BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC THỰC THI
TẠI QUẢNG NINH
Ngành: Luật kinh tế
NGUYỄN THU HẰNG
Hà Nội – 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC THỰC THI
TẠI QUẢNG NINH
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
Họ và tên học viên: Nguyễn Thu Hằng
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS, TS Tăng Văn Nghĩa
Hà Nội – 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung
nghiên cứu và số liệu trong đề tài này là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ
ràng. Nếu phát hiện ra có sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
Hội đồng, cũng như kết quả luận văn của mình.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thu Hằng
ii
LỜI CẢM ƠN
Những dòng đầu tiên trong Luận văn của mình tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến các thầy, cô giảng viên tại Đại học Ngoại thương, là những người đã
truyền thụ kiến thức cho tôi trong suốt khoá học.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn đến PGS, TS. Tăng Văn Nghĩa, người đã trực
tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn. Đồng thời, tôi cũng chân thành
cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã cung cấp những nguồn tư liệu quý giá, giúp tôi hoàn
thành Luận văn này.
Do thời gian và trình độ còn hạn chế, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của
các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thu Hằng
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………………………. 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN
PHẨM VÀ PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM ………………………
9
1.1. Khái quát về trách nhiệm của nhà sản xuất đối với hàng hóa (sản phẩm)
…………………………………………………………………………………………………………………….
9
1.1.1. Khái niệm sản phẩm ………………………………………………………………………
9
1.1.2. Khái niệm sản phẩm có khuyết tật………………………………………………….
10
1.1.3. Vấn đề về trách nhiệm của nhà sản xuất đối với hàng hóa đưa vào lưu
thông
…………………………………………………………………………………………………………..
13
1.2. Nội dung trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm ………………………………. 19
1.2.1. Trách nhiệm bảo đảm an toàn
……………………………………………………….
19
1.2.2. Trách nhiệm cung cấp thông tin
…………………………………………………….
21
1.2.3. Trách nhiệm bảo đảm quyền lựa chọn cho người tiêu dùng
………………
22
1.2.4. Trách nhiệm lắng nghe ý kiến của người tiêu dùng ………………………….
24
1.2.5. Trách nhiệm bảo hành
………………………………………………………………….
25
1.2.6. Trách nhiệm giải quyết khiếu nại …………………………………………………..
25
1.3. Những yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật trách nhiệm sản phẩm
…………….. 26
1.3.1. Yếu tố văn hóa kinh doanh của thương nhân
…………………………………..
26
1.3.2. Yếu tố ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp
………………………….
26
1.3.3. Yếu tố tự bảo vệ của người tiêu dùng
……………………………………………..
28
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM TẠI TỈNH
QUẢNG NINH ……………………………………………………………………………….. 29
2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm sản phẩm …………………………………………….. 29
2.1.1. Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm sản phẩm …………
29
2.1.1.1. Quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm sản phẩm……………………….. 29
2.1.1.2. Quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa về trách nhiệm sản
phẩm …………………………………………………………………………………………………………. 30
iv
2.1.1.3. Quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về trách nhiệm
sảnphẩm ……………………………………………………………………………………………………. 31
2.1.2. Thực trạng các quy định pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà
sản xuất
…………………………………………………………………………………………………….. 35
2.2. Thực thi pháp luật trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam
………………
41
2.2.1. Mức độ tuân thủ quy định về trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp
hiện nay
……………………………………………………………………………………………… 41
2.2.2. Mức độ quan tâm của doanh nghiệp đến việc thực thi trách nhiệm sản
phẩm …………………………………………………………………………………………………………. 46
2.2.3. Ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng liên quan đến trách nhiệm sản phẩm
………………………………………………………………………………………………………………………….. 49
2.3. Thực trạng tại tỉnh Quảng Ninh
……………………………………………………… 51
2.3.1. Năng lực quản trị và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Quảng
Ninh …………………………………………………………………………………………………………. 51
2.3.2. Thực thi trách nhiệm sản phẩm tại Quảng Ninh …………………………….. 53
2.4. Nhận xét chung ………………………………………………………………………………. 58
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ THỰC THI
PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM ………………………………………… 61
3.1. Những vấn đề đặt ra đối với tuân thủ của doanh nghiệp dưới giác độ trách nhiệm
sản phẩm
………………………………………………………………………………………………………. 61
3.2. Những khuyến nghị hoàn thiện và thực thi pháp luật trách nhiệm sản phẩm trong
thời gian tới
……………………………………………………………………………………………………. 63
3.2.1. Những khuyến nghị hoàn thiện pháp luật
…………………………………….
63
3.2.1.1. Cần nhanh chóng xây dựng cơ sở pháp lý về trách nhiệm sản phẩm
……… 63
3.2.1.2. Xây dựng chương về Trách nhiệm sản phẩm trong Dự thảo Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng ……………………………………………………………………. ………64
3.2.1.3. Sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá phần quy định về trách
nhiệm sản phẩm
………………………………………………………………………………….. ………68
3.2.2. Những khuyến nghị thực thi pháp luật…………………………………………68
v
3.2.2.1. Các doanh nghiệp cần nắm vững các quy định pháp luật về trách nhiệm
sản phẩm ………………………………………………………………………………………… 68
3.2.2.2. Thực hiện tốt công tác quản trị chất lượng
…………………………………. ………69
3.2.2.3. Tuân thủ các quy định về chất lượng và trách nhiệm đối với sản phẩm
…………………………………………………………………………………………………………. …….. 71
3.2.2.4. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải
quyết các tranh chấp về trách nhiệm sản phẩm có yếu tố quốc tế
……………………….
72
KẾT LUẬN
………………………………………………………………………………………. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
……………………………………………….. 76
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên bảng, biểu đồ
Trang
Bảng 2.2
09 chương trình thu hồi sản phẩm khuyết tật năm 2018
47
Biểu đồ 2.3a
Chỉ số năng lực quản trị doanh nghiệp (CMI)
52
Biểu đồ 2.3b
Chỉ số trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR)
53
vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AIG
Tập đoàn tài chính và bảo hiểm đa quốc gia của Mỹ
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
GATT
Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch
GMP
Tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt
NTD
Người tiêu dùng
ICL
Luật cạnh tranh thế giới
BLDS
Bộ luật dân sự
OCOP
Chương trình phát triển kinh tế khu vực nông thôn
VINATAS
Hội tiêu chuẩn bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam
TQM
Phương pháp quản lý chất lượng đồng bộ
TQC
Phương pháp quản lý chất lượng toàn diện
HSBC
Tập đoàn tài chính lớn nhất thế giới về giá trị vốn hóa thị trường
viii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
Tên đề tài: Pháp luật trách nhiệm sản phẩm và những vấn đề đặt ra trong việc
thực thi tại Quảng Ninh.
1. Kết quả đạt đƣợc của Luận văn
– Luận văn đã phân tích và làm rõ các vấn đề cơ bản về trách nhiệm sản phẩm
và trách nhiệm sản phẩm nói chung tại Việt Nam như: Khái niệm sản phẩm; khái
niệm sản phẩm có khuyết tật; vấn đề về trách nhiệm của nhà sản xuất đối với hàng
hóa đưa vào lưu thông; nội dung trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm…
– Luận văn đã phân tích và làm rõ những những thách thức đặt ra cho các
doanh nghiệp nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng liên quan tới
trách nhiệm sản phẩm: Những yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật trách nhiệm
sản phẩm: (1)- Yếu tố văn hóa kinh doanh của thương nhân; (2)- Yếu tố ý thức tuân
thủ pháp luật của doanh nghiệp; (3)- Yếu tố tự bảo vệ của người tiêu dùng.
– Luận văn đã phân tích và làm rõ thực tiễn thực thi pháp luật về trách
nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp; chỉ ra những bất cập của pháp luật và những
vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật.
– Luận văn đã đề xuất những giải pháp cho doanh nghiệp khắc phục những mặt
trái, những nguy cơ cũng như việc giải quyết tranh chấp về trách nhiệm sản phẩm.
2. Khả năng ứng dụng thực tiễn của Luận văn
– Luận văn phù hợp với lĩnh vực công tác chuyên môn của tác giả.
– Luận văn mang tính thực tiễn cao, có thể áp dụng đối với một số doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phần lớn các nước trên thế giới đều đã đưa ra pháp luật trách nhiệm sản phẩm
đối với nhà sản xuất nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Ở Việt Nam, pháp
luật trách nhiệm sản phẩm đã được đưa ra và áp dụng trong nhiều năm qua, tuy
nhiên các quy định chưa chặt chẽ, nghiêm ngặt, còn nhiều thiếu sót nên nhiều doanh
nghiệp dựa vào lỗ hỏng pháp luật đó để trốn luật, lách luật làm cho người tiêu dùng
chịu thiệt thòi lớn. Với quy định pháp luật đó bước đầu đã tạo được hành lang pháp
lý cho việc bảo vệ người tiêu dùng và chế tài đối với doanh nghiệp. Nhưng do nhiều
nguyên nhân mà các quy định trên đã ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, như: quy
định còn chung chung, chưa thực sự đảm bảo cơ chế cho việc thực thi các quyền
của người tiêu dùng… Do đó, yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần nâng cao, hoàn thiện
các quy định về trách nhiệm sản phẩm đối với nhà sản xuất để đảm bảo quyền lợi
người tiêu dùng và hạn chế đến mức thấp nhất các lỗi về sản phẩm do nhà sản xuất
gây ra, buộc các nhà sản xuất phải cân bằng giữa lợi nhuận kinh doanh và bồi
thường khi có thiệt hại xảy ra.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, đồng thời được sự
hướng dẫn tận tình của thầy giáo – PGS, TS Tăng Văn Nghĩa, em đã mạnh dạn đi
sâu nghiên cứu đề tài “Pháp luật trách nhiệm sản phẩm và những vấn đề đặt ra
trong việc thực thi tại Quảng Ninh”, qua đó nêu lên một số khuyến nghị góp phần
hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà sản xuất ở nước
ta trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay, ở nhiều quốc gia, sự tồn tại của chế định trách nhiệm sản
phẩm có tầm quan trọng đến mức mà mỗi phán quyết của Toà án về các vụ kiện về
bảo vệ người tiêu dùng luôn trực tiếp ảnh hưởng tới cách ứng xử của doanh nghiệp.
Nhiều cuộc khảo sát tại Hoa Kỳ cho thấy, không ít doanh nghiệp đã từ bỏ việc phát
triển và tung ra thị trường những loại sản phẩm mới chỉ vì nỗi e ngại về khả năng
2
gặp rắc rối với chế định về trách nhiệm sản phẩm. Việc nhà sản xuất Toyta buộc
phải thu hồi xe ô tô với số lượng lớn và qui mô toàn cầu đồng thời đối mặt với
những khoản phát sinh lên đến hàng trăm triệu đô la Mỹ, với những thiệt hại hàng
trăm tỷ đô la cho thấy tính chất nghiêm trọng của vấn đề trách nhiệm sản phẩm
trong thời đại hiện nay. Đã từng có những trường hợp vì phải bồi thường cho các
nạn nhân trong các vụ kiện tập thể liên quan đến trách nhiệm của doanh nghiệp mà
doanh nghiệp bị kiện lâm vào tình trạng phá sản. Chính vì thế, đã có thời kỳ thị
trường bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm được hình thành. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây, do các phán quyết của toà án liên quan đến trách nhiệm sản phẩm hầu
như luôn không thể mang lại những kết quả bất ngờ nên một số doanh nghiệp bảo
hiểm ở Hoa Kỳ đã từ bỏ việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm này. Điểm lại các bài
nghiên cứu trên các tạp chí luật chuyên ngành xuất bản ở Anh, Mỹ, Canada hoặc
Úc, chúng ta có thể thấy chủ đề trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp luôn được
coi là một trong những chủ đề được quan tâm của các nhà nghiên cứu. Hầu như năm
nào, các bài nghiên cứu về trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp cũng được đăng
tải. Trong số đó, nhiều bài nghiên cứu đề cập tới chế độ trách nhiệm sản phẩm ở
nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Hoa Kỳ, Anh Quốc, Nhật Bản. Dưới đây là
một số nghiên cứu mà đề tài tiếp cận được:
– Bài viết “The future of products liability in America (Tương lai của pháp
luật trách nhiệm sản phẩm ở Hoa Kỳ)” của ba luật sư của Hoa Kỳ là Gary Wilson,
Vincent Moccio và Daniel O. Fallon đăng trên tạp chí William Mitchell Law
Review (năm 2000) đã bàn về chế độ trách nhiệm sản phẩm ở Hoa Kỳ hiện tại,
những tồn tại, bất cập và đề xuất một số hướng cải cách, đổi mới.
– Công trình “The Evolution of Products Liability Law (Quá trình phát triển
của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm)”của Giáo sư Luật David G. Owen (Đại
học South Carolina – Hoa Kỳ) đăng trên tạp chí “The Review of Litigation
(Symposium 2007)” đã nghiên cứu khá tỉ mỉ quá trình phát sinh, phát triển của chế
độ trách nhiệm sản phẩm ở Hoa Kỳ, nguồn gốc, những ý tưởng cơ bản của chế độ
trách nhiệm ấy.
– “Products Liability – Why the EU does not need the restatement (third) (Chế
3
định trách nhiệm sản phẩm – Vì sao Cộng đồng Châu Âu không cần theo [mô hình
của Hoa Kỳ])” của Giáo sư Rebekah Rollo (Đại học Maryland – Đức) trong bài viết
đăng trên tạp chí “Brooklyn Law Review, Spring, 2004” đã nghiên ứu chế độ trách
nhiệm sản phẩm theo quy định của Cộng đồng Châu Âu (EU) và tác động của
những thay đổi trong chính sách trách nhiệm sản phẩm của Hoa Kỳ tới chính sách
tương tự của Cộng đồng Châu Âu.
– Bài viết “The Japanese Product Liability Law (Pháp luật trách nhiệm sản
phẩm của Nhật Bản)” của Jason F. Cohen (Nghiên cứu sinh Đại học Fordham –
Hoa Kỳ) đăng trên tạp chí “Fordham International Law Journal, November 1997”
đã làm rõ cơ sở chính sách và những đặc điểm cơ bản của chế độ trách nhiệm sản
phẩm ở Nhật Bản.
– “Products Liability in the United Kingdom (Chế định trách nhiệm sản phẩm ở
Vương quốc Anh)” Giáo sư Jane Stapleton (Đại học quốc gia Australia), đăng trên tạp
chí “Texas International Law Journal, Winter 1999” đã đề cập khá chi tiết về nguồn
gốc, chức năng và các đặc điểm cơ bản trong chế định trách nhiệm sản phẩm ở Anh
Quốc. Trong năm 2000, cũng chính giáo sư Jane Stapleton đã đăng tải bài viết
“Products Liability, an Anglo-Australian Perspective (Chế định trách nhiệm sản
phẩm – từ cách nhìn của Úc châu)” trên tạp chí “Washburn Law Journal, Spring,
2000” trong đó ông làm rõ quan niệm của Úc về chế độ trách nhiệm sản phẩm.
– Chuyên khảo “Product liability” của giáo sư D.Cray, trường đại học
Carleton, Otawa, Canada, đã xem xét vấn trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật của
các quốc gia dưới cách nhìn luật học so sánh.
Có thể thấy rằng, quan điểm chung của các nhà nghiên cứu thể hiện trong các
bài viết vừa nêu đều cho rằng, trách nhiệm sản phẩm là một trong những công cụ
pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, do điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, thời điểm bắt đầu áp dụng chế
định trách nhiệm sản phẩm nên nhiều nội dung của chế định này trong từng nước có
những sự khác nhau nhất định, nhất là về phạm vi của chế định trách nhiệm sản
phẩm, cơ chế đảm bảo thực thi chế định trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp.
4
Một điểm cũng rất đáng lưu ý là trong những năm gần đây, với hướng tiếp cận về
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, nhiều học giả đã xem xét vấn đề trách nhiệm
sản phẩm của doanh nghiệp cũng như các yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng từ góc độ
đạo đức kinh doanh. Nhiều học giả cho rằng, tuân thủ đúng yêu cầu trong chế độ
trách nhiệm sản phẩm cũng như các quy định khác bảo vệ người tiêu dùng là góp
phần xây dựng một nền kinh tế có luân lý, nền kinh tế dựa trên trật tự pháp luật và
trật tự đạo đức, nền kinh tế của sự hài hoà và phát triển bền vững. Có thể nói, các
kết quả nghiên cứu về chế độ trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp, nhất là thực
tiễn xây dựng và áp dụng các quy định về chế độ trách nhiệm sản phẩm của doanh
nghiệp ở các nước, nhất là các quốc gia có nền kinh tế thị trường lâu đời như Hoa
Kỳ, Anh, Nhật, Úc rất hữu ích cho việc triển khai đề tài nghiên cứu “Trách nhiệm
sản phẩm của doanh nghiệp – công cụ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng”.
Việc nghiên cứu trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp với tư cách là một
trong những công cụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam chưa phải là chủ
đề được giới nghiên cứu Việt Nam quan tâm. Cho đến nay, trên thị trường chưa có
đầu sách nào về vấn đề này. Bên cạnh đó, khi tra cứu một số tạp chí nghiên cứu
chuyên ngành luật như Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, tạp chí Dân chủ và Pháp luật (từ năm 1990 trở lại đây),… cũng hiếm có bài
nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này. Trên các tạp chí luật của các nước trên thế
giới, chủ đề về trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp ở Việt Nam cũng chưa
được nghiên cứu và đăng tải.
Trong khuôn khổ Đề tài khoa học về tác hại của chất độc da cam, một số
nghiên cứu về trách nhiệm sản phẩm cũng đã được tiến hành nhằm góp phần xác
định trách nhiệm pháp lý của các công ty Mỹ đối với những hậu quả do chất độc
màu da cam để lại cho các nạn nhân đang khởi kiện chống lại các công ty này. Một
trong những nghiên cứu đó do GS.TS Lê Hồng Hạnh thực hiện.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, việc nhận diện, làm rõ bản chất của chế độ
trách nhiệm sản phẩm trong thực tiễn xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam,
nhất là pháp luật kinh doanh và pháp luật bảo vệ người tiêu dùng để từ đó đề ra các
giải pháp hoàn thiện vẫn chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức. Ngay bản thân khái
5
niệm “trách nhiệm sản phẩm” (product liability) vẫn còn xa lạ đối với đại đa số
người tiêu dùng và thậm chí giới luật gia. Cho đến nay,“trách nhiệm sản phẩm”
chưa được coi là thuật ngữ pháp lý được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp
luật của Việt Nam. Việc phân biệt hoặc giải quyết mối quan hệ giữa khái niệm
“trách nhiệm sản phẩm” với nhiều khái niệm có liên quan khác như “trách nhiệm
pháp lý”, “trách nhiệm dân sự”, “trách nhiệm bồi thường thiệt hại”, “trách nhiệm
của doanh nghiệp”,… cũng chưa được đầu tư, luận giải thoả đáng.
Thực hiện kế hoạch nghiên cứu năm 2007, Viện Khoa học Pháp lý đã phối
hợp với Dự án Hỗ trợ cải cách pháp luật của Canada tại Việt Nam (dự án Lerap) tổ
chức Hội thảo “Cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng: thực tiễn Việt Nam và kinh
nghiệm quốc tế” (tổ chức tại Khách sạn Melia trong 3 ngày từ ngày 14- 16/8/2007)
với sự tham gia của gần 70 đại biểu là đại diện các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng
(Cục quản lý cạnh tranh – Bộ Thương mại, Cục quản lý thị trường – Bộ Thương mại,
Cục an toàn vệ sinh thực phẩm – Bộ Y tế…), đại diện Bộ Tư pháp, Toà Dân sự –
TAND Tối cao, Toà Dân sự – TAND thành phố Hà Nội, đại diện Hội Tiêu chuẩn và
Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, đại diện Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu
dùng một số tỉnh, thành phố, các chuyên gia pháp lý, đại diện Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam, đại diện một số hiệp hội doanh nghiệp, đại diện của một số
doanh nghiệp, các cơ quan truyền thông, báo chí, một số chuyên gia của Canada.
Với hơn 10 bài tham luận tại Hội thảo, các đại biểu đã nêu rõ những khoảng trống
pháp lý trong công tác bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay, trong đó có
khoảng trống về chế định trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp7. Nhiều ý kiến
tham luận tại Hội thảo đã đề xuất việc hoàn thiện chế định trách nhiệm sản phẩm
của doanh nghiệp ở Việt Nam (chẳng hạn tham luận “Vấn đề trách nhiệm sản phẩm
trong pháp luật Việt Nam” của Thạc sỹ Nguyễn Văn Cương (đã đăng tải trên Thông
tin khoa học pháp lý số 4+5/2007 của Viện Khoa học Pháp lý)). Tuy nhiên, đó mới
chỉ là các nghiên cứu bước đầu về chế định trách nhiệm sản phẩm với tư cách một
công cụ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng.
Một điều rất đáng nói là trong khi vấn đề trách nhiệm sản phẩm là một trong
các chủ đề được nhiều cơ sở đào tạo luật ở nước ngoài đưa vào chương trình giảng
6
dạy (thường nằm trong các phần về luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng), thì
các chương trình đào tạo luật ở Việt Nam hầu như không đề cập. Các giáo trình về
luật dân sự hoặc luật thương mại của khoa Luật ĐH Quốc gia Hà Nội, trường ĐH
Luật Hà Nội, Khoa Luật ĐH Kinh tế quốc dân và trường ĐH Luật thành phố Hồ
Chí Minh đều nằm trong tình trạng chung đó… Xuất phát từ những thực tế như thế
có thể nói rằng, việc nghiên cứu sâu hơn về bản chất, đặc điểm của chế định trách
nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp, luận giải mô hình chế định trách nhiệm sản
phẩm phù hợp với trình độ, đặc điểm kinh tế-xã hội-pháp lý của Việt Nam, đánh giá
các tác động kinh tế-xã hội có thể xảy ra khi áp dụng chế định trách nhiệm sản
phẩm của doanh nghiệp từ đó có các đề xuất hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm
sản phẩm của doanh nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay là hết sức cần thiết. Ngay cả Ban soạn thảo Luật Bảo vệ Quyền lợi người
tiêu dùng hiện nay cũng chưa có được cách tiếp cận đầy đủ đối với chế định trách
nhiệm sản phẩm.
3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu lý luận, đánh giá các quy định về pháp luật trách
nhiệm của sản phẩm của một số nước trên thế giới, cũng như thực trạng thực thi
pháp luật của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng để
đưa ra các khuyến nghị hoàn thiện và thực thi pháp luật trách nhiệm sản phẩm trong
thời gian tới nhằm góp phần đảm bảo an toàn pháp lý trong hoạt động sản xuất hàng
hóa, dịch vụ.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề trách nhiệm sản phẩm, quy định
của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm và những vấn đề đặt ra trong việc thực thi tại
tỉnh Quảng Ninh.
5. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, Luận văn tập trung vào việc làm rõ các vấn đề lý luận chung về
trách nhiệm sản phẩm của các nước trên thế giới, pháp luật và thực tiễn chế độ trách
nhiệm sản phẩm ở Việt Nam cũng như tỉnh Quảng Ninh.
7
Về không gian, Luận văn nghiên cứu nội dung trách nhiệm sản phẩm của Việt
Nam nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
Về thời gian, Luận văn sử dụng số liệu thống kê trong giai đoạn 10 năm gần
nhất và đề xuất một số định hướng đến năm 2025.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận văn sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, bao gồm:
– Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong
tất cả các chương của luận văn để phân tích các khái niệm, quy định của pháp luật,
các số liệu,…
– Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong luận văn để so sánh một số quy
định của pháp luật trong các văn bản khác nhau, tập trung chủ yếu ở chương 2 của
luận văn.
– Phương pháp diễn giải quy nạp: Được sử dụng trong luận văn để diễn giải
các số liệu, các nội dung trích dẫn liên quan và được sử dụng tất cả các chương của
luận văn.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khác: phương
pháp thống kê, đối chiếu…
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
– Luận văn góp phần vào việc đưa ra một số cơ sở khoa học trong quá trình
hoàn thiện pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật trách nhiệm sản xuất
hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam hiện nay;
– Góp phần giúp chính quyền và các cơ quan, ban, ngành nghiên cứu, hoàn
thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm sản xuất
hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
8. Kết cấu đề tài nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các bảng
8
biểu, luận văn được chia thành ba chương với nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm sản phẩm và pháp luật
trách nhiệm sản phẩm
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về trách
nhiệm sản phẩm tại tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Một số khuyến nghị hoàn thiện và thực thi pháp luật trách
nhiệm sản phẩm
9
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN
PHẨM VÀ PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM
1.1. Khái quát về trách nhiệm của nhà sản xuất đối với hàng hóa (sản
phẩm)
1.1.1. Khái niệm sản phẩm
Muốn hiểu được khái niệm trách nhiệm sản phẩm, trước tiên chúng ta phải tìm
hiểu khái niệm sản phẩm. Theo quan điểm truyền thống, sản phẩm là kết quả đầu ra
của quá trình lao động sản xuất có chủ định của con người. Vào thời kì cách mạng
công nghiệp ở châu Âu, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, hàng hóa bắt đầu
được sản xuất hàng loạt với số lượng lớn. Nhưng vào thời điểm đó, do hạn chế về
kỹ thuật, các sản phẩm làm ra vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu. Vì thế, nhà sản xuất
có vị thế cao hơn hẳn người tiêu dùng. Nhưng ngày nay, khi năng lực sản xuất đã đủ
đáp ứng nhu cầu của con người thì khái niệm này đã không còn phù hợp nữa.
Ngày nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về sản phẩm được đưa ra. Theo
tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000:2000 thì sản phẩm là kết quả của một quá trình tập hợp
các hoạt động có liên quan lẫn nhau hoặc tương tác với nhau nhằm biến đổi đầu vào
thành đầu ra. Theo quan điểm marketing, Philip Kotler – “cha đẻ của marketing hiện
đại” – đã định nghĩa: “Sản phẩm là tất cả những thứ có thể thỏa mãn được mong
muốn hay nhu cầu” và được cung ứng cho thị trường nhằm mục đích thu hút sự chú
ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng. Sản phẩm có thể tồn tại dưới dạng hàng hóa, dịch vụ
hoặc ý tưởng.
Riêng đối với pháp luật trách nhiệm sản phẩm, do những khác biệt về tính
chất, đặc điểm của các loại sản phẩm (cụ thể gồm có hai nhóm chính là hàng hóa và
dịch vụ) mà khái niệm sản phẩm chỉ tập trung vào các loại hàng hóa. Chỉ thị về
Trách nhiệm sản phẩm của Liên minh châu Âu ban hành năm 1985 đã quy định tại
Điều 2 như sau: Sản phẩm là tất cả những động sản, ngoại trừ những sản phẩm nông
nghiệp thô và các trò chơi, dù có được sử dụng trong việc xây dựng bất động sản
hoặc gắn liền với bất động sản hay không. Điều 2 Luật Trách nhiệm sản phẩm của
10
Trung Quốc đưa ra khái niệm về sản phẩm như sau: Sản phẩm là những thứ được
sản xuất nhằm mục đích kinh doanh.
Sản phẩm gồm có nhiều loại, người ta có thể đem ra thị trường trao đổi, mua bán
các loại hàng hóa, cung cấp dịch vụ, mua bán các ý tưởng kinh doanh, mua bán các tổ
chức, cho thuê mướn đất đai… nhưng hai thành phần chủ yếu của nó vẫn là hàng hóa
và dịch vụ, hay sản phẩm hữu hình và sản phẩm vô hình. Hai thành tố này tuy đều có
các đặc điểm chung của sản phẩm là có thể trao đổi, mua bán được và nhằm mục đích
thỏa mãn nhu cầu của con người, nhưng giữa chúng vẫn có sự khác biệt.
Dưới giác độ của trách nhiệm sản phẩm thì sản phẩm bao gồm những động sản
được sản xuất hoặc chế biến1, nó không phụ thuộc vào việc sản xuất theo dây chuyền
công nghiệp với quy mô lớn hay sản xuất thủ công những sản phẩm riêng lẻ, Tăng
Văn Nghĩa (2008, tr. 41-49). Cách hiểu này tương đồng với quy định của pháp luật ở
nhiều nước về sản phẩm đồng thời mang tính chất đặc thù của pháp luật trách nhiệm
sản phẩm. Bên cạnh đó, như đã phân tích, trong pháp luật về trách nhiệm sản phẩm
của một số quốc gia còn mở rộng khái niệm sản phẩm đối với các dịch vụ.
1.1.2. Khái niệm sản phẩm có khuyết tật
Một sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật thông thường khi được đưa vào
lưu thông mà gây ra các thiệt hại về tài sản, sức khỏe hay tính mạng cho người sử
dụng nó hoặc người thứ ba thì sản phẩm đó bị coi là có khuyết tật. Khuyết tật của
sản phẩm là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của trách nhiệm sản phẩm, vì trách
nhiệm sản phẩm không phụ thuộc vào yếu tố lỗi của nhà sản xuất. Khuyết tật của
sản phẩm xuất hiện khi sản phẩm không đảm bảo sự an toàn mà thông thường người
ta có thể mong đợi và sự an toàn đó dẫn tới các tổn thất liên quan đến tính mạng và
tài sản của người sử dụng.
Để đánh giá một sản phẩm có an toàn theo tiêu chuẩn thông thường không,
chúng ta cần dựa trên một số tiêu chuẩn cụ thể:
1 Theo Điều 2 điểm 2 Luật Trách nhiệm sản phẩm của Cộng hòa Liên bang Đức (Produkthaftungsgetz
sửa đổi 2002).
11
Thứ nhất là mối quan hệ giữa giá cả và sự an toàn của sản phẩm. Đối với mỗi
mức giá nhất định thì người tiêu dùng có quyền có được những sự an toàn nhất
định. Ví dụ sản phẩm bình nước nóng có hệ thống chống rò điện thường có giá cao
hơn những sản phẩm bình nước nóng khác. Khi mua sản phẩm này, người tiêu dùng
trông đợi sản phẩm chắc chắn không bị tai nạn do điện giật như các bình nước nóng
khác. Nếu tai nạn vẫn xảy ra thì sản phẩm đó bị coi là có khuyết tật.
Một khía cạnh khác đó là sự thiếu an toàn một cách bất hợp lý khi sử dụng sản
phẩm. Một số sản phẩm có sự nguy hiểm bản chất. Ví dụ như axit dùng để sản xuất
hóa chất, sản xuất ắc-quy là một sản phẩm nguy hiểm, nhưng sự nguy hiểm đó là
bản chất, gắn liền với công năng của sản phẩm. Đối với những sản phẩm này, sự
thiếu an toàn là hợp lý và nhà sản xuất sẽ không phải chịu trách nhiệm sản phẩm đối
với các trường hợp này.
Một yếu tố khác để đánh giá sự an toàn của sản phẩm là sản phẩm đó có
những cảnh báo thích hợp hay không. Nếu các sản phẩm tiềm ẩn các nguy hiểm
nhưng được cảnh báo một cách thích hợp thì nhà sản xuất cũng không phải chịu
trách nhiệm. Điển hình là các sản phẩm pin điện thoại, trên các sản phẩm này
thường có ký hiệu không vứt vào thùng rác, không đốt pin…
Một sản phẩm không an toàn có thể do nhiều nguyên nhân, khuyết tật có thể
xuất hiện từ quá trình thiết kế, trong khi sản xuất, hoặc xuất hiện do sự cảnh báo
không đầy đủ từ nhà sản xuất. Vì sản phẩm đến tay người tiêu dùng phải thông qua
nhiều công đoạn nên việc phân loại khuyết tật sản phẩm sẽ làm cho việc xác định
người phải chịu trách nhiệm trong các vụ kiện liên quan đến trách nhiệm sản phẩm
dễ dàng hơn. Khuyết tật sản phẩm được phân loại thành khuyết tật do lỗi sản xuất,
khuyết tật do lỗi thiết kế và khuyết tật do lỗi không cảnh báo hoặc cảnh báo không
đầy đủ. Theo thống kê của tập đoàn bảo hiểm AIG (American Intemational Group)
tỷ lệ nguyên nhân của các vụ kiện trách nhiệm sản phẩm do lỗi sản xuất là 5%, lỗi
thiết kế là 60 % và lỗi cảnh báo là 35%.
Khuyết tật do lỗi sản xuất
12
Khuyết tật do lỗi sản xuất xuất hiện khi nhà sản xuất đã không tuân theo mẫu
thiết kế hoặc thành phẩm không đáp ứng được quy cách phẩm chất nhà sản xuất đề
ra. Lỗi này có thể xảy ra khi nhà sản xuất thay đổi thành phẩm nguyên vật liệu hoặc
không tuân thủ quy trình sản xuất. Ví dụ nhu một công ty xây dựng được giao thi
công một cây cầu, nhưng trong quá trình thi công, do tiến độ công việc quá gấp rút,
người thi công đã phải tăng thêm khối lượng sử dụng một số phụ gia để có thể hoàn
thành cây cầu đúng thời gian quy định. Nếu khi đưa vào sử dụng mà cây cầu có sự
cố gẫy, sụp, nứt vỡ thì công ty xây dựng đó sẽ phải chịu trách nhiệm.
Khuyết tật do lỗi thiết kế
Trong một số trường họp, sản phẩm được sản xuất đúng theo thiết kế nhưng
bản thân sản phẩm có thể gây nguy hiểm bất hợp lý cho người tiêu dùng. Điều này
xảy ra vì nhà thiết kế, nhà sản xuất đã không lường trước được, hoặc không phát
hiện được những khiếm khuyết này trong quá trình kiểm nghiệm chất lượng sản
phẩm trước khi đưa vào lưu thông. Hiện tượng này rất phổ biến trong ngành công
nghiệp chế tạo ô tô. Hàng năm, dựa trên các báo thống kê về nguyên nhân gây tai
nạn trong các tai nạn giao thông, các hãng sản xuất ô tô có thể phát hiện sự thiếu an
toàn trong bản thân thiết kế của các sản phẩm của mình và đưa ra các biện pháp khắc
phục, thường là thu hồi và sửa chữa các sản phẩm lỗi. Điển hình là trường hợp của
Toyota trong năm 2009 vừa qua. Sau khi phát hiện lỗi của hệ thống điều khiển điện
tử của chế độ chạy tự động gây tăng tốc đột ngột, Toyota đã buộc phải công bố danh
sách những dòng xe bị lỗi và thu hồi tổng cộng 4,87 triệu chiếc xe trên toàn thế giới.
Khuyết tật do lỗi không cảnh báo hoặc cảnh báo không đầy đủ
Khuyết tật này thường xuất hiện trong quá trình quảng bá để đưa sản phẩm
vào tiêu thụ, trong đó nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ đã không cảnh báo
đầy đủ về những nguy hiểm tiềm ẩn của sản phẩm. Khuyết tật này thường xảy ra
đối với các sản phẩm thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm… khi nhà sản xuất không
hướng dẫn cụ thể cách sử dụng, tác dụng phụ có thể gặp phải của sản phẩm. Ngày
nay, các sản phẩm dược phẩm, mỹ phẩm thường có ghi chú “Để xa tầm tay trẻ em”.
Điều này là cần thiết vì trong nhiều trường hợp, việc sử dụng sai phương pháp, sai
13
liều lượng hoặc việc kết hợp các loại sản phẩm này với nhau không phù hợp có thể
làm sản phẩm không có tác dụng, thậm chí gây ảnh hưởng tới sức khỏe, tính mạng
của người sử dụng.
1.1.3. Vấn đề về trách nhiệm của nhà sản xuất đối với hàng hóa đưa vào
lưu thông
Về bản chất, trách nhiệm sản phẩm chính là sự ràng buộc về mặt pháp luật
trách nhiệm của các nhà sản xuất, phân phối cũng như người bán lẻ đối với công
chúng khi cung ứng sản phẩm trên thị trường. Trách nhiệm đó thể hiện ở việc khi
một sản phẩm được nhà cung cấp đưa ra thị trường, sản phẩm đó đương nhiên phải
được coi là an toàn, không phụ thuộc vào việc người sản xuất hay cung ứng có công
bố là sản phẩm đó có an toàn hay không. Với sự ràng buộc trách nhiệm này, để
tránh hoặc giảm thiểu những hậu quả pháp lý mà sản phẩm khuyết tật gây ra thiệt
hại cho người tiêu dùng, nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm khi đưa sản phẩm ra thị
trường sẽ phải nỗ lực để loại trừ khuyết tật của sản phẩm, từ đó đem lại cho người
tiêu dùng những sản phẩm đảm bảo an toàn. Trong trường hợp sự an toàn không
được đảm bảo và người tiêu dùng phải gánh chịu thiệt hại thì họ sẽ được bồi
thường, do vậy lợi ích của người tiêu dùng sẽ được đảm bảo ở mức độ cao nhất. Với
hệ thống quy định của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm, người tiêu dùng đương
nhiên được bảo vệ và không đòi hỏi phải có bất kỳ khả năng đàm phán, thuyết phục
nào và không một nhà sản xuất hay cung ứng nào có thể sử dụng ưu thế của mình
trong quan hệ với người tiêu dùng để loại trừ trách nhiệm này.
Để xác định liệu nhà sản xuất hay người bán có phải chịu trách nhiệm đối với
người tiêu dùng về các thiệt hại do khuyết tật của sản phẩm gây ra hay không, pháp
luật về trách nhiệm sản phẩm dựa trên ba chuẩn pháp lý cơ bản là học thuyết về sự
bất cẩn (negligence), học thuyết về sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm (warranty) và học
thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt (strict liability).
Học thuyết về sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm đưa ra những căn cứ để người
tiêu dùng khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại trong trường hợp người sản xuất, cung
ứng vi phạm nghĩa vụ bảo đảm. Theo học thuyết về sự bảo đảm, người sản xuất,
14
cung ứng khi đưa sản phẩm ra thị trường thì cũng có nghĩa là đưa ra những bảo đảm
nhất định về sản phẩm của mình đối với người tiêu dùng. Khi sản phẩm đó có
khuyết tật và gây thiệt hại cho người tiêu dùng tức là người sản xuất, cung ứng đã vi
phạm nghĩa vụ bảo đảm và vì vậy họ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người
tiêu dùng. Các hình thức bảo đảm bao gồm bảo đảm công khai (express warranty);
bảo đảm ngầm định, bao gồm bảo đảm ngầm định về tính thương mại (implied
warranty of merchantability) và đảm bảo ngầm định về tính phù hợp về công dụng
của sản phẩm (implied warranty of fitness).
(i) Bảo đảm công khai được xác định bởi tuyên bố hay giới thiệu của người
bán hay người cung cấp sản phẩm rằng sản phẩm A hoặc X của họ có những công
dụng nhất định. Ví dụ, nhà sản xuất dược phẩm Y ghi trên toa thuốc rằng dược
phẩm này chữa được bệnh hen. Với đảm bảo này, nhà sản xuất cam kết rằng dược
phẩm có công dụng chữa hen. Bảo đảm công khai cũng có thể thể hiện bằng lời nói
đưa ra trong quá trình thương lượng hoặc được đưa vào các bản hợp đồng mua bán,
vào mẫu thử, trong lần mua trước đối với cùng một loại sản phẩm, hoặc khẳng định
trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc những thứ đi kèm theo sản phẩm.
(ii) Bảo đảm ngầm định xuất hiện khi nhà sản xuất hay cung ứng không đưa ra
sự thay đổi hoặc sự khước từ nào đối với tính thương mại của sản phẩm. Trong
trường hợp đó, sản phẩm được coi là mang tính thương mại và phải đáp ứng những
tiêu chuẩn chung đối với sản phẩm cùng loại, bao gồm cả những yêu cầu về mức độ
an toàn hợp lý.
(iii) Bảo đảm về công dụng (sự phù hợp với một mục đích cụ thể) xuất hiện khi
người bán biết hoặc có lý do để biết về mục đích cụ thể mà người mua sản phẩm
mong đạt được. Khi đó, người bán được coi là bảo đảm rằng sản phẩm sẽ là phù
hợp cho mục đích mà vì thế người mua đã mua nó. Ví dụ, trong trường hợp khách
hàng nói với người bán máy vi tính rằng anh ta cần một chiếc máy vi tính tốc độ cao
để quản lý kho dữ liệu và các hoạt động thu chi trong hoạt động kinh doanh của
mình và người bán đã khuyên người mua mua một chiếc máy tính cụ thể để xử lý
các yêu cầu này. Điều này có nghĩa là người bán đang đưa ra một bảo đảm ngầm
15
định. Nếu người mua chiếc máy đó phát hiện thấy máy đã mua không đáp ứng được
yêu cầu quản lý kho dữ liệu và các khoản thu chi của mình thì có thể kiện.
Bảo đảm ngầm định được thiết lập theo quy định của pháp luật, và đi kèm với
việc chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hóa, trừ trường hợp bảo đảm ngầm
định bị hạn chế hoặc loại trừ một cách rõ ràng bởi hợp đồng. Tuy nhiên, trong
trường hợp thiệt hại gây ra là thương tích về thân thể, Luật mẫu về thương mại của
Hoa Kỳ không cho phép bất kỳ sự hạn chế hay loại trừ trách nhiệm nào trong hợp
đồng. Những hạn chế và loại trừ như vậy đều đương nhiên vô hiệu (Điều 2-719 (3)).
Trong thực tiễn toà án Mỹ liên quan đến trách nhiệm sản phẩm, người tiêu
dùng ít sử dụng nghĩa vụ đảm bảo để làm cơ sở khởi kiện. Lý do là để áp đặt trách
nhiệm trên cơ sở nghĩa vụ đảm bảo, cần phải chứng minh bản chất mối quan hệ giữa
người bán, người cung ứng và người mua. Việc chứng minh mối liên hệ này không
đơn giản. Hơn nữa, mức bồi thường được chấp nhận trong các vụ kiện bảo vệ người
tiêu dùng thường thấp hơn mức bồi thường có được nếu khởi kiện trách nhiệm sản
phẩm dựa trên những cơ sở khác.
Sự bất cẩn là học thuyết gắn với việc xem xét hành vi của con người. Bất cẩn
được hiểu một cách đơn giản là hành động sai được đánh giá dựa trên quan niệm
chung về sự hợp lý hay không hợp lý. Nếu một hành vi được coi là không hợp lý thì
người có hành vi đó phải chịu trách nhiệm về thiệt hại mình đã gây ra. Nếu hành vi
của một người là hợp lý thì người đó sẽ không phải chịu trách nhiệm, kể cả khi
hành vi đó dẫn đến thiệt hại. Một hành vi được coi là hợp lý khi người có hành vi
đó đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa cần thiết tương xứng với mức độ hậu quả
được đo lường từ trước. Trong trường hợp biện pháp phòng ngừa thấp hơn mức độ
hậu quả có thể xảy ra thì hành vi đó sẽ bị coi là bất cẩn. Trong việc áp dụng trách
nhiệm sản phẩm, bất cẩn được coi là một cơ sở quan trọng. Sự bất cẩn (tắc trách) là
việc nhà sản xuất không quan tâm ở mức độ cần thiết, tức là mức độ mà một nhà
sản xuất hay cung ứng bình thường cần có khi sản xuất hay cung ứng sản phẩm của
mình ở trong điều kiện và hoàn cảnh tại thời điểm sản xuất. Để xác định việc nhà
sản xuất, cung ứng có bất cẩn hay không, cần phải chứng minh được sự hiểu biết
của bên gây thiệt hại về khả năng xảy ra thiệt hại. Tuy nhiên, không phải bất cứ sự