Tiểu luận
Ảnh hưởng của Triết học Phật giáo đến
đời sống tinh thần của người Việt Nam
ĐỀ CƯƠNG
Trang
Phần A: Giới thiệu đề tài …………………..……………………………………3
Phần B: Nội dung ……………………………………………………………….4
Khái quát về Phật giáo…………….……………………………………4
1.1 Nguồn gốc ra đời ……………………………………………………..4
1.2 Kinh điển của Triết học Phật giáo …..……………………………..4
1.3 Tư tưởng Triết học Phật giáo ……….……………………………..4
1.3.1 Thế giới quan
…………………………………………………….4
1.3.2 Nhân sinh quan …………………………………………………..7
a. Sự hình thành và cái chết của con người ..…………………………..7
b. Sự đau khổ và sự giải thoát …………………………………………8
II. Ảnh hưởng của Triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt
Nam ……………………………………………………………………………10
2.1 Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam xưa kia ……………10
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo tới thế hệ trẻ ngày nay ………………..11
Phần C: Kết luận ………………………………………………………………15
PHẦN A: MỞ ĐẦU
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học – tôn giáo lớn nhất trên
thế giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng phật tử
đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào nước ta từ những
năm đầu công nguyên do các nhà sư từ Ấn Độ truyền bá và từ Trung Quốc truyền
sang từ thế kỷ IV đến thế kỷ V sau công nguyên, đã nhanh chóng trở thành một
tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam.
Mỗi giai đoạn lịch sử, dân tộc ta đều có một học thuyết tư tưởng hoặc một tôn giáo
nắm vai trò chủ đạo, tác động mạnh đến nếp sống, suy nghĩ của con người như
Phật giáo, Nho giáo, học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy nhiên, song song tồn
tại với nó vẫn có các học thuyết, tôn giáo khác tác động vào các khu vực khác
nhau của đời sống xã hội.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, chủ nghĩa
Mác – Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh
đó, giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận
lớn dân cư Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của
đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết.
Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, nhân đạo
của Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một
phương cách để hướng đạo cho họ một nhân cách đúng đắn. Theo đạo để làm điều
thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ không trở nên mê
tín dị đoan, cúng bái, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng
nhân dân.
Hơn nữa, quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với
quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy khi
nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật
giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và con
người Việt Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định
hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.
PHẦN B: NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO
1.1 Nguồn gốc ra đời
Người sáng lập ra Phật giáo là Thái tử Siddhartha (563-483TCN), con trai
của Trịnh Phạn Vương (Suddhodana) vua nước Trịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc
Bắc Ấn Độ (nay thuộc đất Nê Pan). Năm 29 tuổi, Thái tử Siddhartha xuất gia đi tu
để tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Nhưng qua 7 năm,
theo các bậc chân tu khổ hạnh của truyền thống tu luyện Ấn Độ mà Người vẫn
chưa tìm ra chân lý. Cuối cùng, Người lang thang đến cánh rừng thiêng Uravela và
ngồi thiềng dưới gốc cây bồ đề. Sau 3 ngày đêm suy ngẫm, Người phát hiện ra bản
tính vô ngã, vô thường của thế giới, tiếp tục ngồi dưới gốc cây bồ đề thêm 49 ngày
nữa để chiêm nghiệm tâm linh và giải thích thấu đáo bản chất của tồn tại, nguồn
gốc của mọi khổ đau. Người cho rằng, mình đã tìm ra con đường để cứu vớt chúng
sinh. Rồi từ đó trở đi người ta gọi ông là Phật (Buddha), nghĩa là người đã giác
ngộ – thấu hiểu chân lý. Giáo đoàn Phật giáo được ông xây dựng để rao giảng giáo
lý của mình; đệ tử tôn xưng ông là Thích ca Mâu ni, nghĩa là là bậc hiền triết của
dòng tộc Thích ca.
1.2 Kinh điển của triết học Phật giáo.
Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh điển
rất lớn khoảng 5000 cuốn, được tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là “Tam Tạng”
gồm:
– Tạng Luật: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho cả
năm bộ phái Phật giáo như: “Tứ phần luật” của thượng tọa bộ, Maha tăng kỷ luật
của “Đại chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” … Sau này còn thêm các Bộ
luật của Đại Thừa như An lạc, Phạm Võng.
– Tạng Kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều tập
dưới dạng các tiền đề.
– Tạng Luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật
giáo. Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo
pháp của Phật giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và nhân
sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (chử pháp) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục
(vô thường) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều
thuộc về một giới (vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp
(mỗi một sự việc hiện tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến
toàn Pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn
luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và qui định lẫn nhau.
1.3 Tư tưởng triết học Phật giáo
1.3.1 Thế giới quan
Quan điểm về vật chất và sự vận động của vật chất: Thế giới là thế giới vật
chất, các sự vật hiện tượng trong vũ trụ gọi là Vạn phát, không do một đấng linh
thiêng nào sinh ra và tạo thành, mà được tạo từ những phần tử vật chất nhỏ bé nhất
của vũ trụ gọi là bản thể, thực tướng.
Ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của Triết
học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới
của các “đấng tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại
khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự
thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình thức của vạn vật trong
vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng lại ở bất kỳ hình thức
nào. Nó muôn hình vạn trạng nhưng lại tuân hành nghiêm ngặt theo luật nhân quả.
Phật giáo cho rằng, sự vật hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn
chuyển động, biến đổi gọi là vô thường. Với quan điểm đó, Phật giáo cho rằng
không phải sinh ra mới gọi là sinh, chết đi mới gọi là chết mà trong sự sống có cái
chết, chết không phải là hết mà là điều kiện để sinh thành cái mới.
Sự biến đổi của vạn vật trong vũ trụ bị chi phối bởi quy luật nhân duyên.
Nhân là mầm tạo thành quả, duyên là điều kiện, phương tiện. Các sự vật hiện
tượng trong vũ trụ đều do nhân duyên mà thành. Tùy theo nhân duyên kết hợp mà
tạo thành các sự vật khác nhau. Một sự vật hiện tượng không phải do một nhân
duyên mà do nhiều nhân duyên khác nhau. Nhân duyên không tự nhiên mà có mà
do cá nhân duyên trước tạo thành. Vì vậy, vạn vật trong vũ trụ đều có mối quan hệ
mật thiết, nương nhờ và tác động chi phối lẫn nhau.
Do qui luật nhân duyên quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không
ngừng: Sinh, trụ, dị, diệt (sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong). Quá
trình đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất
lượng của sự vật và hiện tượng.
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thường của vạn vật, đã
xây dựng nền thuyết “ nhân duyên”. Trong thuyết “nhân duyên” có ba khái niệm
chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên.
– Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi là
Nhân.
– Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả.
– Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không
phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho
sự biến chuyển của vạn Pháp.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô
thường của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lại. Phật giáo đã trình
bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” (mười hai quan hệ nhân duyên) được coi là
cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của sự liên kết
nghiệp quả.
+ Vô minh: (là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng
tỏ).
+ Hành: (là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo
ra cái nghiệp, cái nếp).
+ Thức: (Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả
cho hành và làm nhân cho Danh sắc).
+ Danh sắc: (Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của
ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho Lục
xứ).
+ Lục nhập: ( Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và tri thức.
Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục nhập mà có
xúc – tiếp xúc, ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho Xúc.)
+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở
rộng xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân
cho Thụ.)
+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình.
Do thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.)
+ Ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái
làm quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.)
+ Thủ: (Là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ
làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu)
+ Hữu: (Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp.
Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh).
+ Sinh: (Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm
súc sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).
+ Lão tử: (Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết.
Nhưng chết – sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là
hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi
vào vòng luân hồi (khổ não).
Vô mình là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Do nó, vì nó mà con người
khổ.
“Vọng tâm, chấp ngã” cho rằng cái ta trường tồn, trên hết và vĩnh viễn, từ
đó sinh ra vị kỷ, tham lam, dục vọng và có những hành động tương ứng. Những
hành động tương ứng đó tạo ra nghiệp (tam nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý
nghiệp). Do đã tạo nghiệp, đặc biệt là nghiệp ác, mà con người không rút ra khỏi
vòng luân hồi, sinh tử được.
Mối quan hệ Nhân – Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian và
thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới không tính
đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ được
tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hợp tạo nên
nó. Cũng như nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong một có tất cả trong tất cả
có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan
thì diệt.
Vạn vật sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau mà
ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dòng biến hoá vô tận vô thường
vô thực thể, vô bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thường của vạn vật,
vạn sự theo nhân duyên là thường còn không thay đổi.
Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ
là dòng biến hoá hư ảo vô cùng, không có gì là thường định, là thực, là không thực
có sinh, có diệt, có người, có mình, có cảnh, có vật, có không gian, có thời gian.
Đó chính là cái chân lý cho ta thấy được cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy
được điều đó gọi là “ chân như” là đạt tới cõi hạnh phúc, cực lạc, không sinh,
không diệt, niết bàn.
Quan điểm về không gian – thời gian: thời gian là vô cùng, không gian là vô
tận. Triết học Phật giáo vẫn đưa ra khái niệm đo lường cụ thể: Về không gian thì
có “Tam thiên”: Đại thiên, Trung thiên và Tiểu thiên, trong mỗi Tiểu thiên thế giới
thì có hàng chục ngàn thế giới khác; Về thời gian thì có “Tam kiếp”: Đại kiếp,
Trung kiếp và Tiểu kiếp, mỗi Tiểu kiếp thì có hàng chục triệu năm.
1.3.2 Nhân sinh quan
a. Sự hình thành và cái chết của con người
Con người không do thần thánh sinh ra, mà là một bộ phận của giới tự
nhiên, một phần đặc biệt của giới tự nhiên. Con người gồm 2 phần: Phần sinh lý
và phần tâm lý
– Sinh lý tức là thể xác: xương, thịt, da, tóc, phủ tạng…, hình chất với yếu
tố “sắc”, do 4 yếu tố vật chất tạo thành: địa, thủy, hỏa, phong. Trong đó, địa tạo
thành phần cứng; thủy tạo thành chất lỏng; hỏa tạo thành nhiệt; phong tạo thành
hơi thở.
– Tâm lý (tinh thần – ý thức): thụ, tưởng, hành, thức.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý ( tinh thần ) của con người
là:
+ Thụ: những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng.
+ Tưởng: suy nghĩ, tư tưởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
+ Thức: nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.
Biểu hiện bằng 7 yếu tố tình cảm (thất tình): Ái, Ố, Nộ, Hỷ, Lạc, Ai, Dục.
Phần tâm lý dựa vào phần sinh lý và gán liền với phần sinh lý.
Chết chưa phải là hết (Chấp đoạn) mà sau khi chết linh hồn bất tử tiếp tục
đầu thai vào kiếp khác (chấp thường). Phật giáo giải thích con người sau khi chết
bằng 2 thuyết: Nghiệp báo và Luân hồi.
Trong quá trình tồn tại (do Ngũ uẩn tạo thành) con người có hành động
thiện và ác, từ đó tạo thành nghiệp và theo luật Nhân – Quả thì việc làm thiện ác
đó đã tạo nên nguyên nhân để tạo ra sự kết hợp của Ngũ uẩn tiếp theo (tạo ra một
con người mới), cứ như thế nó kéo con người vào vòng luân hồi, sinh tử không dứt
từ kiếp này sang kiếp khác.
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân – Duyên tạo thành mỗi sinh vật
cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn thì là
diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân – Duyên là vô cùng tận.
– Các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui luật nhân hoá
không ngừng không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn. Không có
sự vật riêng biệt, cố định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không còn là cái tôi
hôm nay.
Như vậy thế giới là biến ảo vô thường, vô định. Chỉ có những cái đó mới là
chân thực, vĩnh viễn, thường hằng. Nếu không nhận thức được nó thì con người
sẽ lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì cũng của ta. Do đó,
mà con người cứ khát ái, tham dục cứ mong muốn và hành động chiếm đoạt tạo ra
kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu gây nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ
triền miên không bao giờ dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không thấy
được cái luật nhân bản của mình (bản thể chân thực). Khi đã mắc vào sự chi phối
của Luật Nhân – Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi, luân chuyển
tuần hoàn không ngừng, không dứt.
b. Sự đau khổ và sự giải thoát
Tư tưởng xuyên suốt của triết học Phật giáo là tư tưởng về sự giải thoát.
Giải thoát chúng sinh khỏi cái luân hồi. Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời
con người là do “thập nhị nhân duyên” làm cho con người rơi vào bể trầm luân.
Đạo Phật đã chủ chương tìm con đường diệt khổ. Để giải thoát, Phật giáo đưa ra
thuyết “Tứ diệu đế” (4 chân lý vĩ đại)
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng sinh
phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
1. Khổ đế: là chân lý nói về sự khổ của người đời và Phật giáo đã khái quát
trong thuyết Bát khổ: Sinh – Lão – Bệnh – Tử: Con người và vạn vật sinh ra là khổ,
ốm đau là khổ, già yếu là khổ, chết là khổ; Sở cầu bất đắc khổ: điều con người cầu
mong, mong muốn nhưng không được thỏa mãn là khổ, Biệt ly khổ: phải xa người
mà mình yêu thương là khổ, Oán tăng hội khổ: phải sống với người mình không
ưa là khổ, Ngũ thụ uẩn khổ: khổ vì sự hội tụ của ngũ uẩn.
Cuộc đời của con người ngoài cái khổ ra thì không còn hiện diện gì cả. Dù
ở đâu, làm gì cũng khổ.
2. Tập đế (Nhân đế): là chân lý nói về nguyên nhân tạo ra sự khổ và Phật
giáo giải thích nguyên nhân sâu xa cảu sự khổ là do Thập Nhị Nhân Duyên tạo ra
chu trình khép kín trong con người. Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy do
những gì tụ tập lại mà tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh?
Đó là do con người có lòng tham, dâm (giận dữ), si (si mê, cuồng mê, mê
muội) và dục vọng. Lòng tham và dục vọng của con người xâu xé là do con người
không nắm được nhân duyên. Vốn như là một định luật chi phối toàn vũ trụ.
Chúng sinh không biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không không. Cái tôi tưởng
là có nhưng thực là không. Vì không hiểu được ra nỗi khổ triền miên, từ đời này
qua đời khác.
3. Diệt đế: là chân lý nói về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi cuộc
sống chúng sinh để đạt tới niết bàn. Là phải thấu hiểu được “ Thập nhị nhân
duyên” để tìm ra được căn nguyên của sự khổ – để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ
của cái khổ. Thực chất là thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, sinh tử.
Niết bàn là trạng thái tâm hồn đã đoạn trừ được các ràng buộc trần thế,
những đau khổ, phiền não do vô minh, tham dục gây ra. Niết bàn là tâm hồn hoàn
toàn giải thoát. “Hữu dư niết bàn” là hình thức chỉ đạt được bởi con người đang
mang thân ngũ uẩn (Niết bàn ngay trong tâm); “Vô dư niết bàn” là hình thức chỉ
đạt được sau khi lìa bỏ thân xác.
4. Đạo đế: là chân lý nói về con đường tu tập phải theo, Phật giáo chủ
trương vừa lấy trí tuệ, diệt trừ vô minh phá vòng luân hồi, lại thường xuyên tu tập
diệt trừ thăng dục để chuyển nghiệp đạt đến sự giải thoát.
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật tập
trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày Bát chính Đạo – buộc ta phải tuân
thủ bát chính đạo gồm:
– Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phải trái, không để cho
những cái sai che lấp sự sáng suốt.
– Chính tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn.
– Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
– Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho người khác.
– Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà, không
được bỏ điều nhân nghĩa.
– Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vươn lên để đạt
tới chân lý.
– Chính niệm: Phải luôn luôn hướng về đạo lý chân chính, không nghĩ đến
những điều bạo ngược gian ác.
– Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính, không bị
thoái chí, lay chuyển trước mọi cán dỗ.
Muốn thực hiện được “Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực
hiện nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người
làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp
đó là thực hiện “ Ngũ giới” (năm điều răn) và “Lục độ” (Sáu phép tu).
– “Ngũ giới” gồm:
+ Bất sát:
Không sát sinh
+ Bất đạo:
Không làm điều phi nghĩa.
+ Bất dâm: Không dâm dục.
+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ khác,
không nói dối.
– “Lục độ” gồm:
+ Bố thí: Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách
thành thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm
chủ được mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
+ Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính không
để cho cái xấu cho lấp.
+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế
gian.
“Tam học”:
+ Giới: điều răn, cấm, quy định giúp người tu hành không phạm phải
lỗi lầm do tam nghiệp gây ra.
+ Định: phương pháp giúp người tu hành không tán loạn , phân tâm,
nhờ đó loại trừ được ý nghĩ xấu.
+ Tuệ: sự bừng sáng của tư duy.
Quan trọng nhất là Giới, thực hiện Giới, tâm mới định, đầu mới sáng, từ đó
mới diệt trừ được vô minh.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát
hành đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra khỏi
nỗi khổ. Phật giáo không chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã hội. Đó là một
trong những nhược điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng
trước bể khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải
cải tạo thế giới hiện thực. Tinh thần nhân văn nhân đạo: hướng con người tới sự
giải thoát, không phải là đặc ân riêng cho gia cấp nào, nhưng triết học Phật giáo
không gắn liền với thực tiễn. Như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần,
phủ nhận đấng sáng tạo (vô ngã, vô tạo giả) và có tư tưởng biện chứng (vô thường,
lý thuyết Duyên khởi). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm
chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô minh của con người
tạo ra.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾ
N ĐỜI SỐNG TINH
THẦN NGƯỜI VIỆT NAM:
2.1 Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam xưa kia:
Đạo phật truyền vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã trở
thành một trong những hệ tư tưởng. Tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến
mãi ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tinh thần của người
Việt Nam
Vào lúc này, mặc dù đang phải chống lại các thế lực thực dân phương bắc,
nhân dân Việt Nam vẫn đủ thông minh, tỉnh táo để tiếp nhận Đạo Phật đến với dân
tộc ta bằng tinh thần hoà bình, hữu nghị. Sự tiếp nhận đạo phật trong hoàn cảnh
như vậy, không thể bỏ qua vấn đề nội dung của đạo phật. Điều đó có nghĩa là bản
thân đạo phật phải có những nội dung nào đó mà nhân dân Việt Nam có thể chấp
nhận được. Ở đây chính là nội dung của hai nền tín ngưỡng có nét giống nhau, có
lẽ do những nét giống nhau mà có sự hợp nhất tạo nên các chùa pháp vân, pháp
vũ, pháp nôi, pháp điện. Tức là tín ngưỡng phật và tín ngưỡng thần của Việt Nam
khi đó có sự hợp nhất. Hình ảnh phật đã trở thành hình ảnh bụt.
Một điều thể hiện đặc biệt mà nhiều người đã nhắc đến là phật giáo vốn dễ
hoà hợp với tín ngưỡng dân gian ở những nơi nó được truyền bá đến. Ở bắc Việt
Nam đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ
tiên (linh hồn người thân đã khuất) thì phật hay quan âm cũng được coi là một thứ
tổ tiên (trong tâm thức dân gian việt cổ, phật hay quan âm không phải là người
“ngoại quốc”, người khác tộc). Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần
(thế lực siêu nhiên) mà con người cũng cầu để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì phật hay
quan âm cũng trở thành một loại thần, phật điện cũng trở thành một thứ thần điện,
tính tâm linh ấn độ nhường bước cho tính tính Việt Nam (hơn đâu hết, tôn giáo
Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý, giỏi luật, đoàn thể, tôn giáo)
Dòng Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài trong xã hội Việt Nam là
Thiền Tông. Thiền Tông có một số đặc điểm mà dân gian dễ chấp nhận.
+ Phật giáo Thiền Tông ít bàn về lý luận mà chuyển sang tông phong phong
cách tu hành. Thiền Tông chủ trương “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền trực
chỉ nhân tâm, kiến tính thành phật, tức tâm thị Phật”. Như vậy chủ chương của
Thiền tông là lôi kéo thế giới Tây Phương cực lạc về trần thế, đặt nó trong lòng
con người, tâm thị Phật.
+ Thiền tông chủ trương lao động theo thanh qui của Bách Trượng (720-
814) : “ Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày không làm, một ngày
không ăn) và lấy việc phục vụ xã hội làm điều kiện tu hành. Điều này khiến cho
các tăng nhân không phải là một tầng lớn ăn bám xã hội.
Thiền tông lại chấp nhận sự bần khổ coi sự chịu đựng bần khổ cũng là cách
tu hành.
Chấp nhận bần khổ và lao động là điều khiến Thiền Tông dễ đi vào nông
thôn, dễ bám vào làng xã, đứng được trong làng quê.
+ Thiền tông có khi còn đi xa hơn nữa, cho phép sát sinh, giết người, giết
một người mà cứu được muôn người quả là điều phúc. Phật tử không hoàn toàn là
người bị động mà có thể vùng lên chống áp bức bóc lột. Do vậy ở Việt Nam thời
phong kiến cũng có nhiều cuộc nổi dậy giành chính quyền do nhà sư lãnh đạo.
Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức,
kết hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và ngôi chùa có vai trò quan trọng
trong đời sống dân gian cổ truyền. Ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có
chùa. Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị
tướng có công với nước. Ngôi chùa trở thành một trung tâm văn hoá ở nông thôn.
Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho
giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì Phật giáo có phần làm
mền hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu
cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hòa
cái ta của mình vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả
chiết tâm hồn. Dưới mái nhà chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Bao nhiêu
câu chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Phật chứng nhận
cho cuộc sống hồn nhiên của làng xã.
Đạo phật có thể mất đi, như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý
của văn hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.
Từ khi du nhập Việt Nam đến nay, Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với lịch
sử dân tộc, nó ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hoá, nếp sống
của người Việt.
Tư duy người Việt có thêm 1 loạt khái niệm lấy từ Phật giáo. Những khái
niệm đó góp phần làm tăng những khái niệm mang tính triết lý của người Việt,
khiến tư duy người Việt mang tính khái quát hơn, trừu tượng hơn.
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo tới thế hệ trẻ ngày nay.
Ngày nay ở nước ta Phật giáo không còn ở vị trí chính thống Nhà trường ở
các cấp học phổ thông không có chương trình giảng dạy lịch sử, triết lý, đạo đức
Phật giáo một cách hệ thống. Số gia đình Phật tử cũng không còn đông như trước
đây. Sinh viên các trường Đại học chỉ nhận được rất ít kiến thức sơ bộ về Phật
giáo thông qua bộ môn “lịch sử triết học Phương Đông”, trừ những khoa chuyên
ngành Triết học. Vì thế phần lớn những hiểu biết của chúng ta về Phật giáo trước
hết là chịu ảnh hưởng tự nhiên của gia đình, sau đó là từ bạn bè, thầy cô và những
mối quan hệ xã hội khác. Trong đó ảnh hưởng của gia đình có tác động lớn lên
mỗi chúng ta. Nếu trong mỗi gia đình mọi người đều theo đạo phật hoặc không
theo một tôn giáo nào nhưng vẫn giữ tập tục quan trọng đi lễ chùa vào những ngày
âm quan trọng như ngày Tết, lễ, rằm … Người già thường nói chuyện với con cháu
về Đức Phật, Bồ Tát, về đạo lý làm người dựa vào các giáo lý Phật giáo. Những
suy nghĩ quan niệm này có thể phai nhạt, thậm chí đi ngược lại khi ta gặp một trào
lưu tư tưởng mới, đem lại một thế giới quan mới từ trong môi trường gia đình
chúng ta phần nào đó chịu ảnh hưởng của đạo phật nhưng không sâu sắc như các
triều đại trước và mục đích tìm đến Đạo phật không còn mang tính hướng đạo
chân chính như trước kia nữa. Do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết do sự xâm
nhập của nhiều trào lưu tư tưởng, học thuyết Phương Tây vào nước ta cách đây vài
ba thế kỷ. Đặc biệt là sự giác ngộ lý luận Mác – Lênin, chủ nghĩa cộng sản của giai
cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã tạo tiền đề xây dựng hệ thống
tư tưởng, nguyên tắc hành động cho phong trào cách mạng của nhân dân Việt
Nam, lấy đó làm vũ khí chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang. Đảng ta rất chú
trọng việc truyền bá học thuyết này cho quần chúng nhân dân nhất là đối tượng
thanh thiếu niên, những người chủ tương lai của đất nước. Chính vì vậy, thanh
thiếu niên, chúng ta ngày nay khi rời ghế nhà trường được trang bị không những
kiến thức để làm việc mà còn cả kiến thức về lý luận chính trị. Điều này giúp ta
nhận thức được về cơ bản giữa mô hình lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và chủ
nghĩa cộng sản là: Một bên là duy tâm, một bên duy vật. Một bên diệt dục triệt để
bằng ý chí và coi dục là căn nguyên của mọi tội lỗi, bên kia thì cố gắng thoả mãn
nhu cầu ngày càng tăng của con người bằng lao động với năng suất và chất lượng
cao nhằm cải tạo thế giới, coi nhằm cải tạo thế giới, coi đó là tiêu chuẩn đánh giá
tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một bên hứa hẹn một mô hình niết bàn
bình đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ bi bác ái như nhau, không còn bị ràng
buộc bởi các nhu cầu trần tục, còn bên kia khẳng định mô hình lý tưởng cho mọi
người lao động, coi lao động là nhu cầu sống chứ không phải phương tiện sống,
lao động không còn là nguồn gốc của khổ đau, qua lao động con người hoàn thiện
cả bản thân và hoàn thiện cả xã hội.
Đấy là những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa Mác – Lê nin. Nó phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại, của xã hội. Do đó, nó nhanh chóng được thanh niên
ủng hộ, tiếp thu. Do có một số quan điểm ngược lại nên tất yếu Phật giáo không
còn giữ một vai trò như trước đây nữa.
Mặt khác, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực
trong đời sống con người đều có bước nhar vọt. Xu thế toàn cầu hoá thể hiện ngày
càng rõ nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phải hết sức năng động, nhanh nhạy
nắm bắt vấn đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý nhà Phật con người trở
nên không có tham vọng tiến thân, bằng lòng với những gì mình đã có, sống nhẫn
nhục, không đấu tranh, hướng tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm
dứt. Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của
con người xã hội, làm cho con người có thái độ chấp nhận chứ không phải là cải
tạo thế giới. Đạo đức xuất thể của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ
không phải chế ngự thiên nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã hội
của Phật giáo không phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội
bằng đạo đức, trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục… Đạo đức
nhà Phật bị giới hạn mở rộng mất giá trị nhân đạo nhờ chính thái độ yếu thế này,
khi những nhu cầu về thể xác bị coi là trần tục, kém đạo đức. Nhất là trong cuộc
sống ngày nay, khi mà con người đã đạt được một trình độ nhất định, quan niệm
trên càng không thể chấp nhận được. Do đó, ảnh hưởng của Phật giáo càng xa rời
thế hệ trẻ.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày ngay những người đi chùa hầu hết
không có đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách
tự giác, tích cực trong xã hội và gia đình. Phật giáo bác học cũng bị mai một
nhiều, không còn phát huy vai trò hướng đạo. Các cao tăng chưa ý thức được hết
vai trò của họ trong việc xây dựng hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam.
Chẳng hạn các buổi giảng kinh đàm đạo các buổi lễ trên chùa chưa được tổ chức
theo tinh thần khai thác những tinh thuý của đạo lý Phật giáo, mà phần nhiều theo
thị hiếu: Cầu an, giải hạn, cầu lộc… của giới bình dân. Phật giáo bình dân cũng sa
sút. Người dân lên chùa thường quá chú trọng đến lễ vật, đến các ham muốn tầm
thường. Do không được giáo dục đầy đủ, đúng đắn giáo lý nhà Phật, số đông thanh
thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi người. Họ đến chùa cúng bái, thắp hương
vái xin phật, Bồ Tát, La Hán phù hộ độ trì cho họ đạt được mong muốn của mình.
Những mong muốn ấy thường là chuyện học hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất…
hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là hình thức đi chơi, giải trí với bạn bè kèm
theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói năng. Số lượng học sinh,
sinh viên nói riêng cũng như số lượng người dân đi chùa gần đây càng đông, song
xem ra ý thức cầu thiện, cầu mạnh về nội tâm còn quá ít so với những mong muốn
tư lợi. Có rất ít người đến chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng
nghiền ngẫm đạo lý làm người, về thiện – ác. Như vậy mục đích đến chùa của
người dân đã sai lầm, tầm thường hoá so với điều mà giáo lý nhà Phật muốn
hướng con người ta vào.
Nhưng ta cũng có thể thấy rằng những tư tưởng Phật giáo cũng có ảnh
hưởng ít nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Như ở các trường phổ
thông, các tổ chức đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo như “ Lá
lành đùm lá rách”., “ quỹ giúp bạn nghèo vượt khó” , “ quỹ viên gạch hồng” …
Chính vì vậy ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân đạo,
bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật
đã hoà tan với giá trị truyền thống của con người Việt Nam. Lên đến cấp III và vào
Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt động thiết thực hơn. Việc giúp đỡ
người khác không phải hạn chế ở việc xin bố mẹ tiền để đóng góp mà có thể bằng
chính kiến thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm với những con người gặp khó
khăn, những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã giúp
chúng ta, những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ nghị lực
và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt động thiết thực
như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn hoá cho trẻ em
nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo … Hình ảnh hàng đoàn thanh niên,
sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây dựng
đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả
những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động, sáng
tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt
đẹp của ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng
thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính
toán. Và ta không thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp
ấy. Và ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi cuộc sống ngày nay ngày càng
xuất hiện những hiện tượng tiêu cực. Trong khi có những sinh viên còn khó khăn
đã dồn hết sức mình để học tập cống hiến cho đất nước thì vẫn còn một số bộ phận
thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến,
người ta bắt gặp ở các quán Bar, sàn nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền
của bố mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ
bước vào ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ông bố bà mẹ cay đắng
nhìn những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ trẻ ngày
nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi những thứ ăn chơi sau
đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc giáo dục nhân cách
cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một trong những phương pháp hữu ích là
nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực
sự là công việc cần thiết cần làm ngay.
PHẦN C: KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào hiểu thêm được nguồn
gốc ra đời của Phật giáo, hệ tư tưởng của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã
hội và người dân ta, đồng thời hiểu thêm về lịch sử nước ta. Đặc biệt đề tài này
cho chúng ta thấy rõ vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đó là vấn đề xây dựng hình
thành nhân cách và tư duy con người Việt Nam trong tương lai với sự hỗ trợ của
những giá trị đạo đức nhân văn của Phật giáo, cũng như một số tư tưởng tôn giáo
khác.
Dù còn những khuyết điểm, hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận
những giá trị đạo đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng nội của
Phật giáo giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của
mình để không gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống
thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên bình. Bước sang thế kỷ XXI, chuẩn mực
nhân cách mà một thanh niên cần có đòi hỏi phải hoàn thiện cả về mặt thể xác lẫn
tinh thần, phải có đủ khả năng chinh phục cả thế giới khách quan lẫn thế giới nội
tâm.
Qua những vấn đề cơ bản trong Phật học, ta thấy Đạo Phật là một hệ thống
tư tưởng thống nhất quy tụ về Nhất Thừa Phật pháp. Tất cả giáo lý Phật là nền
tảng cho việc xây dựng con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao
quý nhất của đời mình, tiến tới con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng
cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người từ, bi, hỷ, x
ả, con người Phật.
Người học Phật, tu Phật hàng ngày phải sống với đạo, thực nghiệm đạo,
không một phút nào xa lìa đạo. Trong mọi hoạt động của thân, khẩu, ý đều phải
gắn liền với Đạo, thể hiện Đạo. Với cách sống như thế, người tu hành luôn là
người dũng cảm có đủ nghị lực chiến thắng ngũ dục, chiến thắng những bất công
áp bức.
Và một đặc điểm lớn nhất của đạo Phật là suốt đời, Phật không bao giờ tự
nhận là người duy nhất đem lại sự giải thoát cho loài người. Phật nói: Con người
ai ai cũng có Phật tính. Trước người đã có hằng hà sa số Phật.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về
kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận
gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải
tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người đều coi sự giải
thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại
và gắn liền với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân tích
cực hợp lý của Đạo Phật nhằm xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt
là thế hệ trẻ, là một mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự kết hợp giáo dục tổng hợp của
xã hội – gia đình – nhà trường – bản thân cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực
cả truyền thống và hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Cần – Tinh hoa Phật giáo (NXB thành phố HCM) – 1997
2. Thích Nữ Trí Hải dịch – Đức Phật đã dạy những gì (con đường thoát khổ)
(NNXB Tôn giáo – 2000)
3. PGS Nguyễn Tài Thư
– Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam
hiện nay (Nhà xuất bản chính trị quốc gia – 1997).
– Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1 (NXB quốc gia – 1993)
4.Tiểu ban triết học – Triết học phần I – 2011
5. PTS. Phương Kỳ Sơn – Lịch sử Triết học (NXB chính trị quốc gia –
1999)
6. Lý Khôi Việt – Hai nghìn năm Việt Nam và Phật giáo.