11484_Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng

luận văn tốt nghiệp

TIỂU LUẬN:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ
GẮN KẾT XÂY DỰNG ĐẢNG VỚI
CHỈNH ĐỐN ĐẢNG

Với tư cách người khởi xướng và trực tiếp lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định một cách
rõ ràng và dứt khoát rằng, trong suốt tiến trình công cuộc đổi mới này, xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt. Vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng không chỉ
có nghĩa đây là nhiệm vụ mang tầm quan trọng hàng đầu, mà còn có nghĩa là nhiệm
vụ đóng vai trò chi phối, quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới. Để xây dựng
Đảng ta thành một Đảng mang tầm trí tuệ, tầm tư tưởng, tầm phẩm chất, tầm năng
lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn cần có, đủ đảm đương được vai trò lãnh đạo và
đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước, thành
một Đảng thực sự “vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức”, khi thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng
ta đã khẳng định, Đảng “phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn”(1). Quan điểm
nhất quán này của Đảng ta – quan điểm gắn kết xây đựng Đảng với chỉnh đốn Đảng
– có cội nguồn tư tưởng từ tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
Thật vậy, là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ là người đầu tiên đưa ra quan điểm gắn kết xây dựng Đảng
với chỉnh đốn Đảng, mà còn là người luôn kiên định, luôn giữ vững quan điểm này.
Với Người, gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng không chỉ là một quy luật tất
yếu, mà còn là sự vận động và phát triển của Đảng trong suốt tiến trình phát triển
của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Với Người, xây dựng Đảng và chỉnh
đốn Đảng là hai mặt của một quá trình thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn
kết với nhau vì mục tiêu đem lại cho Đảng một chất lượng mới, một tầm cao mới để
Đảng luôn tồn tại với tư cách người lãnh đạo cách mạng, luôn phát triển với tư cách

Đảng cầm quyền. Do vậy, với Người, xây dựng và chỉnh đốn Đảng không chỉ là
nhiệm vụ then chốt, mang tầm chiến lược, mà còn là công việc thường xuyên của
Đảng trong vai trò lãnh đạo cách mạng, bởi “Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(2).
“Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có
trí khôn, tầu không có bàn chỉ nam” và “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”, “chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(3). Do vậy, với Chủ tịch Hồ Chí Minh –
người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với “lý luận cách mạng
tiền phong” mà có nó, “Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền
phong”, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trước hết phải dựa trên nguyên tắc nền tảng là
nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin “làm cốt”. Sở dĩ xây
dựng và chỉnh đốn Đảng đòi hỏi chúng ta phải kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt” là bởi, đối với sự vận động và phát triển của Đảng
ta, chủ nghĩa Mác – Lênin, theo Hồ Chí Minh, không chỉ là “lý luận cách mạng tiền
phong”, là “lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng”, mà còn là “học thuyết dạt
dào sức sống”, có khả năng làm cho Đảng ta “trở thành hình thức tổ chức cao nhất
của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc” và
giúp cho Đảng ta “khơi nguồn sức mạnh” của chính mình, “khơi nguồn lực lượng và
sức mạnh sáng tạo của nhân dân” để giành thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo(4). Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt” để xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, làm cho Đảng ta thực sự trở thành một Đảng cách mạng tiên phong, “Đảng
của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam” không có nghĩa là
giáo điều theo từng câu, từng chữ của C.Mác, của Ph. Ăngghen, của V.I.Lênin, mà
như Hồ Chí Minh đã nói, là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng
thời tiếp thu những tinh hoa của văn hoá dân tộc và nhân loại, tham khảo những kinh
nghiệm của các nước, các Đảng anh em, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của Việt Nam để định ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn cho cách
mạng Việt Nam; là phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, hiểu rõ phong trào cách

mạng Việt Nam để vận dụng sáng tạo và hơn nữa, còn bổ sung, phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, xây dựng và chỉnh đốn Đảng còn
đòi hỏi Đảng phải luôn kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội – “con
đường chung của thời đại, của lịch sử” – trên đất nước ta; kiên định vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với cách mạng Việt Nam; kiên định sự nghiệp xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển và thực
hành dân chủ rộng rãi với tư cách “cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn”(5); xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam –
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để làm tròn sứ mệnh lịch sử
lớn lao đó, trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải dũng
cảm, thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm và kiên quyết từ bỏ những gì đã trở nên lạc
hậu, lỗi thời hay sai trái để tạo ra những cái mới, đúng đắn hơn, tiến bộ hơn. “Một
Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình – Người nhấn mạnh – là một Đảng hỏng.
Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà
có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa
chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân
chính”(6).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa
là đầy tớ của nhân dân; Đảng cầm quyền nhưng nhân dân là chủ; không chỉ có nước
mới lấy dân làm gốc, mà Đảng cũng phải lấy dân làm gốc, bởi cái gốc này chính là
cái đem lại sinh lực vô tận cho Đảng; Đảng cầm quyền nhưng Đảng không có quyền
lợi gì của riêng mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc, của nhân dân. Do
vậy, theo Hồ Chí Minh, xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao sức mạnh chiến
đấu của Đảng luôn đòi hỏi Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng với dân, thực hiện “Đảng – dân một ý chí” để Đảng không ở trên
dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân, trong lòng nhân dân và “xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(7).
Với những nhận thức sâu sắc đó, ngay từ khi đứng ra thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:

“Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai
cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”(8). Kể từ đó, trong
suốt những năm tháng lãnh đạo Đảng, lãnh đạo cách mạnh Việt Nam, Người đã đưa
ra nhiều quan điểm đúng đắn để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nhận
thức một cách đúng đắn rằng, Đảng phải “giành được địa vị lãnh đạo” và luôn củng
cố địa vị lãnh đạo ấy bằng cách thường xuyên kết hợp xây dựng Đảng với chỉnh đốn
Đảng để “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”, vững mạnh, để luôn được quần chúng
thừa nhận Đảng là “một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực
nhất”.
Không chỉ thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng, Đảng chỉ có thể trong sạch,
vững mạnh, chỉ trở thành đội tiên phong và giành được vai trò lãnh đạo cách mạng,
khi gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng trở thành một nguyên tắc, một nhu
cầu bức thiết trong suốt quá trình vận động và phát triển của Đảng với tư cách
người lãnh đạo cách mạng và mỗi khi cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới thì
đây là “việc cần phải làm trước tiên”.
Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng không biết mệt mỏi của
mình, trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh đạo Đảng
Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định quan điểm gắn việc xây
dựng đường lối chiến lược, sách lược cho cách mạng Việt Nam với việc xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam;xây
dựng Đảng, không ngừng nâng cao bản lĩnh và trí tuệ Đảng phải gắn liền với chỉnh
đốn Đảng, thường xuyên nâng cao sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh, thực sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Với quan điểm nhất quán này, với nhận thức sâu sắc rằng, đoàn kết là cái làm nên
sức mạnh to lớn của Đảng, là cội nguồn dẫn đến mọi thành công của Đảng, đoàn kết
trong Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân và với tư cách là hiện thân cho
sự đoàn kết trong Đảng, mỗi khi “nói về Đảng”, về sự gắn kết xây dựng Đảng với
chỉnh đốn Đảng, bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói về việc giữ gìn sự đoàn kết
trong Đảng. Thấu hiểu hơn ai hết truyền thống đoàn kết của Đảng ta ngay từ những
ngày đầu thành lập, nhận thức sâu sắc hơn ai hết về vai trò cực kỳ quan trọng của sự

đoàn kết, nhất trí trong Đảng, Người đã khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta” và chính là “nhờ đoàn kết chặt chẽ, một
lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày
thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu
tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Với khẳng định này, với mong muốn
đã trở thành khát vọng – mong muốn việc giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng
cần phải trở thành truyền thống của Đảng ta, Người yêu cầu Đảng ta, từ Trung ương
đến các chi bộ, từ cán bộ lãnh đạo đến đảng viên thường, đều “cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(9).
Nhận thức sâu sắc truyền thống đoàn kết trong Đảng bắt nguồn từ truyền thống đoàn
kết của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước, với lập trường cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là quan niệm
của V.I.Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định rằng, gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng để tạo nên sự
thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, làm cho toàn Đảng trở thành một
khối đoàn kết vững chắc và mọi đảng viên trong Đảng đều phải có ý thức giữ gìn,
bảo vệ sự đoàn kết thống nhất ấy cũng là một nguyên tắc vận động và phát triển của
Đảng cầm quyền. Với khẳng định này, Người đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng
sự đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng như khối đại đoàn kết toàn dân và coi việc
xây dựng sự đoàn kết trong Đảng là nòng cốt để xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân. Người coi sự thống nhất về đường lối, về quan điểm là cơ sở để tạo nên sự
thống nhất về hành động trong toàn Đảng nhằm đưa đường lối, quan điểm của Đảng
vào cuộc sống, biến các chủ trương của Đảng thành hành động cách mạng của quần
chúng nhân dân. Không chỉ thế, Người còn cho rằng, trong cuộc đấu tranh cách
mạng lâu dài và gian khổ, khi tình hình càng phức tạp, nhiệm vụ càng nặng nề thì khi
đó, “sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt
chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”, bởi sự đoàn kết thống nhất của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo có ảnh hưởng lớn đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến
sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng(10).
Gắn kết xây dựng với chỉnh đốn Đảng để tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong toàn

Đảng, theo Hồ Chí Minh, trước hết Đảng phải lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc
tổ chức của Đảng để tạo nên trong toàn Đảng sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức,
hành động và làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một
người”(12), vừa phát huy được sức mạnh của mỗi đảng viên, vừa phát huy được sức
mạnh của toàn Đảng; phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ để mọi cán bộ, đảng
viên đều có thể tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề hệ trọng của Đảng;
thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách với tư cách nguyên tắc lãnh đạo
của Đảng và đặc biệt, phải thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với tư
cách nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, quy luật phát triển của Đảng. Nói về điều này,
Người đã nhấn mạnh rằng, “muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất
tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”(13). Rằng,
“trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình
và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của
Đảng”(14).
Đặc biệt nhấn mạnh vai trò lớn lao của việc thường xuyên thực hiện tự phê bình và
phê bình trong sự gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng nhằm tạo ra sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng và coi đó là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật
phát triển của Đảng, là phương thức không những phải “luôn luôn dùng”, mà còn
phải “khéo dùng”, phương thức tốt nhất, hiệu quả nhất và là “vũ khí sắc bén” để giữ
gìn, củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhiều lần nói về công tác này. Người cho rằng, tự phê bình và phê bình phải trở
thành công việc hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, từ người lãnh đạo đến đảng
viên thường, từ cấp trên đến cấp dưới đều phải thường xuyên, nghiêm túc thực hiện
“tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Làm được như
thế thì theo Người, “trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ khoẻ mạnh vô
cùng”(14). Với Người, tự phê bình và phê bình không chỉ giới hạn trong nội bộ Đảng,
mà còn cần phải được mở rộng đến mọi tầng lớp nhân dân lao động. Để tiến bộ, mọi
cán bộ, đảng viên đều phải biết “lắng nghe ý kiến của quần chúng”, “phải sẵn sàng
nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình”, đồng thời phải thường xuyên
nâng cao tính tự giác và luôn giữ thái độ trung thực, đúng mực trong tự phê bình và

phê bình, phải “biết thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí khác để
cùng nhau tiến bộ”(15). Trong tự phê bình và phê bình, theo Người, không được cá
nhân chủ nghĩa, không được phép mưu cầu lợi ích cá nhân, không được kiêu ngạo,
công thần, tự cao tự đại, phê bình người khác nhưng lại không muốn người khác phê
bình mình, không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không nghiêm túc, không
thật thà, “sợ tự phê bình thì sẽ mất thể diện, mất uy tín”. Tự phê bình và phê bình,
Người nhấn mạnh, không phải chủ yếu là để xử lý, mà cái chính là để mỗi cán bộ,
đảng viên đều nhận thức rõ mặt tốt mà phát huy, mặt còn yếu kém mà khắc phục, sửa
chữa, nhất là để cùng nhau tiến bộ và đặc biệt, trong tự phê bình và phê bình phải lấy
“tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” làm phương châm chủ đạo.
Gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng để “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”,
vững mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đặc biệt nhấn mạnh vai trò hết sức
quan trọng của việc giữ gìn, củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
trên cơ sở thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình, mà còn
khẳng định vai trò nền tảng, ý nghĩa quyết định của đạo đức cách mạng. Coi đạo đức
là cái gốc của người cách mạng, đạo đức cách mạng là cơ sở nền tảng của Đảng cầm
quyền, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên, đến việc xây dựng Đảng ta thành một Đảng “vừa là đạo đức, vừa
là văn minh”.
Với quan niệm đạo đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời” đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng, “ra sức làm việc” cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng, thực hiện tốt đường
lối, chính sách của Đảng, đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên
trước lợi ích cá nhân mình; “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”, vì Đảng, vì dân mà
đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc; “ra sức học tập” chủ nghĩa
Mác – Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến
công tác của mình để cùng tiến bộ, khi gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng
trên nền tảng đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang”(16). Rằng, sự nghiệp cách mạng rất vẻ vang nhưng cũng vô
cùng khó khăn, gian khổ mà Đảng là người lãnh đạo, do vậy, “cũng như sông thì có

nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì
cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”(17).
Với quan niệm như vậy về vai trò nền tảng, ý nghĩa quyết định của đạo đức cách
mạng, với nhận thức sâu sắc rằng “một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày
hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng phải thực hành đạo đức cách mạng mà bản thân Người là một
tấm gương ngời sáng. Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho chúng ta, khi nói về
xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Người vẫn không quên căn dặn: “Đảng ta là một đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”(18).
Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn
Đảng để Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là Đảng cầm quyền,
Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ những người kế thừa sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Coi việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và rất cần thiết”, Người luôn yêu cầu Đảng ta phải chăm lo
giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người cách mạng vừa
“hồng”, vừa “chuyên”.
Với tư cách người cộng sản quốc tế, luôn quan tâm đến phong trào cộng sản thế giới,
người suốt đời phụng sự không chỉ cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân
Việt Nam, mà cả cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản toàn thế giới, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Đảng ta và bản thân Người cũng thế, ra sức hoạt động và
góp phần đắc lực vào việc xây dựng khối đoàn kết giữa các Đảng Cộng sản và công
nhân quốc tế trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản một
cách “có lý có tình” và coi đó cũng là một nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng,
gắn xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng.

Như vậy, có thể nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, sự gắn kết
giữa xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng là để xây dựng Đảng ta thành một Đảng
cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp cách mạng to lớn của giai cấp và của dân
tộc, một Đảng “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, một Đảng tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn
Đảng vì mục tiêu lâu dài ấy, trước hết phải làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh, đoàn kết thống nhất trên cơ sở tự phê bình và phê bình, thực hành dân chủ
rộng rãi, phải làm cho Đảng trở thành một Đảng có đạo đức, có trí tuệ và hơn nữa,
phải làm cho Đảng luôn là một Đảng cầm quyền, luôn xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ giai cấp,
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, thiết lập
“quan hệ máu thịt” với nhân dân, thực hiện “Đảng – dân một ý chí”; đồng thời phải
chăm lo đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau và góp phần đắc lực vào việc xây
dựng khối đoàn kết giữa các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế.
Không chỉ thế, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh phải gắn bó hữu cơ với “chỉnh đốn lại Đảng”. Chỉnh đốn
Đảng là cơ sở để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và đối với một Đảng cầm
quyền, lãnh đạo cách mạng, khi cách mạng chuyển sang một giai đoạn phát triển
mới, chỉnh đốn Đảng cũng là “việc cần phải làm trước tiên”. Chỉnh đốn Đảng là làm
cho mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi chi bộ đều phải ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao
phó, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉnh đốn Đảng cũng là để xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh; để Đảng luôn giữ được vai trò lãnh đạo cách mạng, vai trò
tiền phong gương mẫu và phát huy được sức mạnh, bản lĩnh, trí tuệ của mình; để
Đảng không trở thành quan liêu, xa dân, thoái hoá, biến chất; để củng cố và nâng cao
lòng tin của dân với Đảng. Chỉnh đốn Đảng không có nghĩa là Đảng phạm phải
những sai lầm, thiếu sót nào đó cần phải sửa chữa, khắc phục, chỉnh đốn lại, bởi một
Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng không thể tránh khỏi thiếu sót, sai lầm. Chỉnh
đốn lại Đảng cái chính là để nâng chất lượng, năng lực lãnh đạo của Đảng lên một
tầm cao mới, đủ sức hoàn thành những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, nhất là
khi cách mạng chuyển sang một giai đoạn phát triển mới.

Kỷ niệm 117 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc chúng ta cùng nhau nhắc
lại tư tưởng của Người về sự gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng, thiết nghĩ,
là cần thiết và bổ ích, khi chúng ta đang sôi nổi thực hiện Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà một trong những mục tiêu của nó là
xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, như Người luôn nhấn mạnh,
luôn yêu cầu mỗi khi nói về Đảng, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng.r

(*) , Phó Giáo sư, tiến sĩ, Phó tổng biên tập Tạp chí Triết học.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 21.
(2) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.268.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.2, tr. 268, 280.
(4) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr.517, 519 -520.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr. 249.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr. 261.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr. 498.
(8) Hồ Chí Minh. Sđd., t.3, tr. 3.
(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr. 497.
(10) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr. 492.
(11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr. 553.
(12) Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr. 492.
(13) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr. 497 – 498.
(14) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr. 239.
(15) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr. 209, 289.
(16) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr. 283.

(17) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr. 252 – 253.
(18) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr. 557 – 558, 498.

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI TƯ
CÁCH THƯỚC ĐO TRÌNH ĐỘ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
NGUYỄN MINH HOÀN (*)
Tiến bộ xã hội là một phạm trù mang tính lịch sử. Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử
nhất định, vào địa vị xã hội và vào trình độ nhận thức, có người quan niệm sự vận
động của lịch sử diễn ra như thế này, có người lại quan niệm sự vận động của lịch
sử diễn ra như thế khác. Mặc dù vậy, trong lịch sử, khuynh hướng vận động của xã
hội, dù được quan niệm là diễn ra theo hướng nào đi chăng nữa, thì phần đông các
nhà tư tưởng đều cho rằng, khuynh hướng biến đổi của xã hội nói chung thường bắt
nguồn từ sự xung đột giữa người với người, trước hết trong những lĩnh vực kinh tế –
xã hội (đặc biệt là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế và địa vị xã hội). Rằng, việc giải quyết
mâu thuẫn lợi ích trong xã hội ngày càng công bằng hơn chính là nguồn gốc, là động
lực cho sự vận động và phát triển theo hướng tiến bộ của xã hội. Song, công bằng xã
hội còn là thước đo trình độ của tiến bộ xã hội trong tiến trình vận động, phát triển
của lịch sử và được thể hiện ra ở trình độ giải phóng con người.
Tuy không để lại một tác phẩm nào chuyên bàn về tiến bộ xã hội, nhưng với quan
niệm duy vật về lịch sử, về thực chất, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trực tiếp bàn về
tiến bộ xã hội và từ đó, đề xuất quan niệm về tiến bộ xã hội trong toàn bộ di sản lý
luận của mình trên cơ sở vạch rõ hạn chế của những quan điểm trước đó về tiến bộ
xã hội. Một trong những hạn chế đó, theo các ông, là ở chỗ, do bị bó hẹp trong điều
kiện lịch sử cụ thể và lợi ích giai cấp, các quan niệm ấy đã không thấy được vai trò
quyết định của lĩnh vực sản xuất vật chất đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã
hội. Các tác giả của những quan điểm đó hầu như chỉ đi tìm nguyên nhân vận động
của lịch sử xã hội từ những lực lượng phi vật chất (mà thường thuộc về lĩnh vực ý
thức xã hội). Vì thế, những tiêu chuẩn được xác định để đánh giá sự tiến bộ của xã

hội trong những quan điểm ấy cũng chỉ là sự cụ thể hoá ý thức xã hội bằng những
tiêu chuẩn, như sự phát triển của ý thức đạo đức, sự phát triển ý thức về tự do, sự
phát triển của lý tính – tư duy, sự phát triển ý thức pháp quyền, sự phát triển ý niệm
tuyệt đối,…
Ngược lại với những quan điểm đó, C.Mác và Ph.Ăngghen coi lịch sử xã hội là một
quá trình phát triển theo quy luật khách quan, nội tại và tất yếu, tương tự như quá
trình phát triển trong thế giới tự nhiên. C.Mác viết: “Sự phát triển của những hình
thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”[i], mà quá trình vận động
tiến lên của các hình thái kinh tế – xã hội ấy, suy cho cùng, đều bị quy định bởi sự
phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Quá trình vận động và phát triển
của xã hội diễn ra hết sức phong phú, phức tạp, đầy mâu thuẫn, trải qua những bước
quanh co, kể cả những bước thụt lùi. Mặc dầu vậy, đó không bao giờ là một quá
trình vận động vô hướng, mà luôn là một quá trình vận động theohướng tiến bộ, tức
là theo hướng đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Nói cách khác,
sự vận động của xã hội tuy diễn ra theo nhiều hướng khác nhau, hay nói như
C.Mác, trong sự vận động của xã hội, “người ta luôn thấy có những trường
hợp thoái bộ và loanh quanh”[ii], hoặc như V.I.Lênin đã nói, nếu “cho rằng lịch sử
thế giới tiến lên một cách đều đặn, bằng phẳng, không có – đôi khi – những bước
nhảy lùi lớn, thì là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý
luận”[iii], nhưng sự vận động ấy bao giờ cũng diễn ra theohướng chủ đạo là đi đến
tiến bộ, theo hướng là một hình thái kinh tế – xã hội này, sau một thời gian tồn tại
và phát triển thì đến một độ nào đó, cuối cùng, cũng sẽ bị thay thế bằng một hình
thái kinh tế – xã hội khác cao hơn về chất. C.Mác viết: “Về đại thể, có thể coi các
phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những thời
đại tiến triển dần dần của hình thái kinh tế – xã hội”[iv] Đương nhiên, không thể hiểu luận điểm này của C.Mác một cách cứng nhắc, theo
nghĩa là sự vận động, phát triển của bất kỳ quốc gia nào, khu vực nào trên thế giới
cũng đều phải lần lượt trải qua các phương thức sản xuất đó. Bởi lẽ, như đã nói trên,
lịch sử thế giới tiến lên không phải một cách đều đặn, bằng phẳng, không có những
bước nhảy lớn, kể cả những bước nhảy lùi lại phía sau lẫn những bước nhảy vọt về

phía trước. Ở đây, trong khuôn khổ một Lời tựa và với mục đích giới thiệu một
cách vắn tắt nhất, cô đọng nhất những kết quả nghiên cứu quan trọng nhất của
mình, C.Mác không đề cập một cách chi tiết đến sự vận động cụ thể đã từng xảy ra
của xã hội ở nơi này, nơi kia, vào lúc này, lúc khác, mà xem xét sự vận động ấy trên
những nét lớn, một cách khái quát, hay nói như C.Mác, “về đại thể”, toàn bộ lịch sử
vận động, phát triển của nhân loại theo hướng chủ đạo, bỏ qua những cái ngẫu
nhiên hay những bước đi chệch tạm thời khỏi hướng chủ đạo ấy. Thứ nữa, về những
phương thức sản xuất cụ thể mà, theo C.Mác, nhân loại đã trải qua, C.Mác cũng nói
một cách rất thận trọng là “có thể coi…”, chứ không phải dưới dạng một khẳng định
dứt khoát, nghĩa là C.Mác vẫn dành chỗ cho các công trình nghiên cứu về sau tiếp
tục cụ thể hoá, bổ sung, hoàn chỉnh, làm chính xác thêm. Mặc dầu vậy, sự khái quát
của C.Mác về lịch sử vận động, phát triển theo hướng đi lên của xã hội, tư tưởng cơ
bản của C.Mác về tiến bộ xã hội, coi tiến bộ xã hội là quá trình thay thế một hình
thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn về chất
cho đến nay vẫn hoàn toàn giữ nguyên giá trị. Như vậy, từ sự khái quát của C.Mác
về lịch sử vận động, phát triển theo hướng đi lên của xã hội, có thể khẳng định
rằng, tiến bộ xã hội là quá trình vận động của xã hội theo hướng một hình thái kinh
tế – xã hội này, sau một thời gian tồn tại, phát triển, đến một độ nào đó, cuối cùng,
sẽ bị thay thế bằng một hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn về chất.
Vậy cái gì là tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội?
Trên cơ sở khẳng định nguồn gốc vật chất quyết định sự vận động và phát triển của
xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong những hình thái kinh tế – xã hội khác nhau để phân chia trình độ của tiến
bộ xã hội ở từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Bởi lẽ, đó chính là yếu tố quyết
định sự phát triển của xã hội thông qua sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh
tế – xã hội trong suốt tiến trình lịch sử nhân loại. Nói cách khác, theo quan niệm của
C.Mác và Ph.Ăngghen, sự phát triển của lực lượng sản xuất chính là nền tảng của
mọi tiến bộ xã hội trong suốt lịch sử, kể từ khi xã hội có giai cấp. Ph.Ăngghen viết:
“Toàn bộ sự phát triển của xã hội loài người sau khi thoát khỏi giai đoạn dã man
của động vật, đều bắt đầu từ ngày mà lao động gia đình sản xuất ra được nhiều sản

phẩm hơn số cần thiết để nuôi sống nó, từ ngày mà một phần lao động có thể được
dùng không chỉ để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt mà còn để sản xuất những tư
liệu sản xuất nữa. Số sản phẩm lao động dư ra ngoài cái chi phí để duy trì lao động,
và việc hình thành và phát triển một quỹ sản xuất và dự trữ xã hội nhờ vào số dư ấy,
trước kia và hiện nay vẫn là những cơ sở của mọi tiến bộ xã hội, chính trị và tinh
thần (chúng tôi nhấn mạnh – N.M.H)”(5).
Song, theo quan điểm của Ph.Ăngghen, “trong lịch sử từ trước đến nay cái quỹ đó
vẫn là sở hữu của một giai cấp có đặc quyền, cùng với cái quỹ đó giai cấp này cũng
nắm được sự thống trị chính trị và sự lãnh đạo về tinh thần”(6). Vì vậy, chưa thể coi
sự phát triển đơn thuần của lực lượng sản xuất, hay nói đúng hơn, sự phát triển đơn
thuần của tư liệu sản xuất, là tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, sự phát triển của lực lượng sản xuất
trong một hình thái kinh tế – xã hội chỉ là tiêu chuẩn cơ bản nhất để so sánh sự phát
triển về mặt kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội này với một hình thái kinh tế –
xã hội khác. Bởi lẽ, trong xã hội có giai cấp, những thành tựu to lớn của sự phát
triển lực lượng sản xuất được coi là cơ sở của nền văn minh vẫn chỉ là kết quả được
thực hiện trong sự bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp khác và vì thế, cái “phúc
lợi của giai cấp này lại là tai hoạ của giai cấp kia”. C.Mác viết: “Công nhân càng
sản xuất nhiều thì anh ta có thể tiêu dùng càng ít; anh ta tạo ra càng nhiều giá trị thì
bản thân anh ta càng mất giá trị, càng bị mất phẩm cách; sản phẩm của anh ta tạo
dáng càng đẹp thì anh ta càng què quặt; vật do anh tạo ra càng văn minh thì bản
thân anh ta càng giống với người dã man; lao động càng hùng mạnh thì người công
nhân càng ốm yếu; công việc của anh ta làm càng phức tạp thì bản thân anh ta càng
trống rỗng về trí tuệ và càng bị nô lệ vào giới tự nhiên”(7).
Như vậy, ngay cả khi lực lượng sản xuất có đạt đến trình độ phát triển cao, nhưng
nếu quan hệ giữa người và người vẫn là quan hệ bóc lột, bất công, bất bình đẳng, thì
sự phát triển của lực lượng sản xuất vẫn mới chỉ dừng lại ở sự gia tăng và ngày
càng hoàn thiện của tư liệu sản xuất, chứ chưa phải là sự phát triển của con
người với tư cách một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất. Thêm nữa, nói tới
xã hội, trước hết là nói tới quan hệ giữa người với người, bởi xã hội, dưới bất kỳ

hình thức nào, như C.Mác đã nhận xét, đều là “sản phẩm của sự tác động qua lại
giữa những con người”. Vì vậy, dù tư liệu sản xuất có tăng lên bao nhiêu chăng
nữa, ngày càng hiện đại thêm bao nhiêu đi chăng nữa mà người lao động vẫn còn
phải chịu cảnh bị bóc lột, áp bức, bất công, lao động của anh ta, nói như C.Mác, vẫn
chưa phải là lao động tự nguyện, mà là lao động bị cưỡng bức, không phải là sự
thoả mãn nhu cầu lao động mà chỉ là một phương tiện để thoả mãn nhu cầu khác(8),
nghĩa là con người vẫn chưa được giải phóng hoàn toàn, thì cũng chưa thể nói xã
hội đã đạt đến đỉnh cao của sự tiến bộ. Nói cách khác, để cho những thành quả phát
triển của lực lượng sản xuất với tư cách sản phẩm sáng tạo của người lao động cuối
cùng phải trở thành phương tiện thoả mãn nhu cầu lao động và thông qua đó, phát
triển ngày càng toàn diện chính phẩm giá của người lao động, thì trước hết, cần phải
xoá bỏ sự áp bức, bất công của chế độ xã hội người bóc lột người, xây dựng một
chế độ xã hội công bằng, làm cho “con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của
chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình, trở
thành người tự do”(9). Đây chính là mục tiêu và mô hình xã hội công bằng và tiến
bộ theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Coi tiến bộ xã hội là sự kế thừa và phát triển toàn bộ những thành tựu vật chất và
tinh thần mà nhân loại đã sáng tạo ra trong suốt quá trình lịch sử, khi đưa ra mục
tiêu xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng và tiến bộ hơn, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã cho rằng, chính những nền tảng vật chất do xã hội tư sản tạo ra là
cơ sở vật chất cho sự nghiệp xây dựng một xã hội ngày càng công bằng hơn, bình
đẳng hơn, vì mục tiêu giải phóng và phát triển ngày càng toàn diện con người.
C.Mác viết: “Thời kỳ tư sản của lịch sử có sứ mệnh tạo ra cơ sở vật chất cho một
thế giới mới: một mặt, phát triển những sự giao dịch thế giới dựa trên sự phụ thuộc
lẫn nhau của tất cả loài người, cũng như phát triển những phương tiện của sự giao
dịch đó; mặt khác, phát triển các lực lượng sản xuất của con người và đảm bảo biến
nền sản xuất vật chất thành sự thống trị đối với các lực lượng của thiên nhiên nhờ
vào khoa học. Công nghiệp và thương nghiệp tư sản đang tạo ra những điều kiện
vật chất ấy của thế giới mới”(10), và “chỉ riêng những điều kiện này mới có thể hình
thành cái cơ sở hiện thực của một hình thái xã hội cao hơn, một hình thái xã hội mà

nguyên tắc cơ bản là mọi cá nhân đều được phát triển đầy đủ và tự do”(11).
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải
thích rõ tại sao chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được những thành quả phát triển cao của
lực lượng sản xuất nhưng vẫn chưa thực hiện được mục tiêu tiến bộ xã hội vì sự
phát triển con người. Theo các ông, mặc dù giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết
sức cách mạng trong lịch sử, nhưng xã hội tư sản hiện đại, được sinh ra từ trong
lòng xã hội phong kiến đã không xoá bỏ được những đối kháng giai cấp; nó chỉ đem
những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới
thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ
mà thôi(12). Từ đó, các ông đã đi đến khẳng định rằng, những nền tảng vật chất to
lớn của xã hội tư sản sẽ chỉ có thể thực sự trở thành cơ sở hiện thực cho sự hình
thành một xã hội công bằng, trong đó con người được phát triển đầy đủ, tự do, “sau
khi cuộc cách mạng xã hội vĩ đại nắm được những thành tựu của thời đại tư sản,
nắm được thị trường thế giới và các lực lượng sản xuất hiện đại, và làm cho những
cái ấy phải chịu sự kiểm soát chung của những dân tộc tiên tiến nhất, – chỉ khi
ấy, sự tiến bộ của loài người mới không còn giống như cái tượng thần dị giáo ghê
tởm không muốn uống rượu trường sinh một cách nào khác ngoài cái cách uống
bằng sọ của người bị giết”(13).
Bên cạnh việc khẳng định vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với tiến
bộ xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen còn khẳng định vai trò sáng tạo và khả năng làm
chủ của người lao động đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung trong
lịch sử, kể cả trong giai đoạn tư bản chủ nghĩa, khi trình độ phát triển của khoa học
hiện đại tưởng chừng như là cái quyết định duy nhất cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất. C.Mác viết: “Không phải bằng lời nói mà bằng việc làm, người công nhân
đã chứng minh rằng nền sản xuất với quy mô lớn và được tiến hành phù hợp với
tiến bộ của khoa học hiện đại, có thể thực hiện được mà không cần đến giai cấp
những người chủ sử dụng lao động của giai cấp công nhân làm thuê; họ đã chứng
minh rằng muốn sản xuất có kết quả thì công cụ lao động hoàn toàn không thể để
cho bị độc chiếm làm công cụ thống trị và cướp bóc công nhân, rằng giống như lao
động của nô lệ và của nông nô, lao động làm thuê chỉ là hình thức nhất thời và thấp,

cần phải nhường chỗ cho lao động liên hợp, tiến hành một cách tự nguyện”(14). Bởi
lẽ, theo C.Mác, “chừng nào sự phân chia hoạt động còn được tiến hành không phải
một cách tự nguyện (chúng tôi nhấn mạnh – N.M.H) mà một cách tự nhiên thì
chừng đó hành động của bản thân con người sẽ trở thành một lực lượng xa lạ, đối
lập với con người và nô dịch con người, chứ không phải bị con người thống
trị”(15). Và, chỉ khi nào hoạt động “một cách tự nguyện” của mỗi cá nhân đạt được,
thì như C.Mác đã chứng minh, khi đó mới có sự bình đẳng giữa những con người
được thể hiện trước hết ở chỗ “mỗi ngườiđều có thể (chúng tôi nhấn mạnh –
N.M.H) tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh vực nào thích”(16); khi đó, hoạt động
của mỗi cá nhân riêng biệt mới không còn mang tính “độc chuyên” do bị ràng buộc
bởi sự phân công lao động tự nhiên, nghĩa là khi đó, con người mới được tự do(17).
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, tiến bộ xã hội bao
giờ cũng là sự thống nhất giữa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với trình
độ phát triển con người thông qua việc thực hiện công bằng xã hội với một thước
đo bình đẳng thực sự nhằm phát huy vai trò và khả năng con người trong nền sản
xuất nói riêng, trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội nói chung. Sự phát triển
xã hội là kết quả hoạt động của con người; đến lượt mình, sự phát triển này phải trở
thành điều kiện cho sự phát triển ngày càng cao hơn phẩm giá của con người trong
xã hội. Đây chính là mục tiêu cao nhất trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen
về tiến bộ xã hội.r

(*) Tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
[i] (1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1993, tr.21.
[ii] (2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.2, tr.126.
[iii] (3)V.I.Lênin. Toàn tập, t.30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.8.
[iv] (4)C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.16.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.272.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.272.

(7) C.Mác và Ph.Ăngghen . Sđd., t.42, tr.131.
(8) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.132 -133.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.19, tr.333.
(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.9, tr.293.
(11) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.835.
(12) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.4, tr.597.
(13) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.9, tr.293.
(14) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.16, tr.20.
(15) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.47.
(16) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr. 47.
(17) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr. 47.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC THANH NIÊN

NGUYỄN THÁI SƠN (*)
Bài viết phân tích một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
thanh niên. Đó là các tư tưởng: vai trò của thanh niên, vai trò của giáo dục thanh
niên, giáo dục toàn diện và đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên,
vai trò của nhà trường và tổ chức Đoàn đối với việc giáo dục thanh niên… Trên cơ
sở khẳng định ý nghĩa và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên,
tác giả cho rằng, trong điều kiện hiện nay, cần quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt
những lời dạy của Người về vấn đề này; rằng, để phát huy vai trò người chủ tương
lai của đất nước, thanh niên cần phải “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo
gương Bác Hồ vĩ đại”.
Tháng 1 năm 1946, trong thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ

là mùa xuân của xã hội”(1). Là một lãnh tụ vĩ đại, có tầm nhìn xa trông rộng, hơn ai
hết, Người thấu hiểu vai trò vô cùng to lớn của lực lượng thanh niên trong sự nghiệp
cách mạng, trong công cuộc bảo vệ, xây dựng, kiến thiết nước nhà. Để phát huy vai
trò và sức mạnh của tuổi trẻ thì phải tiến hành giáo dục thanh niên một cách toàn
diện và chu đáo. Hiểu sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề này, trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm dìu dắt
thế hệ trẻ. Ngay từ những ngày đầu bôn ba cứu nước, để tập hợp, giáo dục và giác
ngộ cách mạng cho thanh niên, Người đã lập ra tổ chức Việt Nam Thanh niên cách
mạng đồng chí hội. Trước lúc đi xa, trong “Di chúc” thiêng liêng, Người còn ân cần
căn dặn: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung
phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã
hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết”(2).
Trong số những vấn đề cần giáo dục cho thanh niên, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu
vấn đề giáo dục tinh thần yêu nước. Trong năm điều Người dạy thiếu niên và nhi
đồng, điều thứ nhất là: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào”; đối với thanh niên, “Trước hết
phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân. Phải có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh thần
quốc tế đúng đắn”(3). Tinh thần yêu nước là vốn quý, là sức mạnh to lớn giúp dân tộc
ta đứng vững trước những thử thách nghiệt ngã trong lịch sử. Nó được hun đúc từ
bao đời và đã trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu tượng Việt Nam. Ngày nay, trong
thời đại Hồ Chí Minh, hơn bao giờ hết, tinh thần ấy cần được đề cao và khơi dậy một
cách mạnh mẽ để đưa chúng ta vượt qua đói nghèo, tụt hậu. Có thể khẳng định rằng,
giáo dục tinh thần yêu nước cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm
đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay, nó tiếp thêm nguồn sức mạnh, trí sáng
tạo cho hàng triệu thanh niên đang ngày đêm chiến đấu, lao động, cống hiến trên mọi
lĩnh vực vì sự vững bền của đất nước, cho sự thăng hoa của dân tộc, cho dáng đứng
Việt Nam tạc sâu vào thiên niên kỷ.
Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục tinh thần yêu nước đối với thế hệ trẻ

cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và mang ý nghĩa thời sự. Chúng ta tuy đã giành
được độc lập tự do, đất nước hòa bình và thống nhất, song vẫn còn biết bao khó khăn
và thử thách. Nghèo đói, tụt hậu… đang là những nguy cơ lớn. Sự nghiệp chấn hưng
đất nước, đưa nền kinh tế nước ta phát triển ngang với trình độ của những cường
quốc lớn đòi hỏi thế hệ trẻ hôm nay phải phấn đấu, nỗ lực cống hiến nhiều hơn nữa.
Họ phải tự giác rèn luyện, trở thành những con người có ý chí bền vững, có lòng
dũng cảm gan dạ để vượt qua những cám dỗ thấp kém, những thói hư tật xấu,… mà
mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hoá mang lại.
Trong công cuộc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ cho đất nước, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh đến nguyên tắc giáo dục toàn diện. Người cho rằng, “Nhà nước chú trọng đặc
biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục và thể dục”(4). Một con người có trí
tuệ và nhân cách phát triển lệch lạc không thể là một người chủ xứng đáng của đất
nước, của Tổ quốc. Vấn đề giáo dục toàn diện là một vấn đề hết sức quan trọng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà; vì vậy,
ngay từ hiện tại, “… thanh niên phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế
phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa, trước hết phải rèn luyện và thấm
nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, gột rửa cá nhân chủ nghĩa…”(5). Đúng như tư tưởng
của Người, để hoàn thành tốt vai trò người chủ nước nhà, thanh niên phải được giáo
dục, đào tạo một cách chu đáo, phải được chuẩn bị đầy đủ các hành trang cần thiết
nhất. Trước hết, họ phải là những con người gương mẫu về đạo đức, có ý thức đạo
đức hoàn thiện, đầy đủ; đồng thời, có thể chất cường tráng, mạnh mẽ. Có như thế họ
mới có thể vượt qua được những khó khăn, thử thách; mới làm tròn được những
nhiệm vụ vẻ vang nhưng cũng rất nặng nề mà Đảng, dân tộc và nhân dân giao phó.
Đặc biệt, họ phải là những người có trí tuệ cao, thông minh, sáng tạo, có ý chí khám
phá, tìm tòi “dám nghĩ, dám làm”, biết vận dụng những thành quả của khoa học –
công nghệ hiện đại vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Để trở thành những con người phát triển hài hoà và toàn diện, con đường duy nhất
của thanh niên là không ngừng ra sức phấn đấu, rèn luyện, học tập trên tất cả các lĩnh
vực, “phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá, phải thấm nhuần tư tưởng xã
hội chủ nghĩa”. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện toàn

cầu hoá và sự bùng nổ của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại. Thanh niên
Việt Nam phải biết vươn lên làm chủ những công nghệ tiên tiến nhất để xoá bỏ
nghèo đói và tụt hậu, để rút ngắn khoảng cách với những quốc gia phát triển. Thực tế
cho thấy, rất nhiều thanh niên đã và đang xứng đáng với lời dạy đó của Người.
Những thắng lợi vẻ vang của tuổi trẻ Việt Nam trong các cuộc thi quốc tế, trong học
tập, sản xuất và kinh doanh,… đã chứng minh vai trò và năng lực của các thế hệ
thanh niên trong công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, tuổi trẻ ngày nay cần phải
làm được nhiều hơn thế, cần phải tiếp tục phấn đấu và rèn luyện. Trên nhiều lĩnh
vực, chúng ta còn tụt hậu, có khoảng cách quá xa so với các nước phát triển trong
khu vực và trên thế giới. Nhiệm vụ của thanh niên là phải góp phần thu hẹp, san bằng
khoảng cách đó.
Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ.
Người chỉ rõ: “Thanh niên phải luôn luôn rèn luyện đạo đức cách mạng. Đạo đức
cách mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm:
– Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với
Đảng, với giai cấp.
– Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện: “Đâu cần thanh niên có, việc gì
khó thanh niên làm”, “gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người”.
– Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không tự phụ”(6).
Được ví như mùa xuân của xã hội, nhiệm vụ của thanh thiếu niên không chỉ là học
tập, rèn luyện, mà còn phải biết cống hiến và hy sinh. Trong bài nói chuyện tại buổi
lễ khai mạc trường Đại học nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã ân cần chỉ bảo:
“Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà
phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà! Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước
nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?”(7).
Lời nói của Người tuy giản dị mà thật sâu sắc biết bao. Ngày nay, còn nhiều bạn trẻ
đang mải mê theo đuổi những giá trị vật chất thấp kém, tầm thường mà quên đi trách
nhiệm, nghĩa vụ lớn lao của mình đối với Tổ quốc, với non sông đất nước. Thói quen
đua đòi, hưởng lạc, chạy theo những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đang làm
hư hỏng một số thanh, thiếu niên vốn không tự giác học tập, rèn luyện. Họ đang sa

vào một cuộc sống thiếu lý tưởng, không có niềm tin, không có sự định hướng một
cách đúng đắn. Không có lý tưởng cao cả để phấn đấu, cuộc sống con người sẽ trở
nên tẻ nhạt, tầm thường, thậm chí vô nghĩa. Có lẽ đây cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng những hiện tượng rất đáng lo ngại trong giới trẻ
ngày nay, như đua xe máy, nghiện ngập ma túy…

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thanh niên cần phải có tinh thần và gan dạ sáng tạo,
cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn, gian khổ để
tiến mãi không ngừng”(8). Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, người thanh niên cũng phải
sống xứng đáng với truyền thống vẻ vang của dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập và
mở cửa hiện nay, đất nước đang đứng trước những thời cơ và những thử thách lớn
lao, hơn bao giờ hết, vai trò và trách nhiệm của thanh niên, của tuổi trẻ lại càng vinh
dự và nặng nề. Tương lai của đất nước, của dân tộc đang nằm trong tay thế hệ trẻ.
Chúng ta có thể sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không? Chúng ta
có thể đi tắt, đón đầu thời đại được hay không? Chúng ta có thể vượt ra khỏi đói
nghèo, tụt hậu để trở thành một quốc gia giàu có, vững mạnh, phát triển về mọi mặt
được hay không? Tất cả đang trông chờ vào ý chí, nghị lực và bản lĩnh của tuổi trẻ;
tất cả đang được quyết định bởi những việc làm, những hành động cụ thể của tuổi trẻ
hôm nay. Chúng ta không thể quên lời căn dặn thiết tha của Người: “Thanh niên ta
có vinh dự to thì cũng có trách nhiệm lớn. Để làm tròn trách nhiệm, thanh niên ta
phải nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”(9).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin lớn vào thế hệ trẻ, quan tâm đặc biệt đến sự phát
triển toàn diện của họ, trong đó có sự phát triển về thể chất. Người đã nêu một tấm
gương sáng về rèn luyện thể dục, thể thao; đồng thời kêu gọi mọi người, nhất là
thanh niên, phải thường xuyên rèn luyện sức khoẻ, coi đó là trách nhiệmvà bổn
phận của thanh niên. Họ cần có những hoạt động vui chơi lành mạnh: “Thanh niên
phải chuyên tâm học hành và công tác, nhưng cũng cần có vui chơi. Vui chơi lành
mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên”(10). Rõ ràng, trong bối cảnh
ngày nay, lời nhắc nhở đó của Bác có ý nghĩa rất quan trọng. Có lẽ, một phần do
thiếu những sân chơi lành mạnh, bổ ích mà không ít bạn trẻ đã và đang lao vào
những trò chơi dại dột, vô cùng nguy hiểm, như đua xe trái phép, cá độ bóng đá, cờ

bạc, nghiện ngập, hút xách. Hoặc có không ít nam nữ thanh niên mải mê truy tìm
những cảm giác xa lạ trên sàn nhảy, vũ trường với đủ các loại thuốc kích thích. Vui
chơi, giải trí là điều không thể thiếu được đối với lứa tuổi thanh niên, song các hoạt
động đó phải mang tính giáo dục, tính văn hoá và lành mạnh. Vui chơi để có thêm
niềm tin và ý chí trong học tập, rèn luyện. Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: “Trong
vui chơi cũng có giáo dục. Cần có những thú vui chơi văn hoá, thể dục có tính chất
tập thể và quần chúng”(11).
Để giáo dục thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh rất chú trọng tới vai trò của nhà trường, của
ngành giáo dục – đào tạo. Có thể nói, trường học là môi trường thuận lợi nhất để giáo
dục thanh niên trên mọi phương diện. Nhà trường là nơi tuổi trẻ tiếp thu những tri
thức, những kinh nghiệm để chuẩn bị bước vào đời; trau dồi đạo đức, ý chí, luyện rèn
những phẩm chất cần thiết cho một tương lai tươi sáng. Trong Đời sống mới, Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh vai trò của nhà trường trong chế độ mới: “Cốt nhất là phải dạy
học trò biết yêu nước, thương nòi, phải dạy cho họ ý chí tự lập tự cường, quyết
không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”(12).
Hiện nay, do hoàn cảnh kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn, do cơ chế, chính
sách chưa thực sự hoàn thiện, đồng bộ nên trong bản thân các trường học, các cơ
quan, bộ phận của ngành giáo dục – đào tạo vẫn còn tồn tại những hạn chế, thiếu sót.
Những căn bệnh phổ biến, như “bệnh thành tích”, hiện tượng tiêu cực, bất công, gian
lận trong thi cử, ngồi “nhầm” chỗ, “nhầm” lớp… vẫn chưa được khắc phục một cách
triệt để. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta càng phải quán triệt tư tưởng có tính chỉ
đạo của Hồ Chí Minh: dù khó khăn đến đâu cũng phải quyết tâm dạy thật tốt, học
thật tốt.
Bên cạnh trường học, tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng có vai
trò quan trọng đối với việc giáo dục, bồi dưỡng thanh niên. Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh là một tổ chức cách mạng do chính Hồ Chủ tịch và Đảng Cộng sản
Việt Nam sáng lập, rèn luyện; là đội ngũ của những người thanh niên Việt Nam ưu
tú. Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đây vừa là
tổ chức, vừa là môi trường cho người thanh niên yêu nước rèn luyện và cống hiến.

Để phát huy vai trò của tuổi trẻ, Hồ Chí Minh căn dặn: “Trung ương Đoàn cần phải
tăng cường hơn nữa việc giáo dục tinh thần yêu nước, giác ngộ giai cấp và đạo
đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên”(13). Trong bối cảnh ngày nay, lời
nhắc nhủ đó của Người lại càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Những thế hệ cha anh đi trước đã hy sinh biết bao xương máu cho dân tộc được độc
lập và tự do, cho Tổ quốc được hòa bình thống nhất, cho lãnh thổ Việt Nam được
vẹn toàn. Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh trường kỳ chống đế quốc Pháp và
đế quốc Mỹ, nhân dân Việt Nam nói chung và thanh niên Việt Nam nói riêng đã nêu
cao tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất, thà hy sinh đến giọt máu cuối
cùng chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu sống cuộc đời nô lệ.
Con người Việt Nam vĩ đại nhất, tiêu biểu nhất cho tinh thần và ý chí đó chính là
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Là nhà ái quốc vĩ đại, cuộc đời cao cả của Người chính là
tấm gương sáng ngời cho thế hệ trẻ hôm nay noi theo và học tập. Việc giáo dục tuổi
trẻ thông qua những tấm gương cách mạng là một vấn đề hết sức quan trọng. Hồ Chí
Minh là người rất thấu hiểu điều này và Người đã từng nhắc nhở: “Có số thanh niên
tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay là trên trời rơi xuống, không biết sự gian
nan, cực khổ cũ. Các đồng chí già phải kể lại cho họ nghe. Đó là một cách giáo dục
thanh niên”(14). Đối với những tấm gương anh hùng cách mạng, với những chiến
công của các anh hùng dũng sĩ đã lập nên trong công cuộc cứu nước và giữ nước,
Người căn dặn: “Chúng ta phải ghi chép và thường nhắc lại những sự tích ấy… để
giáo dục thanh niên ta rèn luyện một ý chí kiên quyết quật cường, một tâm lý quả
cảm xung phong, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của Tổ quốc”(15). Người thanh
niên có giáo dục phải là người “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Đạo lý này được lưu giữ từ nghìn đời nay và đã trở thành một lẽ sống quý báu của
dân tộc ta. Với những anh hùng liệt sĩ đã cống hiến máu xương mình cho Tổ quốc,
chúng ta phải đời đời ghi nhớ công ơn của họ. Trong “Di chúc” để lại cho đồng bào
cả nước, Hồ Chí Minh căn dặn: “Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng
xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để
đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”(16).
Những tư tưởng quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên sẽ mãi

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *