11489_Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện đại đoàn kết toàn dân

luận văn tốt nghiệp

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HIỆN
ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên chúng em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại Học
Công Nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện để sinh viên chúng em có
một môi trường học tập thoải mái về cơ sở hạ tầng cũng như cơ sở vật chất
Chúng em xin cảm ơn khoa Lý luận chính trị đã giúp chúng em được mở mang
tri thức về tư tưởng Hồ Chí Minh, một tư tưởng hết sức quan trọng, đóng vai trò
quyết định đối với vận mệnh nước nhà. Qua đó chúng em có thể nhận thức một
cách đầy đủ và toàn diện cuộc đời, sự nghiệp, những đóng góp và vai trò của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đối với toàn thể dân tộc Việt Nam
Chúng em chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Lâm Thanh Hoàng đã hướng dẫn
tận tình để nhóm chúng em hoàn thành tiểu luận này. Hi vọng thông qua những nỗ
lực tìm hiểu của tất cả các thành viên, nhóm Bút Bi sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn
tư tưởng Hồ Chí Minh về “ Thực hiện đại đoàn kết toàn dân” và truyền thống yêu
nước nồng nàn, nhân nghĩa, lòng yêu thương và tin yêu con người của nhân dân
Việt Nam. Ngoài ra, Bút Bi cũng mong muốn giới thiệu tới các bạn những chính
sách ưu đãi, khuyến khích của Đảng và Nhà nước ta hiện nay đối với Việt kiều
yêu nước hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống tư tưởng rộng lớn và bao quát mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nên trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình
.Vậy nên, với những giới hạn về kiến thức và thời gian, trong quá trình tìm hiểu
Bút Bi không tránh khỏi thiếu sót, mong thầy và các bạn tận tình góp ý để chúng
em hoàn thiện hơn nữa những kiến thức của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tư tường Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với sự nghiêp cách mạng giải phóng dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân bao gồm
rất nhiều khía cạnh về cách thức cũng như phương pháp xây dựng và phát triển.
Trong đó bao gồm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải phát huy tổng hợp
nội lực từ bên trong; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kế thừa
truyền thống đoàn kết của cha ông cùng những nhận thức tài tình, thông suốt, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường cách mạng đúng đắn, phát huy tổng hợp
sức mạnh toàn dân dựa trên nển tảng kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước
nồng nàn, nhân nghĩa, đoàn kết toàn dân; đồng thời phải có lòng khoan dung và
lòng tin yêu con người. Do đó việc tìm hiểu rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
này là hết sức cần thiết để mỗi chúng ta hiểu rõ hơn vai trò và trách nhiệm của
mình trong cuộc sống, đối với mọi người, với đất nước. Từ đó, giúp chúng ta xác
định một cái nhìn đúng đắn về lòng đoàn kết, nhân nghĩa trong mỗi con người để
tự hoàn thiện mình, sống tốt hơn và có ý nghĩa hơn.
2.
MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU:
Mục đích: Giúp mọi người nhận thức được tầm quan trọng của lòng yêu
nước, của nhân nghĩa, tin yêu con người. Từ đó mỗi cá nhân sẽ tự phát huy
hơn nữa lòng nhân nghĩa của bản than mình để sống tốt hơn, có ý nghĩa hơn
Yêu cầu : Nắm vững được tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân
3.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống
nồng nàn yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết dân tộc; đồng thời phải có lòng khoan
dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người.
Chính sách đối với Việt kiều yêu nước của Đảng và nước dựa trên cơ sở vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.
4.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Kết hợp phương pháp logic với so sánh, tổng hợp, phân tích, chứng minh…
5.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Những tài liệu lịch sử cụ thể cùng hệ thống tư liệu về tư tưởng Hồ Chí Minh
6.
KẾT CẤU ĐỀ TÀI:
Gồm có 3 chương:
Chương 1: Cở sở khách quan và những luận điểm cở bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải kế
thừa truyền thống yêu nứơc – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc; đồng thời phải có
tấm lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người
Chưong 3: Sự vận dụng của Đảng và nhà nước ta về chính sách đối với Việt
Kiều yêu nứơc hiện nay.
7. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Nhận thức tầm quan trọng của lòng yêu nước, nhân nghĩa, yêu thương con
người.Từ đó ý thức sống có trách nhiệm được nâng cao, giúp sống có ý nghĩa hơn,
hoàn thiện hơn nữa thái độ sống của bản thân
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHÁCH QUAN VÀ NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ
BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1.1. Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc
1.1.1. Nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam:
Yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có ở tất cả các dân tộc trên
thế giới chứ không riêng gì của dân tộc Việt Nam. Song tư tưởng ấy được hình
thành sớm hay muộn, đậm hay nhạt, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu
hiện cũng như chiều hướng phát triển của nó lại tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử
đặc thù của từng dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là
một tình cảm tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ chính
lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là
lịch sử đấu tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập tử tay kẻ thù. Chính vì vậy mà
tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân
Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc
ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng mạnh đến đâu
Từ ngàn đời nay, đối với người Việt Nam tinh thần yêu nước – nhân nghĩa –
đoàn kết trở thành đức tính, lẽ sống, tình cảm tự nhiên của mỗi người. Đó là những
triết lý nhân sinh:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng “
Hay :
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Những điều đó đã phần nào ghi đậm dấu ấn cấu trúc xã hội truyền thống: gia
đình gắn với cộng đồng làng xã, gắn với cộng đồng cả nước, nên dân ta có câu:
“Nước mất, nhà tan”. Truyền thống ấy được thể hiện ngày càng sinh động qua các
thời kỳ lịch sử như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung và đều
được nâng lên thành phép đánh giặc giữ nước, thành kế xây dựng quốc gia xã tắc
vững bền
Sự tổng kết những kinh nghiệm thực tế của phong trào cách mạng Việt
Nam và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa: Từ các phong trào
Cần Vương, Yên Thế cuối thế kỷ XIX đến các phong trào Đông Kinh chống thuế
đầu thế kỷ XX, là các thế hệ người Việt Nam đã liên tiếp đoàn kết cùng nhau đứng
dậy chống ngoại xâm, mặc dù thất bại song đều nói lên truyền thống yêu nước
quật cường của dân tộc. Đó chính là nền tảng hun đúc nên tư tưởng đại đoàn kết
toàn dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bác tổng kết: “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại
Phong trào Yên Thế
Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục
Phong Trào Đông Du
Phong trào Cần Vương
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước. . .” .
1.1.2. Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng đoàn kết trong kho tàng văn hóa nhân
loại:
Bác gạn đục khơi trong, tiếp thu tư tưởng đại đồng, nhân ái, thương người như
thương mình, nhân, nghĩa, trong học thuyết Nho giáo.
Tiếp thu tư tưởng lục hòa, cư xử hòa hợp giữa người với người, cá nhân với
cộng đồng, con người với môi trường tự nhiên của phật giáo (năm điều cấm: nói
dối, sát sinh, tà dâm, uống rượu, trộm cướp).
Tiếp thu tư tưởng đoàn kết của Tôn Trung Sơn, nhất là Chủ nghĩa Tam dân,
chủ trương đoàn kết 400 dòng học người Trung Quốc, không phân biệt giàu
nghèo, chống thực dân Anh, chủ trương liên Nga,dung Cộng, ủng hộ công nông .
1.1.3. Người trăn trở về vấn đề đoàn kết lực lượng chống Pháp và cách mạng
giải phóng dân tộc trên thế giới
Người thấy các phong trào chống Pháp của dân ta tuy rầm rộ nhưng đều thất
bại, do không quy tụ được sức mạnh của cả dân tộc. Người thấy được những hạn
chế trong việc tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối. (Phan Bôi Châu,
Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học. . . đều yêu nước thương dân, nhưng về tập
hợp lực lượng thì các bậc tiền bối này đều có vấn đề, cho nên tập hợp không được
rộng rãi, không đầy đủ, cho nên không thể chiến thắng kẽ thù).
Ví dụ : Như Cụ Phan Bội Châu chủ trương tập hợp 10 hạng người chống
pháp: Phú Hào, Quý Tộc, Nhi nữ, Anh sĩ, Du đồ, Hôi đảng, Thông ngôn, Kí lục,
Bồi bếp, Tín đồ thiên chúa giáo nhưng thiếu Công nhân, Nông dân.
Đi khắp các thuộc địa và Chủ Nghĩa Đế Quốc, nhưng chưa thấy dân tộc nào
làm Cách Mạng giải phóng thành công, do thiếu sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết
tổ chức đoàn kết lực lượng .
Nghiên cứu Cách Mạng tháng 10 Nga, người thấy nổi bật bài học về đoàn kết
tập hợp lực lượng công nông để làm Cách Mạng giành chính quyền và bảo vệ
chính quyền cách mạng non trẻ, đánh tan sự tấn công của 14 nước đế quốc và bọn
Bạch Vệ, xây dựng đất nước theo con đường Xã Hội Chủ Nghĩa.
1.1.4. Tiếp thu quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lê Nin về đoàn kết lực lượng trong
Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Chủ nghĩa Mác – Lê Nin phát hiện ra quy luật xã hội là sản xuất vật chất, nhờ
đó phát hiện ra vai trò quyết định sự phát triển xã hội của quần chúng nhân dân.
Sự vận động của xã hội luôn gắn với một giai cấp nhất định mà giai cấp đó đứng ở
một trung tâm của thời đại. Thời đại ngày nay giai cấp công nhân là giai cấp đứng
ở trung tâm thời đại mới, có lợi ích phù hợp với lợi ích của nông dân và các giai
tầng lao động khác, vì thế giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, tổ
chức đoàn kết mọi giai tầng xã hội, đoàn kết cả dân tộc, cả quốc tế, các dân tộc bị
áp bức để thủ tiêu Chủ Nghĩa Tư Bản, xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, Chủ Nghĩa
Cộng Sản .
Để đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng, trước hết phải thiết lập liên minh công
nông, lấy đó làm nòng cốt, sau đó sẽ đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng bên trong và
bên ngoài.
Bác viết: Lênin là hiện thân của tình anh em bốn bể, là tấm gương sáng ngời
về tinh thần đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng trên thế giới vào cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
1.2.5. Yếu tố chủ quan của Hồ Chí Minh
Là người có lòng yêu nước thương dân vô bờ bến, trọng dân, tin dân, kính
dân, hiểu dân, trên cơ sở nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý. Người luôn chủ
trương thực hiện dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ. Vì vậy người được dân
yêu, dân tin, dân kính phục.
Đó chính là cơ sở của mọi tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh, trong đó có tư
tưởng đại đoàn kết của Người.
1.2. Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách
mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc được xem là vấn đề sống
còn của cách mạng Việt Nam, là tư tưởng chiến lược xuyên suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được,
tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn
của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ
Chí Minh đã nêu lên một số luận điểm có tính chân lý như:
Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành
công”.
Đoàn kết là điểm mẹ. “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều
tốt…”.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu cách mạng .
Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng,
của cách mạng là đại đoàn kết dân tộc. Trong buổi ra mắt Đảng Lao động Việt
Nam vào tháng 3 năm 1951, Người đã thay mặt Đảng tuyên bố trước đồng bào
rằng: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là: Đoàn
kết toàn dân, phụng sự Tổ Quốc” .
Mục tiêu tổng quát của toàn bộ cách mạng Việt Nam theo Hồ Chí Minh là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Để thực hiện mục tiêu
đó, Người đã đề ra nhiều mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể phải giải quyết trong từng thời
kỳ, giai đoạn. Nhưng muốn thực hiện tất cả các mục tiêu đó thì phải phát huy được
lực lượng của toàn dân, nghĩa là phải xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc. Vì
vậy, mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng phải là xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đồng thời là sự kết tinh
tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người .
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng, mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi đại
đoàn kết dân tộc chỉ có được khi nó là đòi hỏi khách quan của bản thân quần
chúng. Chỉ khi quần chúng nhân dân nhận thức được, muốn hoàn thành sự nghiệp
cách mạng của mình, do mình và vì mình, trước hết mình phải đoàn kết lại, phải
đồng tâm nhất trí thì khối đại đoàn kết dân tộc mới trở thành hiện thực.
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm dân dùng để chỉ “mọi con dân nước
Việt”, mỗi một người “con rồng cháu tiên”, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai,
giàu, nghèo, quý, tiện”. Đại đoàn kết dân tộc có nghĩa là phải tập hợp được mọi
người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, Người đã đưa ra những yêu cầu
mang tính nguyên tắc sau:
Phải kế thừa truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa của dân tộc, phải
có tầm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh cho rằng
ngay cả đối với những người lầm đường, lạc lối nhưng đã biết hối cải,
chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ.
Phải xác định mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết toàn
dân. Đó là nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống ấm no, tự do
và hạnh phúc của nhân dân.
Phải xác định nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân là liên minh công
nông và lao động trí óc. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại
đoàn kết dân tộc càng được mở rộng.
1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là
Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô
địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một
khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không có
tổ chức, quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu người cũng chỉ là một
số đông không có sức mạnh.
Để xây dựng trên thực tế tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh
chủ trương đưa quần chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng
đối tượng quần chúng và từng bước phát triển của cách mạng, đồng thời Người
chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp tất cả các tổ chức và
cá nhân yêu nước phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng chung.
Để Mặt trận hoạt động một cách hiệu quả, Người đã đưa ra những nguyên tắc
hoạt động sau:
Hoạt động của Mặt trận phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành viên trong Mặt trận dân tộc thống
nhất, nhưng là thành viên có vai trò lãnh đạo Mặt trận.
Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng chủ trương, đường lối, bằng định hướng chính
sách. Lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy
lòng chân thành để cảm hoá, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức
tránh gò ép,quan liêu, mệnh lệnh. Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững
chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt trận.
Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống
nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ
sở.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ là tất cả các vấn đề phải được bàn bạc một
cách dân chủ trong tổ chức, sau đó các thành viên trong tổ chức thương
lượng, thoả thuận với nhau để đi đến thống nhất ý kiến và hành động. Mặt
trận phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ vì Mặt trận là một
tổ chức chính trị – xã hội bao gồm trong đó nhiều tổ chức chính trị – xã hội
khác nhau, độc lập và bình đẳng với nhau. Để đi đến nhất trí trong các công
việc của Mặt trận thì các tổ chức này phải cùng nhau bàn bạc một cách dân
chủ, rồi thương lượng, thoả thuận với nhau. Cơ sở để đi đến nhất trí là sự
thống nhất giữa lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân
dân.
Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông và lao
động trí óc.
Hoạt động đoàn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật
sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Mặt trận phải xây dựng sự đoàn kết lâu dài và chặt chẽ vì sự nghiệp cách mạng
là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn đều có những khó
khăn, thử thách to lớn. Để hoàn thành được sự nghiệp cách mạng thì phải huy
động lực lượng, phát huy sức mạnh của toàn dân trong mọi thời kỳ, giai đoạn. Do
vậy, Mặt trận phải xây dựng khối đại đoàn kết lâu dài và chặt chẽ. Đoàn kêt lâu
dài ở đây là phải xuyên suốt quá trình cách mạng. Đoàn kết chặt chẽ ở đây là phải
đoàn kết từ các gia đình, dòng họ, đơn vị sản xuất, cơ quan, tổ chức, địa
phương,v.v.. cho đến cả nước; phải đoàn kết trên tất cả các mặt hoạt động: kinh tế,
chính trị, văn hoá, quân sự, ngoại giao,v.v.. Đoàn kết thật sự là đoàn kết tự nguyện
được xây dựng trên cơ sở thống nhất về lợi ích của các cá nhân và tổ chức. Đoàn
kết chân thành là đoàn kết bao hàm trong đó cả sự đấu tranh, phê bình, góp ý giúp
nhau cùng tiến bộ. Đoàn kết thân ái là đoàn kết được xây dựng trên cơ sở tình
thương và lòng nhân ái của mỗi người.
CHƯƠNG 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HIỆN ĐẠI ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC PHẢI KẾ THỪA TRUYỀN THỐNG YÊU NỨƠC – NHÂN
NGHĨA – ĐOÀN KẾT CỦA DÂN TỘC ; ĐỒNG THỜI PHẢI CÓ TẤM
LÒNG KHOAN DUNG , ĐỘ LƯỢNG, TIN VÀO NHÂN DÂN, TIN VÀO
CON NGƯỜI
Trong toàn bộ những bài báo bài viết của Hồ Chí Minh theo thống kê có đến
40% bài báo, bài viết, bài nói về đại đoàn kết, qua đó ta thấy được tầm quan trọng
của đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lời đầu tiên trong bản di chúc của
Hồ Chí Minh cũng như lời cuối cùng trong bản di chúc thì Hồ Chí Minh đều nhắc
tới “đại đoàn kết”. Lời đầu tiên Người nói: “Trước khi tôi qua đời tôi để lại vài lời
dặn dò như sau: Trước hết nói về đoàn kết các đồng chí từ trung ương đến các chi
bộ phải gìn giữ sự đoàn kết như gìn giữ con ngươi của mắt mình”, còn lời cuối
cùng của Người: “ Điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng toàn dân toàn
quân ta đoàn kết xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh dân chủ độc lập đóng
góp xứng đáng vào cách mạng vô sản thế giới”. Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân
tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là
chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người đã sử dụng khoảng 2.000 lần
cụm từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết” trong các văn bản viết. Người luôn luôn nhận
thức đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của
cách mạng.
2.1. Đại đoàn kết dân tộc phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân
nghĩa – đoàn kết dân tộc:
Truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết là cơ sở quan trọng hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh tổng kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại
sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Năm 1951, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc nhân
buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam
có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc.
Không dừng lại ở việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn khẳng định nhiệm vụ của toàn Đảng là giữ gìn sự đoàn kết. Trong di
chúc, Người dặn lại chúng ta “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn
sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Nói chuyện
với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ:”
Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là
làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là
làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập, chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ
mục đích tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà ”.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân rộng rãi nhưng phải xác định lực lượng
nào là nền tảng của khối đại đoàn kết. Người chỉ rõ “Đại đoàn kết tức là trước hết
Bác Hồ với đồng bào dân tộc
phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết”.
Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chất chân lý về đoàn kết.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đại
đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân. Trong
cuộc đấu tranh để tự giải phóng, Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn
quần chúng đấu tranh một cách tự giác, có tổ chức thành sức mạnh vô địch trong
cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con
người.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm dân, nhân dân có một nội hàm rất
rộng, người dùng khái niệm này để chỉ “mọi con dân đất Việt”, không phân biệt
dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, không phân biệt “già, trẻ, gái trai, giàu nghèo,
quý tiện”. Như vậy dân, nhân dân vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng vừa
được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của đại đoàn
kết dân tộc. Người đã nhiều lần nêu rõ “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất
và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có
đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ
”. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc
để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình
của cách mạng Việt Nam.
2.2.
Muốn thực hiện được việc đại đoàn kết toàn dân thì ta phải có tấm
lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người:
Người Việt Nam ta có truyền thống “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh kẻ
chạy lại”. Hồ Chí Minh cho rằng ngay đối với những người lầm đường lạc lối
nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ,
mà hoàn toàn không định kiến và khoét sâu cách biệt.
Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn nhưng tất cả đều
nằm trên cùng một bàn tay để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết rộng
rãi.Thậm chí đối với những người trước đây đã chống chúng ta, nhưng nay không
chống nữa thì khối đại đoàn kết dân tộc cũng sẽ mở rộng cửa đón tiếp họ. Người
đã nhiều lần nhắc nhở “ Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc
lập dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta
cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà
yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước
đây đứng về phe nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước.
Để thực hiện được đoàn kết, Người căn dặn: “Cần xoá bỏ hết thành kiến, cần
phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ cùng nhau tiến bộ để phục vụ nhân dân,
phải tin ở nhân dân, yêu dân”.
Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết một cách rộng rãi như trên là
vì Người có lòng tin ở dân, tin rằng trong mỗi người, “ai cũng có ít hay nhiều tấm
lòng yêu nước tiềm ẩn bên trong “. Tấm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi mờ che
mắt, chỉ cần làm thức tỉnh lương chi thì lòng yêu nước lại bộc lộ. Dân tộc, toàn
dân thì là một khối rất rộng lớn gồm hàng chục triệu con người vì vậy phải xác
định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo
nên cái nền tảng đó. Về điều này người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết
phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân công nhân, nông dân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng
như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn
kết phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Người chỉ rõ: “Lực lượng chủ yếu
trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền
tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất” .Về sau Người có nêu thêm: lấy liên minh
công nông –lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng
càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng,
không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, Đảng viên phải thấm nhuần quan
điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đồng thời, Người lưu ý rằng,
nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân
tộc, tôn giáo, do đó phải đoàn kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI VIỆT KIỀU YÊU NƯỚC HIỆN NAY
Dân tộc Việt Nam được hiểu là mỗi người dân Việt Nam đang sinh sống, làm
ăn ở Việt Nam và những người Việt sinh sống, làm ăn ở nước ngoài có gốc là
người Việt Nam, không phân biệt họ là dân tộc thiểu số hay đa số, họ theo hoặc
không theo tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt họ giàu hay nghèo, họ là nam
hay nữ, già hay trẻ. Hiện nay ước tính có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang
làm ăn, sinh sống tại gần 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 4/5 sống ở các
nước công nghiệp phát triển, tập trung ở Mỹ (1,3 triệu), Pháp (300.000), Úc
(250.000), Canađa (trên 200.000), Đức (100.000), Nga (100.000).
Đại đoàn kết toàn dân tộc có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào
một mục tiêu chung. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu
tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng
nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân
dân thì ta đoàn kết với họ”.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài, như: Nghị quyết 08, ngày 29-11-1993
của Bộ Chính trị về chính sách và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài;
Chỉ thị số 55-CT/TW, ngày 23-3-1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng hướng
dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết 08; Nghị quyết số 36/NQ-TW, ngày 26-3-2004
của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài; Quyết định số
110/QĐ-TTg, ngày 23-6-2004 của Thủ tướng Chính phủ thông qua Chương trình
hành động của Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết 36. Chính phủ cũng đã
quyết định đổi tên Ban Việt kiều Trung ương thành Ủy ban về người Việt Nam ở
nước ngoài như một cơ quan quản lý trực thuộc Chính phủ.
Nghị quyết 36/NQ-TW của Bộ Chính trị khẳng định: “Người Việt Nam ở
nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng
dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác
hữu nghị giữa nước ta với các nước”. Để huy động được hết mọi tiềm năng của
người Việt Nam ở nước ngoài, Nghị quyết 36 còn nhấn mạnh: “Đảng và Nhà
nước mong muốn, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài hội nhập và thực
hiện nghiêm chỉnh luật pháp nước sở tại, chăm lo xây dựng cuộc sống, làm ăn
thành đạt, nâng cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản
sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, đoàn kết, đùm bọc yêu thương, giúp đỡ lẫn
nhau, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần tăng cường
quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước bà con sinh sống với nước nhà, tùy theo khả
năng và điều kiện của mỗi người góp phần xây dựng quê hương đất nước, chủ
động đấu tranh với các biểu hiện cố tình đi ngược lại với lợi ích chung của dân
tộc”.
3.1.
Những điểm tích cực:
Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác cộng đồng đã khẳng định cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một “bộ phận không thể tách rời” và “một
nguồn lực” của dân tộc Việt Nam. Trong năm qua, Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị
về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và “Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 36” được các cấp các ngành tích cực triển
khai thực hiện. Kết quả đạt được thể hiện trên các mặt:
Họp mặt kiều bào tại TP.HCM
Thứ nhất, Nghị quyết đã được quán triệt và phổ biến sâu rộng trong và ngoài
nước tạo sự chuyển biến cả về nhận thức và hành động. Ở trong nước, công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài đã giành được sự quan tâm của lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội. Uỷ ban đối ngoại Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc,
Bộ Ngoại giao và nhiều địa phương đặc biệt là các địa phương có nhiều kiều bào ở
nước ngoài như TP Hồ Chí Minh, Quảng Nam, Đà Nẵng, Tiền Giang, Kiên Giang,
Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây Ninh, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Lâm Đồng, Hải Phòng đã có
văn bản cụ thể hoá các nội dung của Nghị quyết, Chương trình hành động có liên
quan đến ngành, địa phương mình. Ở nước ngoài, Nghị quyết được các cơ quan
đại diện ngoại giao của ta đặc biệt ở các địa bàn có đông người Việt Nam định cư,
sinh sống phổ biến rộng rãi đến cộng đồng và được cộng đồng hoan nghênh.
Thứ hai, nhiều chính sách, biện pháp đã và đang được rà soát, sửa đổi hoặc ban
hành mới theo hướng ngày càng thuận lợi hơn cho bà con kiều bào, đặc biệt là
những chính sách nhằm thu hút trí thức, doanh nhân, nhà đầu tư kiều bào về hợp
tác với trong nước, tạo điều kiện ngày càng thuận lợi cho kiều bào nhập xuất cảnh,
lưu trú trong đó có việc xem xét miễn thị thực cho một số đối tượng người Việt
Nam ở nước ngoài, mở rộng thêm 2 đối tượng người Việt Nam được mua nhà gắn
liền với quyền sử dụng đất ở Việt Nam; cho phép kiều bào mua cổ phần của các
doanh nghiệp trong nước; tăng cường thông tin cho kiều bào; đẩy mạnh sự phối
hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc kết nối các
doanh nhân, trí thức kiều bào
với các tổ chức, doanh
nghiệp trong nước,… Đồng
thời, tiến hành đơn giản hoá
các thủ tục hành chính như
thủ tục hải quan, xuất nhập cảnh, cư trú đi lại, hợp pháp hoá các loại giấy tờ, chính
sách một giá…
Thứ ba, công tác vận động cộng đồng được thúc đẩy mạnh mẽ theo tinh thần
đại đoàn kết dân tộc, lấy mục tiêu độc lập dân tộc, dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ và văn minh làm điểm tương đồng, chấp nhận những quan
điểm khác nhau miễn là không trái với lợi ích chung của dân tộc; không phân biệt
quá khứ, chính kiến, hướng tới tương lai; mọi người Việt Nam ở trong và ngoài
nước miễn là mong muốn đóng góp vào mục tiêu trên thì đều có chỗ đứng trong
khối đại đoàn kết dân tộc. Các chuyến về thăm Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ,
Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Nhạc sỹ Phạm Duy và nhiều người khác đã thể hiện
chính sách đó và có tác động tích cực tới cộng đồng.
Trong các chuyến thăm tới các nước có kiều
bào ta sinh sống, lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
Quốc hội, các Bộ, ngành… đều thông báo nội
dung Nghị quyết 36 và đề nghị với chính quyền
sở tại tạo điều kiện cho bà con ổn định cuộc sống
và hội nhập xã hội sở tại; đồng thời, tiếp xúc,
gặp gỡ động viên bà con làm tròn trách nhiệm
đối với nước sở tại và luôn hướng về đất nước, làm nhịp cầu hữu nghị giữa nước
mà bà con sinh sống với Việt Nam.
Các cơ quan đại diện ngoại giao ta ở nước ngoài đặc biệt tại Hoa kỳ, Canada,
Pháp, Lào, Thái, Campuchia, Nga, Bỉ, Đức đã làm tốt công tác vận động cộng
đồng, công tác động viên khen thưởng, tổ chức nhiều hoạt động thích hợp nhằm
tập hợp và vận động cộng đồng gắn bó với trong nước, đấu tranh ngăn chặn những
hoạt động chống phá của các nhóm người Việt cực đoan; đồng thời, chú trọng tới
công tác bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài; giải
quyết nhanh chóng các yêu cầu chính đáng và hợp pháp của bà con về các vấn đề
quốc tịch, cấp phát hộ chiếu, thị thực, hồi hương, khai sinh, công chứng…
Thứ tư, công tác thông tin
văn hoá, khuyến khích giao lưu
hội đoàn, văn hoá, thể thao được
đẩy mạnh một bước. Các hoạt
động giao lưu của cộng đồng với
trong nước được mở rộng như
các hoạt động Trại hè 2004 cho
Thanh niên kiều bào, đón đoàn
đại biểu kiều bào tiêu biểu về
thăm đất nước, nhiều nghệ sỹ kiều bào về nước biểu diễn, các hoạt động từ thiện
nhân đạo của kiều bào được tạo thuận lợi tại Việt Nam… Việc hỗ trợ cộng đồng
dạy và học tiếng Việt đang được các cơ quan trong nước và ở nước ngoài phối hợp
triển khai.
Tóm lại, Nghị quyết 36 và Chương trình hành động của Chính phủ đã và đang
được các cấp, các ngành triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, theo đúng kế
hoạch đề ra. Qua đó, có thể nói, từng bước đã dần hình thành một hệ thống chính
sách đồng bộ cũng như một cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cấp, các
ngành liên quan, tạo nên chuyển biến mới trong công tác đối với người Việt Nam
ở nước ngoài. Đây là một biểu hiện rõ ràng và cụ thể cho thấy Đảng và Nhà nước
Việt Nam quyết tâm tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới nói chung cũng như thực
hiện Nghị quyết 36, đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của bà con, tạo điều
kiện ngày càng thuận lợi hơn cho bà con hướng về quê hương, đất nước. Mọi vui
buồn, khó khăn của kiều bào, Đảng, Nhà nước và đồng bào trong nước luôn luôn
lắng nghe, với sự thông cảm sâu sắc và sẵn sàng sẻ chia. Đồng thời thành tâm
mong tất cả kiều bào, không phân biệt về dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội, lý do ra
nước ngoài, nguồn gốc xuất thân, cùng tự nguyện đứng vào khối đại đoàn kết dân
Trại hè thanh niên Kiều bào
tộc để có thể chung sức đồng lòng xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
3.2.
Những điểm còn hạn chế
Trước những ưu điểm của Nghị Quyết 36, việc phát huy vai trò của người Việt
Nam ở nước ngoài trong việc tuyên truyền đường lối đối ngoại của Đảng và chính
sách đại đoàn kết dân tộc của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế,
do nhiều nguyên nhân khác nhau:
Thứ nhất, Người Việt di cư ra nước ngoài phần lớn là lý do kinh tế. Ở môi
trường xã hội các nước sở tại, bà con phải bươn chải hoặc tập trung cao độ để
kiếm sống và duy trì công ăn việc làm nên ít có điều kiện để nắm bắt được các
đường lối, chính sách trong nước và tuyên truyền cho bạn bè quốc tế. Đã có một
số hoạt động tuyên truyền đối ngoại theo nhóm, cá nhân nhưng phần đông vẫn là
do tự phát, thông qua các hoạt động văn hoá – nghệ thuật, các sinh hoạt cộng đồng
khác để giới thiệu cho bạn bè thế giới biết về đất nước, con người và văn hoá Việt
Nam.
Thứ hai, công tác thông tin, tuyên truyền về đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta nói chung, chính sách đối ngoại nói riêng đối với bà con kiều bào vẫn
còn nhiều hạn chế, thông tin mới đến được các cơ quan đại diện của Việt Nam
hoặc đến được một số nhóm cộng đồng, còn phần đông bà con vẫn chưa tiếp cận
được nhiều nguồn thông tin, nhất là thông tin về tình hình đất nước và các chính
sách của Đảng và Nhà nước. Hình thức vận động kiều bào còn chưa thực sự đổi
mới, đa dạng và linh hoạt để có thể quy tụ, động viên bà con tham gia các hoạt
động có ích cho cộng đồng, cho quê hương cũng như tuyên truyền đường lối đối
ngoại của Đảng với bạn bè quốc tế. Một trở ngại lớn cho công tác thông tin, tuyên
truyền là vốn tiếng Việt của một bộ phận không nhỏ kiều bào ngày càng hạn chế,
nhất là đối với thế hệ thứ 2 trở đi
Thứ ba, các tổ chức, hội đoàn yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài
không đủ mạnh, quy mô nhỏ, ít thành viên, tổ chức lỏng lẻo. Hiện tượng này có
thể là kết quả của tình trạng phân tán chia rẽ trong cộng đồng người Việt.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *