10637_Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch từ TTTH tại tỉnh Quảng Ninh

luận văn tốt nghiệp

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG
LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH, THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI QUẢNG
NINH

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

NGUYỄN THỊ HƢƠNG XUÂN

Hà Nội – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH TỪ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật kinh tế

NGUYỄN THỊ HƢƠNG XUÂN

Hà Nội – 2018

ii

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG
LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH, THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI QUẢNG NINH

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

Học viên: NGUYỄN THỊ HƢƠNG XUÂN
Ngƣời hƣớng dẫn: TS NGUYỄN VĂN CẢNH

Hà Nội – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ
du lịch từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng Ninh

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

Học viên: Nguyễn Thị Hƣơng Xuân
Ngƣời hƣớng dẫn: TS Nguyễn Văn Cảnh

Hà Nội – 2018

iii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi
số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực có nguồn gốc
rõ ràng và chưa từng được ai công bố trong bất kz công trình nào trước đây.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả

Nguyễn Thị Hương Xuân

iv

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo Trường Đại học Ngoại thương,
nhất là các cán bộ, giảng viên khoa sau đại học đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác
giả hoàn thành bản luận văn này. Đặc biệt, tác giả xin trân trọng cảm ơn thầy giáo
hướng dẫn TS Nguyễn Văn Cảnh đã hết lòng ủng hộ và hướng dẫn tác giả hoàn
thành luận văn.
Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ, chia sẻ khó khăn và
động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận
văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Học viên

Nguyễn Thị Hương Xuân

v

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

Luận văn đã tập trung nghiên cứu các nội dung chủ yếu sau:
– Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch và thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng
Ninh từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch.
– Làm rõ những vấn đề lý luận về cạnh tranh và pháp luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, CTKLM theo pháp luật Việt
Nam.
– Phân tích, đánh giá thực tiễn Pháp luật về hành vi CTKLM trong dịch vụ du
lịch tại tỉnh Quảng Ninh.
– Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về dịch vụ du lịch tại tỉnh
Quảng Ninh.
– Đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách và pháp
luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Tổ chức thực hiện pháp luật
cạnh tranh về du lịch.

vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
CNH
Công nghiệp hoá
HĐH
Hiện đại hoá
UBND
Uỷ ban nhân dân
HĐDL
Hoạt động du lịch
KT-XH
Kinh tế – xã hội
PL CTKLM
Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh
CTKLM
Cạnh tranh không lành mạnh
DVDL
DL
VHTTDL
TP
TNHH
CP DL
XNK
KDNH
Dịch vụ du lịch
Du lịch
Văn hóa thể thao du lịch
Thành phố
Trách nhiệm hữu hạn
Cổ phần du lịch
Xuất nhập khẩu
Kinh doanh nhà hàng

vii

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………………..1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU
LỊCH
……………………………………………………………………………………………………………7
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực dịch vụ du lịch
………………………………………………………………………………..7
1.1.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ
du lịch
……………………………………………………………………………………………………..7
1.1.1.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lạnh mạnh …………………………..7
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại về dịch vụ du lịch
…………………………..10
1.1.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnhtrong lĩnh vực dịch vụ
du lịch
……………………………………………………………………………………………………17
1.1.3. Phân loại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch
vụdu lịch
………………………………………………………………………………………………..21
1.2. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du
lịch
…………………………………………………………………………………………………………..22
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực dịch vụ du lịch ………………………………………………………………………………….22
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực dịch vụ du lịch ……………………………………………………………………………24
1.2.3. Chủ thể của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực dịch vụ du lịch ………………………………………………………………………………….27
1.2.4. Nguyên tắc của pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du
lịch
………………………………………………………………………………………………………..27
1.3. Nội dung của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực dịch vụ du lịch
…………………………………………………………………………………….27
1.3.1. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực du lịch …………27
1.3.2. Biện pháp xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực dịch vụ du lịch ………………………………………………………………………………….28

viii

1.3.3. Quy định về thẩm quyền xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ………………………………………………………….28
1.4. Các yêu tố ảnh hưởng đến pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lịch vực du
lịch
…………………………………………………………………………………………………………..29
1.4.1.Yếu tố chính trị
……………………………………………………………………………….29
1.4.2. Trình độ, năng lực xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện về hành
vicạnh tranh trong lĩnh vực DVDL ……………………………………………………………29
1.4.3. Yếu tố về ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý …………………………………..30
1.4.4. Vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực du lịch ………………………………………………………………30
Kết luận chƣơng 1 ………………………………………………………………………………………32
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ
THỰC TIỀN THỰC THI TẠI TỈNH QUẢNG NINH ………………………………….33
2.1. Thực trạng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
dịch vụ du lịch
…………………………………………………………………………………………..33
2.1.1. Các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du
lịch
………………………………………………………………………………………………………..33
2.1.2. Các quy định về hình thức xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực Dịch vụ du lịch …………………………………………………………34
2.1.3. Các quy định về thẩm quyềm xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực dịch vụ du lịch …………………………………………………………………..36
2.2. Tổng quan về tỉnh Quảng Ninh
……………………………………………………………..36
2.2.1.Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiện …………………………………………………………36
2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội ………………………………………………………………….39
2.2.2.1. Tài chính, tín dụng ………………………………………………………………………39
2.2.2.2. Đầu tư, xây dựng
…………………………………………………………………………40
2.2.2.3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp ………………………………………….40
2.2.2.4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. …………………………………………41
2.2.2.5. Sản xuất công nghiệp …………………………………………………………………..42

ix

2.2.2.6. Thương mại, dịch vụ ……………………………………………………………………42
2.2.2.7. An sinh xã hội
……………………………………………………………………………..43
2.2.3. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế xã hội đến thực thi pháp luật về hành vi
cạnh tranh không lành mạnh tại tỉnh Quảng Ninh ………………………………………44
2.3. Thực trạng về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch trong thời gian
qua và thực tiễn xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực tiễn tại
tỉnh Quảng Ninh
………………………………………………………………………………………..45
2.3.1. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính chất lợi dụng ……..45
2.3.2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính chất công kích ……48
2.3.3. Các hành vi lôi kéo bất chính khách hàng
…………………………………………51
2.3.4. Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch …………………………………………………………….51
2.3.5. Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại đến quyền lợi của khách du
lịch
………………………………………………………………………………………………………..53
2.3.6. Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại môi trường, cảnh quan thiên
nhiên du lịch
…………………………………………………………………………………………..54
2.4. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng Ninh ………55
2.4.1. Đánh giá tồn tại của hệ thống văn bản pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực dịc vụ du lịch …………………………………………..55
2.4.2. Đánh giá chung về việc thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng Ninh ……………………..67
Kết luận chƣơng 2 ………………………………………………………………………………………69
CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG
LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH THỰC TẠI TỈNH QUẢNG NINH
……………70
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực thi hiệu quả pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ……………………………………………70

x

3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực dịch vụ du lịch …………………………………………………………………..70
3.1.2. Định hướng thực thi hiệu quả pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ở Việt Nam …………………………………………80
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực dịch vụ du lịch
………………………………………………………………………………75
3.2.1. Tăng cường tính công khai, minh bạch và sự tham gia đóng góp ý kiến
của nhân dân, của đối tượng điều chỉnh, đối tượng chịu sự tác động của văn
bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực DVDL

……………………………………………………………………………………………………………..75
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện nội dung pháp luật về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực DVDL mang tính toàn diện, đảm bảo bao quát hết các
loại hành vi và chủ thể thực hiện hành vi nhằm cạnh tranh không lành mạnh
..76
3.2.3. Giải pháp đổi mới quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực DVDL đảm bảo tính khả thi ………78
3.2.4. Giải pháp nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và quần
chúng nhân dân về pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung
và pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực DVDL nói riêng
………………………….79
3.2.5. Giải pháp thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng Ninh ……………………………………..80
3.2.6. Một số đề xuất để hoàn thiện các giải pháp ………………………………………81
3.3. Một số giải pháp nâng cao khả năng thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng Ninh ………………90
3.3.1. Đối với cấp Tỉnh ……………………………………………………………………………90
3.3.2. Đối với cấp Sở ngành
…………………………………………………………………….84
3.3.3. Đối với các cơ quan liên quan …………………………………………………………85
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………..87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
………………………………………………………89

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Du lịch là một ngành kinh tế năng động của mọi nền kinh tế, phát triển với tốc
độ ngày càng nhanh trên phạm vi toàn thế giới. Những nhịp độ tăng trưởng cao và
dòng chảy đầu tư lớn vào du lịch có ảnh hưởng tích cực đến các khu vực kinh tế
khác nhau (nhà nước hoặc tư nhân) và tạo ra một ngành công nghiệp quan trọng –
công nghiệp du lịch. Du lịch chiếm 6% tổng sản phẩm quốc dân thế giới, 7% đầu tư
toàn cầu, 1/16 chỗ làm việc, 11% chi phí tiêu dùng thế giới. Dịch vụ du lịch trở
thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước. Ngành du lịch phát
triển sẽ kéo theo sự phát triển của một loạt các ngành khác như vận tải, bưu điện,
thương nghiệp, tài chính, các hoạt động phục vụ sinh hoạt cá nhân, các dịch vụ phục
vụ nhu cầu giải trí, các hoạt động văn hoá thể thao… Mặt khác, hoạt động dịch vụ
du lịch còn có tác dụng tăng cường các mối quan hệ xã hội, tình hữu nghị và sự hiểu
biết lẫn nhau giữa các dân tộc, các quốc gia. Do đó, ngày nay không thể không nhận
thấy ảnh hưởng to lớn của dịch vụ du lịch đối với nền kinh tế thế giới. Với hiệu quả
như vậy, nhiều nước chú trọng phát triển du lịch, coi du lịch là một ngành kinh tế
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mình. Việt Nam cũng
không nằm ngoài con số đó. Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng phát triển hoạt
động du lịch. Dịch vụ du lịch Quảng Ninh lại là một trong những điểm sáng vô
cùng tiềm năng, nơi hội tụ những vẻ đẹp tiềm ẩn, đầy quyến rũ; đã, đang và sẽ là
một điểm đến tuyệt vời cho những du khách thích chiêm ngưỡng cái đẹp, thích
khám phá cảnh quan thiên nhiên kỳ thú nơi đây. Tuy nhiên, đứng trên góc độ nhìn
nhận nào đó, dịch vụ du lịch Quảng Ninh chưa thực sự phát triển tương xứng với
tiềm năng to lớn này. Để đưa dịch vụ du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên
địa bàn Quảng Ninh cần thiết có những giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ những khó
khăn và hạn chế của thực trạng phát triển hoạt động dịch vụ du lịch của tỉnh. Tuy
nhiên làm như thế nào để đưa dịch vụ du lịch Quảng Ninh trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn lại là vấn để cần được xem xét trong thời điểm thực tiễn này.Thực tế cho
thấy, trong lĩnh vực này đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến hoạt
động cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế

2

khác nhau, tác động xấu đến môi trường kinh doanh ở Việt Nam, như: Nội dung
quảng cáo không trung thực, sai lệch nhiều mặt, dùng những hình ảnh, cử chỉ, lời
nói gây phản cảm, vi phạm đạo đức truyền thống…
Với tính chất phức tạp và đa dạng, các hành vi cạnh tranh, cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của
Luật Cạnh tranh, được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 6 tháng 12/2004
và có hiệu lực từ ngày 01/07/2005… và các văn bản hướng dẫn thi hành. Với các
phân tích ở trên, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế bảo đảm thi
hành pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh gian dối, không lành mạnh trong
lĩnh vực dịch vụ du lịch có ý nghĩa quan trọng để vận dụng trong công cuộc phát
triển nền kinh tế, xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh ở
nước ta. Đây là cơ sở để học viên lựa chọn đề tài “Pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng
Ninh” để nghiên cứu và làm Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung được rất nhiều
nhà nghiên cứu Luật học quan tâm, trong đó đã có khá nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này ở Việt Nam. Tất cả các công trình này đều đã nêu ra được bản chất
pháp lý của cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, các bài
viết về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch chủ yếu mới dừng lại ở các
bài báo, tạp chí, báo mạng, khóa luận tốt nghiệp đại học hay được đề cập một phần
trong các công trình nghiên cứu về CTKLM mà chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu về vấn đề hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Có thể kể đến
một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về CTKLM bao gồm: Đề tài Nghiên cứu
khoa học cấp bộ “Những nội dung cơ bản của Luật cạnh tranh Việt Nam năm 2004
và đề xuất áp dụng” của TS Tăng Văn Nghĩa, 2005; Đề tài Nghiên cứu khoa học
cấp bộ “ Những vấn đề đặt ra và giải pháp thực thi có hiệu quả Luật cạnh tranh
trong thực tiễn”, Đề tài Tiến sĩ “Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn (2008) do PGS.TS Nguyễn Như Phát hướng
dẫn khoa học của Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nôị; và một số bài báo, tạp chí

3

chuyên ngành cũng như rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề cạnh tranh không
lành mạnh, trong đó có đề cập đến vấn đề về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch
vụ du lịch.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học thì vấn đề pháp luật về hành vi CTKLM
trong lĩnh vực du lịch hầu như chưa có công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, có một số
đề tài nghiên cứu khoa học đã công bố có liên quan đến nội dung của đề tài như:

– Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành Du lịch năm 2007 của tác giả Trần
Việt Dũng: Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam trong giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Đề tài đã làm rõ những vấn đề lý luận; đánh giá thực
trạngnăng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ du lịch Việt Nam từ đó chỉ ra những
điểm mạnh, điểm yếu, thách thức và cơ hội đối với ngành du lịch Việt Nam trong
giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Học tập kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành du lịch ở một số nước có ngành du lịch phát triển trên thế giới.Đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt
Nam.
– Luận văn thạc sĩ năm 2009 của tác giả Vũ Thu Giang với tiêu đề: Cạnh
tranh không lành mạnh: Thực trạng và những đề xuất xử lý vi phạm ở Việt Nam,
của trường Đại học ngoại thương Hà Nội. Đề tài đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản về cạnh tranh, đánh giá thực trạng về CTKLM ở Việt Nam từ đó đưa ra đề xuất,
giải pháp xử lý thỏa đáng hành vi CTKLM ở Việt Nam.
Bài viết đăng trên Báo điện tử Tổng cục du lịch ngày 12 tháng 4 năm 2017 của
tác giả Minh Nhân – Vụ Thể thao và Du lịch có tựa đề: Tour giá rẻ, Tour 0 đồng:
Bản chất và giải pháp. Đã làm rõ những vấn đề của CTKLM trong các Tour du lịch
từ đó đưa ra đề xuất, giải pháp xử lý thỏa đáng hành vi CTKLM trong lĩnh vực
DVDL ở Việt Nam. Bài viết đăng trên Báo Thanh niên ngày 22 tháng 7 năm 2017
của tác giả Hà Mai có tựa đề: Cạnh tranh trên thị trường du lịch trực tuyến. Đã chỉ
ra thực trạng CTKLM trên thị trường du lịch trực tuyến. Và đưa ra được giải pháp
cho các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường này.
Bài viết đăng trên báo điện tử Petro Times ngày 29 tháng 3 năm 2018 của tác
giả Thùy Trang có tựa đề: Doanh nghiệp du lịch bức xúc vì cạnh tranh không lành

4

mạnh. Đã chỉ ra những vấn đề bức thiết gây lo lắng cho các doanh nghiệp du lịch do
hành vi CTKLM .
Luận văn kế thừa một số vấn đề, nội dung mang tính chất lý luận chung và tập
trung nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch
vụ du lịch phân tích, luận giải thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng Ninh.
Tuy nhiên các đề tài này chủ yếu nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của ngành
du lịch Việt Nam mà chưa nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật về hành vi CTKLM
trong lĩnh vực dịch vụ du lịch theo pháp luật cạnh Việt Nam và thực tiễn thực thi tại
tỉnh Quảng Ninh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng
Ninh từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Làm rõ những vấn đề lý luận về cạnh tranh và pháp luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, CTKLM theo pháp luật Việt
Nam.
– Phân tích, đánh giá thực tiễn pháp luật về hành vi CTKLM trong dịch vụ du
lịch tại tỉnh Quảng Ninh
– Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về dịch vụ du lịch tại tỉnh
Quảng Ninh
– Đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi
CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Tổ chức thực hiện pháp luật cạnh tranh về
du lịch
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

5

Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề liên quan đến pháp luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực du lịch và thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng
Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh được diễn ra trong hầu hết
các lĩnh vực kinh doanh, trong phạm vi của luận văn thạc sĩ luật học, ngành luật
kinh tế học viên tập trung nghiên cứu pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch và thực tiễn thi hành pháp luật tại tỉnh Quảng
Ninh. Để làm sâu sắc hơn nội hàm đề tài nghiên cứu, trong phạm vi luận văn này,
học viên tập trung nghiên cứu về chế định pháp luật về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch để đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ở Việt Nam
hiện nay nhằm điều chỉnh và kiểm soát hiệu quả các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch từ khi có Luật Cạnh tranh năm 2004 cho tới
nay, khi nghiên cứu giải pháp hoàn thiện và thực thi pháp luật học viên đưa giải
pháp từ nay đến năm 2023 và tầm nhìn đến năm 2028.
Về không gian: Học viên nghiên cứu pháp luật thực tại của Việt Nam thực tiễn
thi hành tại tỉnh Quảng Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên nền tảng cơ sở lý luận về pháp luật về cạnh tranh
ở Việt Nam và về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực tiễn thi hành
tại tỉnh Quảng Ninh, thông qua đó làm rõ các vấn đề lý thuyết được đặt ra trong
luận văn.
Đề tài sẽ được triển khai nghiên cứu với phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học bao gồm: Phương
pháp tổng hợp; phương pháp phân tích, thống kê; phương pháp so sánh; phương
pháp điều tra khảo sát thực tiễn… để hoàn thành luận văn.

6

Phương pháp tổng hợp và phân tích: Nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về cạnh tranh và thực trạng pháp luật CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ở Việt
Nam.
Phương pháp thống kê: Dùng để thống kê các văn bản quy phạm pháp luật,
các tài liệu khác liên quan đến đề tài.
Phương pháp so sánh: Luật học so sánh việc áp dụng các quy định của pháp
luật với thực trạng áp dụng pháp luật tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du
lịch, so sánh các quy định của pháp luật hiện hành và các văn bản đã bị thay thế.
6. Ý nghĩa của luận văn
Với kết quả nghiên cứu của luận văn, đây có thể là tài liệu để các cá nhân, tổ
chức có thể tham khảo trong quá trình nghiên cứu khoa học cũng như áp dụng thực
tiễn công tác trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hành vi CTKLM trong
lĩnh vực dịch vụ du lịch.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, nội dung chính của luật
văn gồm ba chương theo hướng đi từ những vấn đề chung mang tính khái quát đến
những vấn đề cụ thể hơn từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành vi
CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Bao gồm:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực dịch vụ du lịch
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hành vi cạnh tranh và thực tiễn hoạt động cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực tiễn thi hành tại tỉnh
Quảng Ninh.
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh và tổ chức
thực hiện pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực tiễn
thi hành tại tỉnh Quảng Ninh.

7

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU
LỊCH
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực dịch vụ du lịch
1.1.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ
du lịch
1.1.1.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lạnh mạnh
Cho đến nay, vai trò của cạnh tranh trong việc cân bằng cung cầu trên thị
trường, tạo động lực đổi mới và phát triển cũng như bảo vệ quyền lợi cho người tiêu
dùng. Tuy nhiên, để đem lại những lợi ích như vậy, hoạt động cạnh tranh cần được
duy trì trong một khuôn khổ lành mạnh và tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Có thể hiểu đơn giản hành vi cạnh tranh không lành mạnh là một thứ cạnh
tranh quá mức và vì thế gây tác dụng ngược. Nhà nghiên cứu người Pháp
Dominique Brault đã trích dẫn một so sánh mang tính hình tượng: “Cạnh tranh là
một thứ rượu, dùng đúng liều nó là chất kích thích, dùng quá liều nó trở thành thuốc
độc”. Nhà nước không chỉ có trách nhiệm không tạo ra lợi thế hay bất lợi cho một
đối thủ cạnh tranh, mà còn cần ngăn chặn việc các đối thủ cạnh tranh tạo ra lợi thế
cho mình bằng bất kỳ thủ đoạn nào họ muốn. Nếu không, trật tự kinh tế sẽ bị rối
loạn và nhiều doanh nghiệp trung thực bị gạt ra khỏi cuộc chơi. Xét một cách khái
quát, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngăn chặn các hành vi của
doanh nghiệp nhằm tạo lợi thế cạnh tranh một cách không chính đáng trước các đối
thủ cạnh tranh khác. Những vụ việc thực tế về cạnh tranh không lành mạnh đều thể
hiện một bản chất chung theo đó doanh nghiệp toan tính đạt được thành công trên
thị trường không dựa trên nỗ lực của bản thân cải thiện chất lượng, giá cả của sản
phẩm, mà bằng cách chiếm đoạt những ưu thế của sản phẩm người khác hoặc tác
động sai trái lên khách hàng.
Tuy nhiên, xét cả về lý luận lẫn thực tiễn, khi cơ chế thị trường khuyến khích
các doanh nghiệp cạnh tranh tự do và sáng tạo, việc đánh giá tính chính đáng trong
hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp và đặt ra các giới hạn cho cạnh tranh lành

8

mạnh là khó khăn mà các nhà lập pháp có vẻ đã không giải quyết được triệt để và
trong nhiều trường hợp chỉ đề ra các tiêu chí khái quát chung và trao quyền cho cơ
quan thực thi pháp luật cạnh tranh tự đánh giá và quyết định ở những vụ việc cụ thể.
(Nguyễn Long, 2018, Tr.17).
Sự không rõ ràng trong khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh được thể
hiện ngay tại một trong những định nghĩa pháp lý phổ biến nhất và lâu đời nhất của
nó, nằm tại Điều 10 bis Công ước Paris về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Điều
khoản này được bổ sung được bổ sung vào Công ước năm 1900 và được sửa đổi lần
cuối theo Văn bản Stockholm năm 1967, theo đó bất kỳ hành vi cạnh tranh nào đi
ngược lại các thông lệ trung thực, thiện chí trong công nghiệp hoặc trong thương
mại đều là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tại định nghĩa này, có thể thấy tiêu
chí đánh giá quan trọng nhất về tính lành mạnh không, lành mạnh của một hành vi
cạnh tranh là “các thông lệ trung thực và thiện chí” không rõ ràng và ổn định, ở mỗi
quốc gia có thể có những khác biệt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội
và lịch sử của quốc gia đó.
Trên thực tế, Điều 10 bis Công ước Paris đã có ý bỏ ngỏ khái niệm này cho
pháp luật quốc gia của các nước thành viên Công ước tự định đoạt. Tuy nhiên đến
cấp độ pháp luật quốc gia, tình hình cũng không có gì tiến triển hơn. Sự không rõ
ràng trong việc xác định phạm vi cạnh tranh không lành mạnh tiếp tục được thể
hiện trong pháp luật nhiều nước, tại Bỉ và Luxembourg các tiêu chí này được gọi là
“thông lệ thương mại trung thực”, tại Tây Ban Nha và Thuỵ Sỹ là “nguyên tắc ngay
tình”, tại Italia là “tính chuyên nghiệp đúng đắn”, tại Đức, Hy Lạp và Ba Lan là
“đạo đức kinh doanh”. Còn tại Hoa Kỳ, do thiếu định nghĩa trong các văn bản pháp
luật, các toà án đã xác định từ nguồn án lệ định nghĩa cạnh tranh lành mạnh là “các
nguyên tắc giải quyết trung thực và công bằng” hoặc “đạo đức thị trường”. Pháp
luật đã không đưa ra được chuẩn mực để nhận diện các hành vi cạnh tranh lành
mạnh, được chấp nhận trong kinh doanh. Tiêu chí “công bằng” hay “trung thực”
phản ánh các quan niệm đa chiều về kinh tế, xã hội, văn hoá, đạo đức, triết học …
tồn tại trong một xã hội, do đó sẽ khác nhau giữa các quốc gia hoặc thậm chí trong
cùng một quốc gia. Theo thời gian, các tiêu chí này cũng có thể thay đổi. Hơn nữa,

9

luôn có những hoạt động cạnh tranh không lành mạnh mới, khi tính sáng tạo trong
kinh doanh không có giới hạn. Mọi nỗ lực nhằm bao quát trong một định nghĩa tất
cả các hoạt động cạnh tranh hiện tại và tương lai, có thể đồng thời xác định mọi
hành vi bị ngăn cấm và linh hoạt đủ để thích nghi với những thông lệ thị trường
mới, cho đến nay vẫn thất bại (Lâm Vũ, 2017, Tr 23).
Luật Cạnh tranh năm 2004 Việt Nam đưa ra định nghĩa về cạnh tranh không
lành mạnh tại khoản 4 Điều 3 như sau: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là
hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn
mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc
người tiêu dùng”. (Luật VN 2004). Nhìn chung, định nghĩa về cạnh tranh không
lành mạnh của Luật Cạnh tranh năm 2004 tương tự với định nghĩa của Công ước
Paris và pháp luật các nước có nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới. Tuy
nhiên, tại định nghĩa này, một lần nữa có thể thấy tiêu chí đánh giá về tính chất
không lành mạnh của hành vi cạnh tranh chỉ được nêu chung chung là “các chuẩn
mực thông thường về đạo đức kinh doanh”. Công ước Paris ít nhất còn đưa ra hai
tiêu chí cụ thể là tính trung thực và tính thiện chí, để dựa vào đó cơ quan công
quyền đánh giá một hành vi cụ thể trên thực tế có tỏ ra trung thực và thiện chí hay
không. Đồng thời Công ước cũng khuyến nghị các nước tham gia cụ thể hóa các
tiêu chí đánh giá trong nội luật của mình để thuận tiện cho việc áp dụng pháp luật.
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam chẳng những không đưa thêm được các tiêu chí
đánh giá mà còn giản lược hơn khi chỉ đề cập đến khái niệm đạo đức kinh doanh,
gây khó khăn cho việc xem xét hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thực tế:
– Thứ nhất, do nền kinh tế thị trường tại nước ta mới hình thành, các quan hệ
kinh doanh chưa đủ thời gian để trở thành tập quán và được chấp nhận rộng rãi.
Tầng lớp thương nhân của Việt Nam cũng chưa đủ đông và mạnh để có thể thống
nhất đặt ra những tiêu chuẩn chung, những hướng dẫn đóng vai trò quy tắc đạo đức
cho một ngành kinh doanh.
– Thứ hai, do pháp luật Việt Nam không thừa nhận án lệ, các cơ quan tài phán
của nước ta thường có vai trò hạn chế trong việc vận dụng pháp luật, nhất là trong

10

trường hợp chỉ có những quy định mang tính nguyên tắc như trường hợp về các
chuẩn mực đạo đức kinh doanh này. Các cơ quan công quyền cũng không đủ hiểu
biết thực tế để thay cho thương nhân đặt ra các quy tắc đạo đức trong một ngành
kinh doanh cụ thể. Do đó, quy định thiếu cụ thể đối với một nội dung có vai trò
định vị như vậy sẽ gây trở ngại lớn cho các hoạt động thực thi pháp luật cạnh tranh
tại Việt Nam.(Lâm Vũ, 2017, Tr 25).

1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại về dịch vụ du lịch
– Khái niệm
+ Khái niệm về dịch vụ
– Theo Từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những
nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công (Từ điển Tiếng Việt,
2004, NXB Đà Nẵng, tr256)
Dịch vụ là vấn đề được nhiều nhà khoa học phân tích, luận giải. Mặc dù vậy,
hiện nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất về dịch vụ. Dựa trên các căn cứ khác
nhau, các tác giả đưa ra các cách hiểu khác nhau về dịch vụ. Theo tác giả T.P. Hill:
“Dịch vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của con người hay hàng hoá
thuộc sở hữu của một chủ thể kinh tế nào đó do sự tác động của chủ thể kinh tế khác
với sự đồng ý trước của người hay chủ thể kinh tế ban đầu”. Theo Từ điển Bách
khoa Việt Nam năm 2012, dịch vụ là “những hoạt động phục vụ nhằm thoả mãn
nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt” . Do nhu cầu đa dạng và do sự phân
công lao động xã hội nên dịch vụ có thể được phân thành nhiều loại, như dịch vụ
phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế, giải trí), dịch vụ cá
nhân dưới hình thức những dịch vụ gia đình,… Như vậy, định nghĩa trong Từ điển
Bách khoa Việt Nam nhấn mạnh vào tính chất và mục tiêu của dịch vụ là những
hoạt động phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi đối tượng, từ nhà sản xuất,
doanh nghiệp đến người tiêu dùng. Từ những phân tích trên, học viên cho rằng dịch
vụ là sản phẩm của quá trình lao động sản xuất của con người. Nói cách khác, dịch
vụ là hoạt động có ý thức của con người được tiến hành nhằm đáp ứng nhu cầu của
con người trong xã hội. Dịch vụ có thể phát sinh ở mọi lĩnh vực như trong đời sống
hàng ngày, trong hoạt động sản xuất, trong hoạt động kinh doanh… Dịch vụ cũng có

11

thể phát sinh ở phạm vimột nước và cả ở phạm vi quốc tế. Chính điều này đã dẫn
đến một thực tế khách quan là nhiều tổ chức quốc tế (ví dụ WTO) đã đặt ra yêu cầu
là các thành viên phải có chính sách phù hợp để thúc đẩy dịch vụ phát triển trong
phạm vi thương mại quốc tế.
+ Khái niệm về du lịch
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không
chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay, không chỉ ở nước ta, nhận thức về nội dung du lịch vẫn
chưa thống nhất.
Do hoàn cảnh khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người
có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Do vậy có bao nhiêu tác giả nghiên cứu về
du lịch thì có bấy nhiêu định nghĩa.
Dưới con mắt của Guer Freuler thì “du lịch với ý nghĩa hiện đại của từ này là
một hiện tượng của thời đại chúng ta, dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu khôi phục
sức khoẻ và sự thay đổi của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát
triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên”.
Kaspar cho rằng du lịch không chỉ là hiện tượng di chuyển của cư dân mà phải
là tất cả những gì có liên quan đến sự di chuyển đó. Chúng ta cũng thấy ý tưởng này
trong quan điểm của Hienziker và Kraff “du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và
hiện tượng bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại
những nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ”. (Về sau định
nghĩa này được hiệp hội các chuyên gia khoa học về du lịch thừa nhận)
Theo các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà
nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Nhà kinh tế học Picara- Edmod đưa ra định
nghĩa: “du lịch là việc tổng hoà việc tổ chức và chức năng của nó không chỉ về
phương diện khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị do khách chỉ ra và của
những khách vãng lai mang đến với một túi tiền đầy, tiêu dùng trực tiếp hoặc gián
tiếp cho các chi phí của họ nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết và giải trí.”
Khác với quan điểm trên, các học giả biên soạn bách khoa toàn thư Việt Nam
đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt. Theo các chuyên

12

gia này, nghĩa thứ nhất của từ này là “một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực
của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam
thắng cảnh…”. Theo định nghĩa thứ hai, du lịch được coi là “một ngành kinh doanh
tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền
thông lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước,
đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về mặt kinh tế, du lịch
là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.
Để tránh sự hiểu lầm và không đầy đủ về du lịch, chúng ta tách du lịch thành
hai phần để định nghĩa nó. Du lịch có thể được hiểu là:
+ Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá
nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao tại
chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số
giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ của các cơ sở chuyên cung ứng.
+ Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong
quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân
hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức tại
chỗ về thế giới xung quanh. (Nguyễn Long, 2018, Tr.24).
Khi điều kiện kinh tế chưa phát triển, người ta coi du lịch như một hiện tượng
xã hội mang tính nhân văn nhằm làm phong phú thêm nhận thức con người và dịch
vụ du lịch là thoả mãn nhu cầu cho tầng lớp trên của xã hội kiếm được tiền ở một
nơi và đi tiêu tiền ở một nơi khác. Điều kiện kinh tế phát triển hơn, người ta nhận
thức được du lịch không còn là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà còn là một hoạt
động kinh tế, trong đó những hoạt động dịch vụ phối hợp với nhau nhằm thoả mãn
nhu cầu của con người.
Khi kinh doanh du lịch phát triển, trở thành một hệ thống mang tính tổng hợp
trên phạm vi vùng miền không chỉ của một quốc gia thì người ta coi du lịch là một
ngành công nghiệp với toàn bộ các hoạt động mà mục tiêu là kết hợp giá trị của các
tài nguyên du lịch thiên nhiên và nhân văn với các dịch vụ, hàng hoá để tạo ra sản
phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu của du khách.

13

Pháp lệnh Du lịch (2/1999) do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước CHXHCN
Việt Nam quy định: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định (Pháp lệnh,
1999. Tr.57).
Có thể hiểu, du lịch là một phạm trù kép; một mặt có ý nghĩa thông thường là
sự di chuyển của con người với mục đích nghỉ ngơi giải trí, nhưng mặt khác nó bao
hàm hệ quả kinh tế tự thân khi những dịch vụ hỗ trợ và cung ứng nhằm thoả mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần cho du khách, trong sự di chuyển đó.
Với quan niệm trên, sản phẩm du lịch cũng mang những nét đặc trưng cơ bản
không như các sản phẩm vật chất thuần tuý khác. Theo Từ điển du lịch (Tiếng Đức,
Nxb Kinh tế Berlinh, 1984) định nghĩa: “Sản phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch
vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung
cấp cho du khách một khoảng thời gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và
sự hài lòng” Theo nghĩa hẹp, thì sản phẩm du lịch là những gì du khách bỏ tiền ra
mua lẻ hoặc trọn gói trong chuyến đi của mình. Còn theo nghĩa rộng, đó là tổng hợp
những sản phẩm vô hình và hữu hình do con người và thiên nhiên tạo ra, có khả
năng thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho du khách về nghỉ ngơi, giải trí và
những hoạt động có ích khác.
Theo Từ điển du lịch, lữ hành, lưu trú và ăn uống, (Tiếng Anh, Nxb
Butterworth Heinemann 1993) thì: Dịch vụ du lịch là kết quả của các hoạt động
kinh tế được thể hiện trong sản phẩm vô hình (phân biệt với hàng hoá vật chất) như
lưu trú, vận chuyển, dịch vụ tài chính, thông tin liên lạc, y tế và các dịch vụ cá nhân
khác.
.+ Khái niệm về dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú,
ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp
ứng nhu cầu của khách du lịch. (Điều 4 – Luật du lịch năm 2017, tr.2)
– Đặc điểm về dịch vụ du lịch

14

Dịch vụ du lịch có những đặc điểm chung của dịch vụ: là kết quả mang lại nhờ
các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng và khách hàng và thông qua
việc đáp ứng nhu cầu khách hàng đó mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng dịch vụ
đó. Ngoài ra, dịch vụ du lịch còn có các đặc điểm mang tính đặc thù:
Thứ nhất: Tính phi vật thể – đây là đặc điểm quan trọng nhất của dịch vụ du
lịch. Người sử dụng dịch vụ không thể tiêu dùng trực tiếp dịch vụ đó trước khi mua
nó, nói cách khác quá trình sản xuất ra dịch vụ cũng gắn liền với quá trình tiêu thụ
nó. Dịch vụ đồng hành với sản phẩm vật chất nhưng nó lại tồn tại dưới dạng phi vật
chất nên người sử dụng chỉ có thể đánh giá được chất lượng của dịch vụ khi trực
tiếp sử dụng nó. Đặc điểm quan trọng này buộc các nhà cung cấp phải có trách
nhiệm trong việc tạo dựng thương hiệu thông qua cung cấp thông tin đầy đủ và
chính xác, chân thực và khách quan về những tiện ích và ưu việt của dịch vụ đối với
du khách để họ thực sự yên tâm và hài lòng về quyết định mua sản phẩm dịch vụ.
Về phía du khách: phải thận trọng và cần có sự nhìn nhận, lựa chọn nhà cung cấp
căn cứ trên uy tín thương hiệu, quảng cáo sản phẩm và tham khảo thêm những
người đã sử dụng dịch vụ trước khi quyết định mua dịch vụ cho mình.
Thứ hai: Tính đồng thời trong sản xuất và tiêu dùng sản phẩm dịch vụ. Khác
với các hàng hoá thông thường có quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra ở từng
thời gian và địa điểm khác nhau, dịch vụ du lịch được sản xuất và tiêu dùng thường
diễn ra cùng lúc. Chính đặc điểm này quy định tính thời vụ trong loại hình kinh
doanh du lịch và nó làm cho công tác dự báo của ngành du lịch thực sự trở thành
một khoa học giúp các nhà hoạch định chiến lược nắm được cung – cầu trên thị
trường mà có hướng đầu tư phù hợp. Trên thực tế có nhiều bất cập xảy đến trong
quá trình quản lý và kinh doanh du lịch, nguyên nhân sâu xa chính vì chưa nắm thấu
đáo tính chất đặc thù này.
Thứ ba: Khách hàng là một bộ phận của cả quá trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Tính đặc thù này được quy định bởi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ
diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định nên không tạo ra khoảng cách
giữa người tiêu dùng và người sản xuất dịch vụ. Nói cách khác, người tiêu dùng
không chỉ hưởng thụ một cách thụ động sản phẩm dịch vụ được cung ứng, mà họ

15

còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất thông qua việc phản hồi của họ với
nhà cung cấp về chất lượng và mức độ hoàn thiện của sản phẩm. Thậm chí bằng
kinh nghiệm và trình độ cảm nhận của mình, du khách còn là người trực tiếp sáng
tạo ra các sản phẩm dịch vụ giúp cho nhà cung cấp tạo ra những sản phẩm nhằm
thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng.
Thứ tư: Quyền sở hữu không được chuyển giao khi mua và bán. Đây là một
đặc thù riêng có của loại hình sản phẩm dịch vụ khi đem trao đổi trên thị trường. Vì
là sản phẩm không thể di chuyển trong không gian, là sản phẩm phi vật thể và có
tính đồng nhất trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nên khách hàng chỉ đang mua
quyền sử dụng sản phẩm chứ không hề mua được quyền sở hữu sản phẩm dịch vụ
đó. Khi quyền sử dụng của du khách không còn thì cũng là lúc nhà cung cấp toàn
quyền sở hữu đối với sản phẩm dịch vụ đó.
Sản phẩm du lịch gồm: Dịch vụ du lịch và giá trị tài nguyên thiên nhiên
– Phân loại dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch gồm:
– Dịch vụ vận chuyển, nhằm đưa du khách từ nơi cư trú đến các điểm du lịch,
từ các điểm du lịch này đến điểm du lịch khác hoặc trong phạm vi một điểm du lịch
nào đó, bằng phương tiện nhất định.
– Dịch vụ lưu trú, ăn uống bao gồm các dịch vụ phục vụ du khách nghỉ ngơi,
thư giãn và lấy lại sức khoẻ trong hành trình du lịch của mình thông qua hệ thống
các khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng… nơi khách dừng chân.
– Dịch vụ vui chơi giải trí: là loại hình giúp du khách đạt được sự thoả mãn
cao trong mỗi chuyến đi. Bởi vậy, nên thời gian của du khách phần lớn được các
nhà tổ chức chuyên nghiệp hướng đến là đưa khách tham quan các khu du lịch, các
khu di tích, xem văn nghệ… thậm chí đến các sòng bạc, các bar café, sàn nhảy… TS.
Nguyễn Văn Mạnh, 2005, Tr.27)
Kinh tế càng phát triển thì nhu cầu được thoả mãn về tinh thần càng lấn át nhu
cầu mang tính vật chất thuần tuý, do đó, nhu cầu đi du lịch ngày càng có xu hướng
tăng cao trong cộng đồng dân cư. Nắm được điều này, các nhà kinh doanh du lịch
càng nghiên cứu đầu tư vào dịch vụ giải trí sẽ càng thu được lợi nhuận cao. Thái

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *