nhiên, tránh hao mòn vô hình, tiết kiệm
các chi phí bảo quản, sửa chữa, các nhà tư bản tìm đủ mọi cách để thu hồi nhanh tư
bản cố định như nâng tỷ lệ khấu hao, kéo dài ngày làm việc, thực hiện chế độ làm
việc ba ca để máy móc hoạt động 24/24 giờ một ngày, tăng cương độ lao động, tiết
kiệm các chi phí về bảo hộ lao động, các chi phí cải thiện vệ sinh và điều kiện nơi
làm việc(hệ thống ánh sáng, thông gió, chống ô nhiễm…)
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, tư bản cố địnhcó quy mô rất lớn. Các chi phí
bảo quản, sửa chữa, thay thế, bảo đảm điều kiện cho hoạt động cũng rất lớn, nên
việc thu hồi nhanh tư bản cố định lại càng có ý nghĩa quan trọng trong cạnh tranh.
Do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ hiện hại, tư bản cố định càng có
nguy cơ hao mòn vô hình. Vì vậy, các nhà tư bản phải tìm mọi cách để khấu hao
nhanh tư bản cố định. Tỷ lệ khấu hao thương được tính rất cao ngay từ những năm
đầu chế tạo sản phẩm mới, lợi dụng giá sản phẩm cao của đầu chu kỳ sản phẩm, sau
đó giảm dần khấu hao cùng với việc giảm giá sản phẩmcuối chu khỳ của nó. Quy

11
mô sản lượng ban đầu càng lớn, càng có lợi cho việc thu hồi tư bản cố định. Những
yêu cầu đó không phải khi nào cũng thực hiện dễ dàng. Bởi vậy, các nhà tư bản,
một mặt, phát triển hệ thống tự đông hoá linh hoạt, cùng với những máy móc thiết
bị nhất định có thể chế tạo được nhiều dạng sản phẩn, thậm chí có thể sản xuất
những sản phẩm cá biệt theo các đơn đặt hàng khác nhau; mặt khác, phát triển hệ
thống doanh nghiệp vừa nhỏ đẻ dễ dàng đổi mới tư bản cố định trong điều kiện cách
mạng công nghệ hiện đại và cạnh tranh gay gắt. Đồng thời, cvác nhà tư bản vẫn tiếp
tục sử dụng những biện pháp cổ điển như tăng cường độ lao động, tổ chức lao động
theo ca kíp, tiết kiệm lao động của người công dân.
3. Ý nghĩa của việc rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản
tăng tốc độ chu chuyển của tư bản hay rút ngắn thời gian chu chuyển của tư
bản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng hiệu quả hoạt động của tư bản.
Trước hết, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định sẽ tiết kiệm được chi phí bảo
quản, sửa chữa tư bản cố định trong quá trình hoạt động, tránh được hao mòn hữu
hình và hao mòn vô hình, cho phép đổi mới nhanh máy móc, thiết bị, có thể sở dụng
quỹ khấu hao làm quỹ dự trữ sản xuất để mở rộng sản xuất mà không cần có tư bản
phụ thêm. (Hiện nay, trong nhiều trường hợp, máy móc, thiết bị ở các nước tư bản
phát triển đã được khấu hao hết, nhưng vẫn còn được bán cho nước ngoài dưới các
hình thức liên doanh, chuyển giao công nghệ cho các nước kém phát triển).

Đối với tư bản lưu động, việc tăng tốc độ chu chuyển hay rút ngắn thời gian
chu chuyển sẽ cho phép tiết kiệm được tư bản ứng trước khi quy mô sản xuất như
cũ hay có thể mở rộng sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm. thí dụ, một tư
bản có thời gian chu chuyển 9 tuần gồm 5 tuần sản xuất và 4 tuần lưu thông. Quy
mô sản xuất đòi hỏi một lượng tư bản cho 5 tuần sản xuất là 100 x 5 =500. Nhưng,
sau đó sản phẩm làm ra phải qua 4 tuần lưu thông. Do vậy, để sản xuất liên tục cần
một lượng tư bản để lưu động khác cho 4 tuần này là 100 x 4 = 400, tổng cọng là
900. Nếu do những nguyên nhân nào đó, thời gian chu chuyển rút ngắn lại còn 8
tuần (rút ngắn 1 tuần sản xuất hay 1 tuần lưu thông) với quy mô sản xuất không đổi
thì tư bản lưu động cần thiết cho sản xuất liên tục chỉ là 100 x 8 =800, chứ không
phải là 900, tiết kiệm dược 100 tư bản ứng trước. Giả dụ, tư bản lưu động sử dụng

12
vẫn là 900 thì quy mô sản xuất sẽ được mở rộng, tư bản lưu động sử dụng một tuần
sẽ là 900:8 = 112,5 chứ không phải là 100, mà không cần có tư bản phụ thêm.

Chính cì thế, khi mới bắt đầu kinh doanh, thực lượng kinh còn yếu, tư bản
thường được đầu tư vào những nghành có thời gian chu chuyển ngắn như công
nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm… Chỉ khi đã trưởng thành, có vốn lớn thì tư bản
mới đầu tư vào những nghành có chu kỳ kinh doanh dài như công nghiệp nặng.
Còn viễcây dựng kết cấu hạ tầng(đường sá, cầu cống …) thường là lĩnh vực đầu tư
của nhà nước.

Cuối cùng, đối với tư bản khả biến, việc tăng tốc độ chu chuyển có ảnh
hưởng trực tiếp tới việc làm tăng thêm tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị
thặng dư hàng năm vì đã thu hút được nhiều lao động sống hơn, nhờ đó mà tạo ra
được nhiều giá trị mới trong đó có giá trị thặng dư. Và vì vậy, việc lựa chọn ngành
có thời gian chu chuyển ngắn hơn và tìm cách rút ngắn thời gian của một vòng chu
chuyển là một trong những biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các
doanh nghiệp.

Thí dụ, có hai tư bản A và B, đều có lượng tư bản khả biến cho mỗi tuần sản
xuất là 100, đều có tỷ suất giá trị thặng dư m’ =100%, chỉ khác nhau ở thời gian chu
chuyển, tư bản A là 5 tuần(nghành dệt) còn tư bản B là 50 tuần (nghành đóng tàu).
Để sản xuất liên tục, tư bản A cần một lượng tư bản khả biến ứng trước là 100 x 50
= 500. Cùng với m’=100, sau 5 tuần, tư bản A tạo ra một giá trị thặng dư là
5×100=500 và sau 50 tuần(1năm) tạo ra một giá trị thặng dư là 100×50=5000(hay
500x10vòng=5000), nhưng luôn luôn chỉ cần một lượng tư bản khả biến ứng trước
là 500; còn tư bản B, sau 50 tuần (1năm) cũng tạo ra một giá trị thặng dư là
100×50=5000 nhưng cần một lượng tư bản khả biến ứng trước là 5000.

Chúng ta gọi tỷ giá thặng dư hằng năm(M) là tỷ lệ tính bằng phần trăm giữa
khối lượng giá trị thặng dư hàng năm (M) với tư bản khả biến ứng trước (V)

mxn
M’ =
M
V
X 100% =
V
X 100%=m’.n

13

Trong đó: – m là giá trị thặng dư tạo ra trong một vòng chu chuyển
– m/v là tỷ suất giá trị thặng dưthực tế.
– n là số vòng chu chuyển trong năm.
ở tư bản A, tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là:
5000
M’= x 100%= 1000% (100%x10 vòng)
500
Ở tư bản B, tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là:
5000
M’= x100%= 100%(100%x1 vòng)
5000
Như vậy, mặc dù có tỷ sất giá trị thặng dư (m’) phản ánh trình độ bóc lột ở hai tư
bản A và B như nhau, nhưng tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm (M’) phản ánh hiệu
quả hoạt động của hai tư bản đó lại khác nhau. Bởi vậy, việc lựa chọn ngành có
thời gian chu chuyển ngắn hơn và tìm mọi cách rút ngắn thời gian của một vòng
chu chuyển là một trong những biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
các doanh nghiệp
Điều đó gây ảo tưởng cho rằng, lưu thông cũng tạo ra giá trị thặng dư cho tư
bản. Song thực tế không phải như vậy. Sở dĩ chu chuyển nhanh có thể đem lại cho
nhà tư bản nhiều giá trị thặng dư hơn là vì đã thu hút được nhiều lao động sống
hơn, nờ đó mà tạo ra được nhiều giá trị mới trong đó có giá trị thặng dư.

II-VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM
1-Đặc điểm Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường:
Chuyển đôỉ nền kinh tế vậh hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước là bước ngoặt quan trọng làm thay đổi đời sống kinh tế xã hội đất nước.

14
Sự thành công hay không của quá trình chuyển đổi quyết định sự thắng lợi hay
không của sự nghiệp đổi mới.

Quá trình đổi mới những năm qua của nước ta cho thấy rằng việc chuyển
nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là
phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế, phù hợp với xu
hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế.

Thực tế hơn mười năm qua, từ Đại hội Đảng VI (1986), kinh tế Việt Nam
đã vượt qua những thăng trầm của những thập niên khủng hoảng, bước vào thời kỳ
phát triển ổn định và tăng trương cao, tạo ra những tiền đề rất quan trọng đẻ bước
vào thời kỳ CNH.

Bức tranh kinh tế chung của Việt Nam trước đổi mới là tăng trưởng thấp
3,7%/năm, kinh tế tự cấp tự túc làm không đủ ăn dựa vào nguồn viện trợ bên ngoài
là chủ yếu, các doanh nghiệp sản xuất theo lệnh từ cấp trên đưa xuống, sản phẩm
làm ra do chính Nhà nước tìm cách tiêu thụ. Thu nhập quốc dân trong nước, sản
xuất chỉ đáp ứng được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng. Đến năm 1985 tỷ trọng
thu từ các nguồn viện trợ, cho vay từ bên ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử
dụng.Nợ nước ngoài chồng chất, bội chi ngân sách rất lớn và tăng dần:18,1%(
1980);36,6%(1985), buộc nhà nước phải phát hành tiền để bù đắp. Cũng trong
những năm đó, nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, siêu lạm
phát ở mức 774,7%(1986) kéo theo giá cả leo thang và vô phương kiểm soát.

Vậy mà từ năm 1986, với đường lối đổi mới đúng đắncủa Đảng, các cơn sốt
do hậu quả của cơ chế quan liêu, tập trung bao cấp dần dà vơi đi kéo theo sự ra đi
của nguyên nhân khủng hoảng và suy thoái kinh tế. Kinh tế đã từng bước khôi phục,
tăng trưởng nhanh và ổn định, GDP liên tục tăng mạnh. Từ khi chuyển sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp có trách nhiệm duy trì, bảo
tồn và phát triển nguồn vốn hiện có, nghĩa là doanh nghiệp tự mình sản xuất kinh
doanh tự tìm “đầu vào” và “đầu ra” cho doanh nghiệp.Về phía nhà nước lúc này chỉ
quản lý các doanh nghiệp ở tầm vĩ mô. Do đó nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn của tư
bản rất có ý nghĩa đối vứi việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta trong nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

15

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta còn phải đối mặt với một
số thách thức lớn như cơ sở hạ tầng và dịch vụ còn yếu kém, tiềm lực kinh tế chưa
đủ mạnh, sự phát triển kinh tế không đều giữa các vùng, các địa phương… kéo theo
sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư… Song nhìn chung, cơ cấu kinh tế
quốc dân chuyển đổi theo hướng tích cực. Bộ mặt đát nước đỏi mới theo hướng văn
minh và hiện đại, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện cả ở thành thị và
nông thôn, xã hội ổn định. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh đang từng bước trở thành hiện thực.
2-Đánh giá việc quản lý sử dụng vốn của doanh nghiệp:

Trước năm 1986, nền kinh tế nước ta phát triển theo mô hình tập trung quan
liêu bao cấp nên hầu hết các doanh nghiệp đều là của nhà nước. Sự phát triển của
các doanh nghiệp quốc doanh rất trì trệ, lạc hậu do thiếu vốn và do thói ỷ lại vào
nhà nước của các doanh nghiệp. Chủ yếu trong thời kỳ này là các doanh nghiệp hoạt
động theo sự chỉ đạo của nhà nước, chưa phát huy được yếu tố nhân lực cũng như
nguồn vốn của nhà nước.

Từ sau năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang một thời kỳ
mới. Môi trường hoạt động của các doanh nghiệp có những biến đổi sâu sắc : nền
kinh tế nhiều thành phần , nền kinh tế khép kín trước đây đã chuyển dần sang nền
kinh tế mở, các doanh nghiệp nhà nước được tiếp cận với thị trường mới, kỹ thuật
mới, cách quản lý mới. Nhưng đồng thời đứng trước những thử thách khắc nghiệt
của sự xâm nhập cạnh tranh quyết liệt của các hàng ngoại trong cơ chế thị trường.
Vai trò, trách nhiêm, đường lối quản lý của doanh nghiệp có sự đổi mới sâu sắc,
tình trạng thiếu đồng bộ của chính sách luật lệ quản lý đã từng bước được khắc
phục. Trong điều kiện đó, hệ thống doanh nghiệp nước ta bước đầu được sắp xếp
lai, số lượng các doanh nghiệp nhà nước tuy giảm so với trước nhưng những doanh
nghiệp đang hoạt động vẫn chiếm giữ những ngành then chốt. Nhiều doanh nghiệp
đã trụ vững và đã phát huy được vai trò định hướng, trung tâm liên kết các thành
phần kinh tế.

Tuy có đổi mới quan trọng, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn
những mặt yếu kém :

16
– Số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng phần lớn là quy mô nhỏ, bố trí phân tán,
2/3 số doanh nghiệp có quy mô dưới 200 lao động, 4% số doanh nghiệp có
quy mô trên 1000 lao động, 81,7% doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ
đồng Việt Nam.
– Trình độ công nghệ, kỹ thuật quá lạc hậu, mức độ hoàn chỉnh đồng bộ thấp,
do đó hao phí vật chất lớn, chất lượng sản phẩm kém, sản xuất không năng
suất nên không có khả năng cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
– Sự đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước tương đối lớn nhưng
chưa tương xứng với sự đầu tư của nhà nước cho các doanh nghiệp.
– Hệ thống quản lý các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém.
– Đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề trình độ chuyên môn thấp, chưa được
đào tạo căn bản hệ thống.

Từ thực tế trên, chúng ta phải sớm đưa ra những biện pháp để khắc phục
những tồn tại yếu kém trên.

Thứ nhất, xác định đường lối sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp

Như chúng ta đã biết, hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều
thành phần tương ứng với nó là nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Bên cạnh các
chính sách kinh tế khuyến khích thành lập doanh nghiệp ngày một nhiều. Song
việc thành công hay thất bại lại do rất nhiều yếu tố tác động. Nhưng nhân tố then
chốt là sự quyết định của nhà tư bản. Ngay từ đầu, doanh nghiệp phải xác định
cho mình một hướng đi đúng đắn, thích hợp nhất, đó là việc trả lời ba câu hỏi :
sản xuất cải gì ?, sản xuất như thế nào ? và sản xuất cho ai ?. Chỉ khi doanh
nghiệp trả lời được ba câu hỏi này một cách đầy đủ, rõ ràng, chính xác nhất thì
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được giải quyết tốt. Như vậy
có thể nói, các doanh nghiệp đã thực hiện quá trình tuần hoàn tư bản. Trả lời cho
câu hỏi sản xuất cái gì doanh nghiệp cần có chiến lược phân tích nhu cầu thị
trường xem thị trường đang thiếu cái gì, mà nhu cầu về mặt hàng này đang tăng
mà nó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho doanh nghiệp trong khả năng vốn
hiện có. Sau đó nhà tư bản sẽ bỏ vốn để mua tư liệu sản xuất như nguyên vật

17
liệu, sức lao động, nhà xưởng… Đây là giai đoạn vốn của doanh nghiệp từ hình
thái tiền tệ chuyển sang hình thái hiện vật. Ở giai đoạn này nhà tư bản phải biết
cân đối vốn để mua tư liệu sản xuất và trả lương cho công nhân theo tỷ lệ thích
hợp. Nếu một trong hai nhân tố đó không được phân bổ phù hợp sẽ làm cho quá
trình sản xuất không hiệu quả ảnh hưởng tới sự tuần hoàn và chu chuyển của tư
bản. Dựa vào phân tích tốc độ chu chuyển của vốn các doanh nghiệp không chỉ
lên kế hoạch sản xuất kinh doanh mà còn phải xây dựng chiến lược kinh doanh
dài hạn bằng cách hình thành các quỹ như : quỹ đầu tư phát triển, quỹ khấu hao,
quỹ phúc lợi. Sau một thời gian sản xuất những quỹ này được đưa ra sử dụng mở
rộng sản xuất, cải tiến máy móc, nhập các dây truyền sản xuất hiện đại làm tăng
năng suất lao động, giảm chi phí cá biệt, giảm giá thành sản phẩm, để tăng tính
cạnh tranh trên thị trường.

Thứ hai : tiết kiệm tư bản ứng trước.

Các máy móc thiết bị sau một thời gian dài hoạt động sẽ bị hao mòn dần,
chuyển một phần giá trị vào sản phẩm. Ngoài việc cải tiến máy móc, nhập thêm
những dây truyền sản xuất tiên tiến, hiện đại các doanh nghiệp phải dựa vào kinh
nghiệm sản xuất kinh doanh mà dự tính trước những công việc khấu hao tài sản
cố định. Mặt khác để tránh hao mòn vô hình, doanh nghiệp phải hết sức tiết kiệm
các chi phí bảo quản và sửa chữa bằng các nâng cao ý thức người lao động đối
với việc sử dụng máy móc, tăng cường sử dụng hết công suất để thu hồi vốn
nhanh và thu nhiều lợi nhuận trong thời gian ngắn nhất.

Thứ ba : Đưa ra các giải pháp tăng tốc độ chu chuyển vốn

Muốn quay vòng vốn nhanh để tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới các doanh
nghiệp phải ra sức rút ngăns thời gian sản xuất và thời gian lưu thông vì nó là
thành phần tạo nên thời gian chu chuyển của vốn. Các doanh nghiệp ỏ nước ta
trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thường đưa ra các giải pháp
sau để rút ngắn thời gian sản xuất.
– áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động. Bên cạnh
nhập khẩu một số dây truyền hiện đại các doanh nghiệp không nên bỏ qua

18
những dây truyền có khả năng sử dụng bằng cách bán lại cho những doanh
nghiệp cần nó.
– Mở rộng quan hệ để liên doanh, liên kết. Việt Nam là một trong những nước
nghèo nhất trên thế giới. Do đó liên doanh liên kết là con đường ngắn nhất để
bắt kịp với sự tiến bộ của thế giới.
– Cải tiến bộ máy tổ chức và quản lý lao động. Hiện nay một số doanh nghiệp
nhà nước có cơ cấu tổ chức cồng kềnh, dẫn đến việc giải quyết công việc
chậm chạp, chồng chéo lên nhau, vi phạm quyền hạn và trách nhiệm của
người này với người khác. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải tinh giản tối đa
cơ cấu hành chính. Còn đối với người lao động trực tiếp phải bố trí thời gian
làm việc hợp lý 40 giờ một tuần đồng thời trả lương và những phần thưởng
xứng đáng cho người lao động để họ có thời gian và vật chất để cải thiện đời
sống, khiến họ làm việc có năng suất và hiệu quả hơn.

Còn để rút ngắn thời gian lưu thông cần sử dụng các biện pháp sau :
– Các doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, nắm bắt đựơc
tâm lý, nhu cầu của người tiêu dùng để từ đó có quyết định mở rộng hay thu
hẹp sản xuất mặt hàng của doanh nghiệp trên thị trường.
– Thường xuyên cải tiến mặt hàng, làm phong phú các chủng loại, phù hợp với
mọi đối tượng, độ tuổi, giới tính. Sự đa dạng của hàng hoá đem lại lợi ích rất
lớn : không những thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng mà còn tận
dụng những tư liệu sản xuất chưa dùng đến và giảm thiểu rủi ro trong kinh
doanh.
– áp dụng các hình thức thanh toán linh hoạt, xác định rõ các thị trường để phân
phối các hàng hoá sao cho thích hợp nhất.

Thứ tư : Hạn chế rủi ro trong kinh doanh :

Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh diễn ra hết sức khốc liệt, nó tạo ra
nhiều cơ hội làm ăn mới song cũng chứa đầy thử thách và đe doạ. Nắm bắt được
quy luật tuần hoàn và chu chuyển vốn, các doanh nghiêp tận dụng nhiều cơ hội
để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.

19

3. Các giải pháp để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả

Vốn luôn là một bài toán hóc búa đối với các doanh nghiệp. Trong giai
đoạn nước ta hiện nay nhu cầu về vốn để đổi mới công nghệ và phát triển rất lớn.
Đi tìm lời giải về vốn cho các doanh nghiệp là một vấn đề mang tính thời sự và
thiết thực.

3.1 Đối với việc tạo vốn đầu tư :

Để hình thành và thúc đẩy các nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp, chính
phủ ban hành đồng bộ, đầy đủ cơ chế chính sách về huy động vốn để tạo hành
lang pháp lý cho doanh nghiệp thực hiện việc huy động vốn.
– Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng : nhà nước cần có chính sách lãi
suất tiền vay hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế hiện tại của các doanh
nghiệp, có chính sách chú trọng việc mở rộng vay dài hạn để doanh nghiệp
vừa có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, vừa cân đối khả năng trả
nợ… Muốn vậy, nhà nước cần tiếp tục cải cách chính sách tiền tệ tạo ra điểm
gặp nhau giữa cung và cầu về vốn, mục tiêu chính là giải quyết ba vấn đề :
chính sách lãi suất, tỷ giá và quản lý ngoại hối.
– Đối với các tổ chức xã hội, đoàn thể : khuyển khích các tổ chức xã hội ( bảo
hiểm xã hội và các công ty bảo hiểm thương mại…), tham gia cho doanh
nghiệp vay vốn để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi của các cơ quan này, đồng
thời mở rộng thị trường vốn trong nước, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của
doanh nghiệp.
– Đối với quần chúng nhân dân, người lao động : xây dựng một chính sách huy
động vốn cụ thể, trong đó quy định trần lãi suất, hình thức vay trả… Nên gắn
lợi ích người lao động với hình thức huy động vốn như việc làm, thu nhập…
– Đối với khu vực doanh nghiệp :
+ Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hình thức thuê mua, thuê vận hành.
Đây là những giải pháp cho doanh nghiệp thiếu vốn muốn đầu tư đổi mới công
nghệ, thiết bị. Song để áp dụng hình thức này chúng ta cần hình thành những

20
công ty thuê mua có chức năng hỗ trợ doanh nghiệp trong việc lựa chọn bạn
hàng, đánh giá chất lượng máy móc thiết bị…
+ Thực hiện việc liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp với các thành phần
kinh tế khác để thu hút nguồn tài chính, trình độ quản lý, công nghệ của những
đối tác này. Song có một vấn đề nhà nước cần quan tâm là quyền lợi của doanh
nghiệp trong kinh doanh.
+ Cho phép những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả vay lại những nguồn vốn
viện trợ của nước ngoài.
+ Chính phủ cần xúc tiến, đẩy mạnh việc ra đời thị trường chứng khoáng để
tạo môi trường cho việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn cho
doanh nghiệp.
+ Tiếp tục sắp xếp, củng cố khu vực doanh nghiệp, đẩy mạnh công tác cổ
phần hoá.
Việc sắp xếp khu vực doanh nghiệp thời gian qua đã có những bước tiến
đáng mừng: thu hẹp lại khu vực DNNN, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu
vực kinh tế này.
3.2 – Đối với việc quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp.

Để thực hiện tốt công tác này phải có sự kết hợp từ hai phía: Nhà nước và
doanh nghiệp, trong đó khuyến khích nâng cao tinh thần trách nhiệm của doanh
nghiệp (cá nhân và tập thể cán bộ công nhân viên). Nhà nước chỉ đóng vai trò
giám sát.

Về phía Nhà nước:

– Nhà nước cần sớm triển khai việc đánh giá hệ số tín nhiệm đối với các
doanh nghiệp để từ đó áp dụng những ưu đãi với mức độ khác nhau đối với từng
doanh nghiệp: Những doanh nghiệp có hệ số tín nhiệm cao sẽ được ưu tiên vay
vốn trước, vay số lượng lớn, trong trường hợp cần thiết có thể lấy uy tín làm yếu
tố đảm bảo vay.

21

– Bất kỳ một dự án vay vốn nào của doanh nghiệp đều phải được xem xét
tính hiệu quả và khả năng trả nợ mới được phép triển khai. Tăng cường công tác
hoạt động kiểm tra giám sát để kịp thời pháp hiện những sai phạm trong việc huy
động vốn, việc lập đề án , việc sử dụng vốn, việc tích luỹ vốn trả nợ.

Cơ quan quản lý doanh nghiệp cần xây dựng những nguyên tắc kiểm tra,
kiểm soát thường niên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp chế độ giám sát
tình hình sử dụng và huy động vốn tại doanh nghiệp, có ý kiến kịp thời trước sự
thay đổi nguồn vốn tại doanh nghiệp. Phải gắn quyền lợi và trách nhiệm quản lý
doanh nghiệp trước sự thiếu hụt mất mát tài sản, tiền vốn.

Về phía doanh nghiệp.

– Vấn đề cốt lõi để quản lý sử dụng tốt nguồn vốn là hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp phải thực sự hiệu quả, doanh nghiệp phải làm ăn có
lợi nhuận phải có tích luỹ. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tự đánh giá lại mình về
khả năng cạnh tranh, nguồn lực của doanh nghiệp. Từ đó xây dựng kế hoạch kinh
doanh cho phù hợp. Nghị định 59/CP ban hành ngày 3/10/1996 đã quy định cụ
thể hơn cơ chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp, song
cần xây dựng hoàn chỉnh các chính sách kinh doanh, phương hướng phát triển
của từng ngành, từng lĩnh vực một cách cụ thể để từng doanh nghiệp xác định
nhiệm vụ, kế hoạch cho mình.

– Nghị định 59/CP là một bước tiến trong việc nâng cao hiệu quả công tác
quản lý, sử dụng và phát triển tài sản và tiền vốn tại doanh nghiệp. Tuy nhiên,
quyền lợi và trách nhiệm của ban lãnh đạo, ban kiểm soát nội bộ doanh nghiệp
cần được quy định cụ thể hơn: Mức độ chịu trách nhiệm, biện pháp xử lý, cấp
quyết định xử lý….

– Nhanh chóng hình thành ban kiểm soát, kiểm toán nội bộ doanh nghiệp để
giúp doanh nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót về sử dụng vốn trong hoạt
động.

Quy định trách nhiệm của cá nhân, tập thể trong việc đi vay, cho vay, bảo
lãnh vay, sử dụng vốn vay và trả nợ.

22

C KẾT LUẬN

Như chúng ta đều biết , doanh nghiệp là tế bào cơ bản của nền kinh tế quốc dân ,
là nơi kết hợp một cách có hiệu quả các nguồn lực để tạo ra của cải cho xã hội , là
nguồn gốc tạo nên sức mạnh kinh tế . Sự giàu có của một quốc gia . Trong giai đoạn
hiện nay của nước ta việc quản lý và sử dụng vốn hiệu quả của các doanh nghiệp là
một vấn đề tương đối phức tạp . Giữa lý luận và hiện thực còn có nhiều vướng mắc
mâu thuẫn chưa thực sự giải quyết được . Vì vậy nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn và
chu chuyển tư bản với điều kiện hiện có của doanh nghiệp là rất cần thiết cho mỗi
doanh nghiệp đẻ xác định được vị trí và chỗ đứng trên thị trường .
Nước ta sau hơn 15 năm thực hiên công cuộc đổi mới từ nền tập trung bao cấp
sang nền kinh tế thị trường đã thu được nhiều kết quả to lớn khả quan và cũng còn
không ít những tồn tại thiếu sót . Song để nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát
triển, trở thành bộ phận của nền kinh tế thế giới , không nằm ngoài sự vận động của
nền kinh tế thế giới và khu vực thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các
doanh nghiệp Việt Nam là hết sức cấp thiết . Chúng ta tin tưởng vào sự lãnh đạo của
và định hướng đúng đắn của Đảng và nhà nước ngày một giàu mạnh , vững bước đi
lên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

23
1. Tư bản quyển 2.
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Quốc gia.
3. Giáo trình Kinh tế chính trị Đại học Kinh tế Quốc dân.
4. Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII.
5. Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội VIII, IX.
6. Bài giảng.
7. Tạp chí Kinh tế phát triển.
8. Tạp chí quản lý Nhà nước.
9. Tạp chí Tài chính.
10. Tạp chí Ngân hàng.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *