BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
VŨ MINH DUY
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO
PHẢN ỨNG CÓ HẠI CỦA THUỐC
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
GIAI ĐOẠN 2010 – 2014
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ
HÀ NỘI – 2015
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
VŨ MINH DUY
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO
PHẢN ỨNG CÓ HẠI CỦA THUỐC
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
GIAI ĐOẠN 2010 – 2014
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ
Người hướng dẫn:
1. ThS. Nguyễn Huy Tuấn
2. ThS. Nguyễn Phương Thúy
Nơi thực hiện:
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
Bệnh viện Phụ sản Trung Ương
HÀ NỘI – 2015
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Hoàng Anh
– Giảng viên Bộ môn Dược lực, Phó giám đốc Trung tâm DI & ADR Quốc gia,
người thầy luôn tâm huyết, tận tụy với bao thế hệ sinh viên trường Đại học Dược
Hà Nội. Những hướng dẫn, phân tích của thầy trong quá trình nghiên cứu sẽ là bài
học kinh nghiệm quý giá cho tôi trên con đường khoa học tương lai.
Tôi xin chân thành cảm ơn ThS. Nguyễn Huy Tuấn – Phó trưởng khoa
Dược Bệnh viện Phụ sản Trung Ương. Trong gần hai năm nghiên cứu khoa học và
thực hiện đề tài tốt nghiệp tại khoa, thầy đã dành cho tôi nhiều thời gian và sự giúp
đỡ quý báu.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn ThS. Nguyễn Phương Thúy – Chuyên viên
Trung tâm DI & ADR Quốc gia, tôi sẽ không thể hoàn thành khóa luận nếu không
có sự quan tâm, tận tình giúp đỡ và dìu dắt của chị ngay từ những bước đầu tiên
thực hiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới tập thể các thầy cô giáo Trường Đại học Dược
Hà Nội, những người đã tận tâm dạy dỗ, trang bị cho tôi các kiến thức và kỹ năng
trong học tập, nghiên cứu. Cảm ơn các cán bộ Trung tâm DI&ADR Quốc gia, các
cán bộ khoa Dược Bệnh viện Phụ sản Trung Ương đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ
tôi thực hiện đề tài này.
Cảm ơn những người bạn tuyệt vời của tôi – những người trong suốt 5 năm
qua luôn kề vai sát cánh, chia sẻ cùng tôi những khó khăn trong học tập cũng như
trong cuộc sống. Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất dành cho
gia đình tôi, những người luôn dành cho tôi sự yêu thương, tin tưởng và động viên
tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này.
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Vũ Minh Duy
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
ĐẶT VẤN ĐỀ
……………………………………………………………………………………………….
1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
……………………………………………………………………………
3
1.1. AN TOÀN THUỐC TRONG BỆNH VIỆN
………………………………………………..
3
1.1.1. Phản ứng có hại của thuốc (ADR)
……………………………………………………
3
1.1.2. Sai sót liên quan tới thuốc (ME)
………………………………………………………
5
1.1.3. Chất lượng thuốc …………………………………………………………………………..
6
1.2. HOẠT ĐỘNG CẢNH GIÁC DƯỢC TRONG BỆNH VIỆN ………………………..
7
1.2.1. Mục tiêu
………………………………………………………………………………………..
7
1.2.2. Các đối tác tham gia hoạt động Cảnh giác Dược trong bệnh viện
…………
7
1.2.3. Các hoạt động giám sát ADR trong bệnh viện
……………………………………
9
1.2.4. Những tồn tại của công tác báo cáo ADR trong bệnh viện ………………..
12
1.2.5. Hoạt động báo cáo ADR tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương
…………….
14
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIEN CỨU ……………………
15
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ……………………………………………………………….
15
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
………………………………………………………….
15
2.3.CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU …………………………………………………………………….
16
2.3.1. Phân tích tình hình báo cáo ADR …………………………………………………..
16
2.3.2. Khảo sát nhận thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong hoạt
động báo cáo phản ứng có hại của thuốc……………………………………………………
18
2.4. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
………………………………………………………..
20
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ ……………………………………………………………………………….
21
3.1. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH BÁO CÁO ADR …………………………………………….
21
3.1.1. Thông tin chung về báo cáo ……………………………………………………………
21
3.1.2. Thông tin về thuốc nghi ngờ gây ADR …………………………………………….
28
3.1.3. Thông tin về ADR …………………………………………………………………………
32
3.1.4. Đánh giá chất lượng báo cáo ADR…………………………………………………..
34
3.2. KHẢO SÁT NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH CỦA NHÂN VIÊN Y
TẾ TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO ADR ………………………………………………….
36
3.2.1. Tỷ lệ nhân viên y tế tham gia khảo sát
……………………………………………..
36
3.2.2. Đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu
…………………………………..
37
3.2.3. Nhận thức của nhân viên y tế về an toàn thuốc và phản ứng có hại của
thuốc …………………………………………………………………………………………………….
38
3.2.4. Nhận thức về trách nhiệm của nhân viên y tế – tầm quan trọng của công
tác báo cáo ADR
…………………………………………………………………………………….
39
3.2.5. Thực trạng việc thực hiện báo cáo ADR
…………………………………………..
41
3.2.6. Quy trình báo cáo ADR tại bệnh viện và biện pháp nâng cao hiệu quả
công tác báo cáo ADR
…………………………………………………………………………….
43
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
…………………………………………………………………………….
46
4.1. BÀN LUẬN VỀ TÌNH HÌNH BÁO CÁO ADR TẠI BỆNH VIỆN
………………..
46
4.2. BÀN LUẬN VỀ NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH CỦA NHÂN
VIÊN Y TẾ TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO ADR ………………………………………
51
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
…………………………………………………………………………..
55
KẾT LUẬN
……………………………………………………………………………………………….
55
ĐỀ XUẤT …………………………………………………………………………………………………
56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
ADR
Phản ứng có hại của thuốc (Adverse Drug Reaction)
ADE
Biến cố bất lợi của thuốc (Adverse Drug Event)
ICD – 10
Bảng phân loại quốc tế bệnh tật lần thứ 10
(International Classification of Diseases – 10)
ME
Sai sót liên quan tới thuốc (Medication Errors)
NVYT
Nhân viên y tế
SOP
Quy trình điều hành chuẩn (Standard Operating
Procedure)
STT
Số thứ tự
Trung tâm DI&ADR
Quốc gia
Trung tâm Quốc gia về thông tin thuốc và theo dõi
phản ứng có hại của thuốc
WHO
Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)
WHO – UMC
Trung tâm giám sát thuốc quốc tế của Tổ chức Y tế
thế giới tại Uppsala Thụy Điển (WHO – Uppsala
Monitoring Center)
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
1
Bảng 3.1. Thay đổi về xu hướng và mức độ số lượng báo cáo
ADR của bệnh viện trước và sau thời điểm can thiệp
23
2
Bảng 3.2. Đối tượng tham gia báo cáo ADR
24
3
Bảng 3.3. Các khoa phòng ghi nhận báo cáo ADR
25
4
Bảng 3.4. Lý do sử dụng thuốc theo phân loại ICD-10
29
5
Bảng 3.5. Các họ dược lý được báo cáo nhiều nhất
30
6
Bảng 3.6. Các thuốc ghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất
31
7
Bảng 3.7. Các biểu hiện ADR được ghi nhận nhiều nhất
33
8
Bảng 3.8. Các cặp thuốc – ADR được báo cáo nhiều nhất
34
9
Bảng 3.9. Kết quả đánh giá chất lượng báo cáo ADR qua các năm
35
10
Bảng 3.10. Chât lượng báo cáo ADR theo đối tượng tham gia báo
cáo
35
11
Bảng 3.11. Tỷ lệ nhân viên y tế tham gia khảo sát
36
12
Bảng 3.12. Đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu
37
13
Bảng 3.13. Nhận thức của nhân viên y tế về nguyên nhân gây
ADR
39
14
Bảng 3.14. Nhận thức về trách nhiệm của nhân viên y tế – tầm
quan trọng của công tác báo cáo ADR
40
15
Bảng 3.15. Lý do các nhân viên y tế cho rằng việc báo cáo ADR là
quan trọng
40
16
Bảng 3.16. Những khó khăn của nhân viên y tế khi thực hiện báo
cáo ADR
42
17
Bảng 3.17. Nguyên nhân nhân viên y tế không làm báo cáo ADR
43
18
Bảng 3.18. Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác báo cáo ADR
44
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT
Tên hình
Trang
1
Hình 1.1. Quan hệ giữa ADE, ADR và ME
3
2
Hình 3.1. Số lượng báo cáo ADR của bệnh viện và tương quan với
số báo cáo từ khối bệnh viện chuyên ngành phụ sản và các bệnh
viện trên cả nước giai đoạn 2010 – 2014
21
3
Hình 3.2. Báo cáo ADR tại bệnh viện Phụ sản Trung Ương theo
tháng trong thời gian khảo sát
22
4
Hình 3.3. Số lượng khoa phòng ghi nhận báo cáo và số lượng nhân
viên y tế tham gia báo cáo ADR qua các năm
26
5
Hình 3.4. Thời gian trì hoãn gửi báo cáo (ngày)
27
6
Hình 3.5. Tỷ lệ báo cáo ADR nghiêm trọng giai đoạn 2010 – 2014
28
7
Hình 3.6. Phân loại thuốc nghi ngờ gây ADR theo đường dùng
thuốc
30
8
Hình 3.7. Phân loại báo cáo ADR theo tổ chức cơ thể bị ảnh
hưởng
32
9
Hình 3.8. Nhận thức của nhân viên y tế về an toàn thuốc và phản
ứng có hại của thuốc
38
10
Hình 3.9. Tỉ lệ nhân viên y tế đã gặp và làm báo cáo ADR
41
11
Hình 3.10. Quy trình báo cáo ADR tại bệnh viện
44
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh cạnh những lợi ích mà thuốc mang lại, quá trình sử dụng thuốc cũng
tiềm ẩn nguy cơ xuất hiện các phản ứng có hại (ADR) gây ảnh hưởng tiêu cực đến
sức khỏe bệnh nhân cũng như gánh nặng kinh tế đối với xã hội [30]. Bài học từ
thảm họa Thalidomid năm 1960 đã cho thế giới thấy tầm quan trọng của hệ thống
cảnh báo sớm nguy cơ của thuốc sau khi lưu hành khi dữ liệu về an toàn thuốc từ
những thử nghiệm lâm sàng và tiền lâm sàng còn hạn chế. Từ đó, nhiều nước trên
thế giới đã hình thành hệ thống Cảnh giác Dược quốc gia, sử dụng báo cáo tự
nguyện và các phương pháp dịch tễ dược học khác để thu thập, phân tích một cách
hệ thống các biến cố bất lợi liên quan đến việc sử dụng thuốc.
Các cơ sở khám chữa bệnh có những điều kiện thuận lợi để trở thành đối tác
quan trọng trong hệ thống Cảnh giác Dược quốc gia bởi đây là nơi ghi nhận những
trường hợp bệnh nhân gặp ADR khi sử dụng thuốc ngoài cộng đồng cũng như đang
điều trị nội trú. Tại Việt Nam, một số biện pháp đã được áp dụng nhằm giám sát
ADR trong bệnh viện, trong đó hình thức báo cáo ADR tự nguyện là hình thức phổ
biến nhất nhờ tính đơn giản và dễ thực hiện. Hạn chế lớn nhất trong công tác báo
cáo ADR là hiện tượng báo cáo thiếu (under-reporting) và chất lượng báo cáo kém
[21], [48]. Bên cạnh đó, hoạt động báo cáo ADR phụ thuộc nhiều vào nhận thức và
sự hợp tác của cán bộ y tế [26], [43]. Do vậy, cùng với thúc đẩy báo cáo ADR cả về
số lượng cũng như chất lượng, việc nâng cao nhận thức của nhân viên y tế trong
hoạt động báo cáo ADR cũng cần được quan tâm, đòi hỏi hướng tiếp cận và giải
pháp phù hợp.
Bệnh viện Phụ sản Trung Ương là bệnh viện chuyên khoa tuyến cuối ngành
sản phụ khoa, sơ sinh và hỗ trợ sinh sản với quy mô hơn 700 giường bệnh [71].
Nghiên cứu đánh giá báo cáo ADR tại bệnh viện giai đoạn 2009 – 2011 cho thấy, số
lượng báo cáo thu được chưa cao (36 báo cáo/3 năm) đồng thời sự tham gia của bác
sĩ, điều dưỡng còn hạn chế [18]. Năm 2012, bệnh viện bắt đầu triển khai Đề án Phát
triển công tác Dược lâm sàng với nội dung trọng tâm là đẩy mạnh hoạt động báo
2
cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR) trong bệnh viện (Phụ lục 4). Những tác động
đó đã đem lại kết quả tích cực khi bệnh viện Phụ sản Trung Ương trở thành một
trong 10 bệnh viện có số báo cáo ADR nhiều nhất cả nước trong hai năm sau đó
[15], [16]. Nhằm đánh giá hoạt động báo cáo ADR trong giai đoạn 5 năm 2010 –
2014 cũng như mong muốn tìm hiểu những tồn tại trong hệ thống báo cáo ADR tại
bệnh viện, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Phân tích hoạt động báo cáo phản
ứng có hại của thuốc tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương giai đoạn 2010 – 2014”
với hai mục tiêu:
– Phân tích tình hình báo cáo ADR của Bệnh viện Phụ sản Trung Ương giai
đoạn 2010 – 2014;
– Khảo sát nhận thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong hoạt
động báo cáo ADR tại bệnh viện.
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1.
AN TOÀN THUỐC TRONG BỆNH VIỆN
Hai vấn đề trọng tâm về an toàn thuốc trong bệnh viện là: sai sót liên quan
tới thuốc (ME) và biến cố có hại của thuốc (ADE), trong đó bao gồm phản ứng có
hại của thuốc (ADR) [38], [49]. Đây là những yếu tố cấu thành rủi ro liên quan tới
thuốc (medication misadventure) và quan hệ giữa các yếu tố này được thể hiện
trong hình 1.1 [22], [38], [49]. Bên cạnh đó, vấn đề chất lượng thuốc cũng ngày
càng được quan tâm trong bối cảnh thuốc giả, thuốc kém chất lượng đang trở nên
khó kiểm soát và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe bệnh nhân [63], [64].
Hình 1.1. Quan hệ giữa ADR, ADR và ME [49]
1.1.1. Phản ứng có hại của thuốc (ADR)
1.1.1.1.
Định nghĩa
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 1972 đã đưa ra định nghĩa về phản ứng có
hại của thuốc (ADR) như sau: “Phản ứng có hại của thuốc là một phản ứng độc hại,
không được định trước và xuất hiện ở liều thường dùng cho người để phòng bệnh,
chẩn đoán bệnh hoặc chữa bệnh, hoặc làm thay đổi một chức năng sinh lý”. Định
nghĩa này không bao gồm những phản ứng do dùng sai thuốc, dùng sai liều, dùng
liều cao, có chủ định hoặc vô tình [68].
4
Mặc dù được chấp nhận rộng rãi, định nghĩa này có một số hạn chế nhất
định. Trong thực tế, thường khó để xác định nguyên nhân gây ra biến cố trên một cá
thể là do thuốc hay nguyên nhân khác, chẳng hạn như sự tiến triển nặng thêm của
bệnh hoặc do một bệnh khác phát sinh. Do đó, khái niệm biến cố có hại của thuốc
(ADE) ngày càng được dùng phổ biến hơn. Biến cố có hại của thuốc (ADE) được
định nghĩa là bất kỳ một biến cố nào xảy ra trong quá trình sử dụng thuốc nhưng
không nhất thiết do phác đồ điều trị bằng thuốc gây ra [68].
1.1.1.2.
Hậu quả của ADR trong bệnh viện
Theo một tổng quan thực hiện bởi Trung tâm Điều hành dịch vụ y tế Quốc
gia Anh (National Health Service Executive South East – NHSESE) năm 2002,
ADR là nguyên nhân khiến 3,5% bệnh nhân nhập viện và xảy ra trên 2,6% bệnh
nhân đang điều trị tại bệnh viện; tuy nhiên tỷ lệ này có sự dao động lớn giữa các
khu vực trên thế giới [50]. Tại một số quốc gia châu Âu, nguy cơ xuất hiện ADR
trên bệnh nhân nhập viện là trên 10%: Thụy Sĩ (11,0%), Pháp (10,3%) [35], [44].
Tại Mỹ, hằng năm có khoảng 2,2 triệu ca ADR nặng trong những bệnh nhân nội trú,
trong đó có 106.000 ca tử vong, chiếm 4,6% số trường hợp tử vong do mọi nguyên
nhân [47]. Không chỉ để lại di chứng bệnh tật, phản ứng có hại của thuốc còn kéo
dài thời gian nằm viện và gây nên gánh nặng tài chính không nhỏ [30]. Nghiên cứu
trên bệnh nhân nhập viện ở Mỹ năm 1997 cho thấy phản ứng có hại của thuốc trung
bình làm tăng thời gian nằm viện của mỗi bệnh nhân lên gần 2 ngày và tiêu tốn gần
2500 USD [24].
1.1.1.3.
Giám sát ADR trong bệnh viện
Bệnh viện là nơi tiếp nhận những bệnh nhân đã gặp ADR ở ngoài cộng đồng
cũng như trực tiếp xử lý những ca xuất hiện ADR ngay trong quá trình điều trị nội
trú. Do vậy, đây là nơi thuận lợi nhất để phát hiện, đánh giá, nghiên cứu và áp dụng
các biện pháp phòng tránh ADR. Để hoạt động này phát huy hiệu quả, việc xây
dựng và củng cố hệ thống giám sát ADR ngày càng hoàn thiện là nhiệm vụ cần
được ưu tiêu hàng đầu. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giám sát ADR
trong bệnh viện, Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quy định chức năng
5
và nhiệm vụ của Hội đồng Thuốc và Điều trị, Khoa Dược bệnh viện và Đơn vị
Thông tin thuốc trong các hoạt động liên quan [3], [5], [9]. Hiện nay, văn bản trực
tiếp và cập nhật nhất đề cập đến hoạt động giám sát ADR trong bệnh viện là Quyết
định 1088/QĐ-BYT của Bộ Y tế, ban hành ngày 04/04/2013. Đây là cơ sở pháp lý
quan trọng để triển khai hệ thống báo cáo ADR tự nguyện trong bệnh viện [8].
1.1.2. Sai sót liên quan tới thuốc (ME)
1.1.2.1.
Định nghĩa
Theo định nghĩa của Hội đồng Điều phối Quốc gia Hoa Kỳ về Báo cáo và
Phòng tránh sai sót liên quan tới thuốc (National Coordinating Council for
Medication Error Reporting and Prevention – NCCMERP), sai sót liên quan tới
thuốc (ME) là “bất kỳ biến cố có thể phòng tránh nào có khả năng gây ra hoặc dẫn
đến việc sử dụng thuốc không hợp lý, hoặc gây hại cho bệnh nhân trong khi thuốc
được kiểm soát bởi nhân viên y tế, bệnh nhân, hoặc người tiêu dùng. Các biến cố
như vậy có thể liên quan tới thực hành chuyên môn, các sản phẩm chăm sóc sức
khỏe, quy trình, và hệ thống bao gồm: kê đơn và quá trình giao tiếp đơn thuốc; ghi
nhãn, đóng gói, và danh pháp; pha chế, cấp phát, phân phối; quản lý; giáo dục; giám
sát và sử dụng” [72].
Định nghĩa của NCCMERP cho thấy một số đặc điểm quan trọng của sai sót
liên quan tới thuốc như sau:
– Sai sót liên quan tới thuốc có thể phòng tránh được.
– Sai sót liên quan tới thuốc có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào và việc hạn
chế phải mang tính chất hệ thống.
– Sai sót liên quan tới thuốc có thể đã gây hại cho bệnh nhân hoặc chưa.
1.1.2.2.
Hậu quả của sai sót liên quan tới thuốc
Tỷ lệ sai sót liên quan tới thuốc giữa các nghiên cứu có sự khác biệt và
không phải tất cả sai sót liên quan tới thuốc đều gây ra hậu quả trên bệnh nhân.
Nghiên cứu trên 1116 bệnh viện tại Mỹ năm 2001 cho thấy, sai sót liên quan tới
thuốc xảy ra trên 5,07% bệnh nhân nhập viện mỗi năm nhưng chỉ 0,25% bệnh nhân
gặp biến cố do nguyên nhân này [28]. Trong một nghiên cứu khác sử dụng cơ sở dữ
6
liệu theo dõi ADE trên 30.397 lượt người-năm, cứ 1000 lượt người-năm thì có 14
trường hợp ADE có thể phòng tránh được [36]. Tại Úc, mỗi năm có khoảng 18.000
trường hợp tử vong và hơn 50.000 trường hợp tàn tật do sai sót liên quan tới thuốc
[57].
1.1.3. Chất lượng thuốc
1.1.3.1.
Các định nghĩa về thuốc giả, thuốc kém chất lượng
Luật Dược (2005) định nghĩa:
– Thuốc giả là sản phẩm được sản xuất dưới dạng thuốc với ý đồ lừa đảo,
thuộc một trong những trường hợp sau:
Không có dược chất;
Có dược chất nhưng không đúng hàm lượng đã đăng ký;
Có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn;
Mạo tên, kiểu dáng công nghiệp của thuốc đã đăng ký bảo hộ sở hữu
công nghiệp của cơ sở sản xuất khác.
– Thuốc kém chất lượng là thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký
với cơ quan quản lý [13].
1.1.3.2.
Hậu quả của thuốc giả, thuốc kém chất lượng
Thuốc giả, thuốc kém chất lượng đang là vấn nạn tại nhiều quốc gia trên thế
giới. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), ở các nước phát triển có
khoảng 1% các thuốc trên thị trường bị làm giả, con số này ở các nước đang phát
triển là khoảng 10% [63]. Một nghiên cứu năm 2004 thực hiện tại các nước Đông
Nam Á trong đó có Việt Nam cho thấy 53% các thuốc chống sốt rét “artesunat” bán
tại các nhà thuốc không chứa hoạt chất ghi trên nhãn [33]. Thuốc giả, thuốc kém
chất lượng có thể gây ra những tác hại nghiêm trọng với sức khỏe người bệnh, góp
phần gây thất bại điều trị, kéo dài thời gian nằm viện, phát triển hiện tượng kháng
thuốc và thậm chí gây tử vong [64]. Trong đại dịch viêm màng não ở Niger năm
1995, hơn 500.000 người đã được tiêm vắc-xin giả gây ra cái chết cho 2500 bệnh
nhân [63]. Thuốc vốn được coi là niềm hi vọng cứu sống bệnh nhân lại trở thành
nguyên nhân dẫn đến cái chết bởi nạn thuốc giả.
7
1.2. HOẠT ĐỘNG CẢNH GIÁC DƯỢC TRONG BỆNH VIỆN
1.2.1. Mục tiêu
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa “Cảnh giác Dược là khoa học và
các hoạt động liên quan đến việc phát hiện, đánh giá, nghiên cứu và phòng tránh các
phản ứng có hại của thuốc (ADR) và các vấn đề liên quan đến quá trình sử dụng
thuốc” [61].
Mục tiêu cụ thể của hoạt động Cảnh giác Dược là:
– Cải thiện chăm sóc bệnh nhân và an toàn trong mối liên quan sử dụng thuốc
với can thiệp của điều trị và hỗ trợ điều trị trên người bệnh.
– Cải thiện sức khỏe cộng đồng và đảm bảo an toàn trong sử dụng thuốc.
– Góp phần đánh giá lợi ích, nguy cơ, hiệu quả và độ an toàn của thuốc,
khuyến khích sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả hơn (bao gồm các yếu tố kinh
tế).
– Thúc đẩy sự hiểu biết, giáo dục và đào tạo trên lâm sàng trong Cảnh giác
Dược và tuyên truyền hiệu quả tới cộng đồng [59], [61], [65].
Theo Hiệp hội Cảnh giác Dược châu Âu (European Society of
Pharmacovigilance), Cảnh giác Dược là một hoạt động thiết yếu trong thực hành
lâm sàng tại bệnh viện. Tại nhiều quốc gia, việc hình thành mạng lưới trung
tâm/đơn vị Cảnh giác Dược tại các bệnh viện là nhân tố quyết định sự thành công
của hệ thống Cảnh giác Dược quốc gia [54].
1.2.2. Các đối tác tham gia hoạt động Cảnh giác Dược trong bệnh viện
1.2.2.1. Hội đồng Thuốc và Điều trị
Theo quy định của thông tư số 21/2013/TT-BYT ngày 8/8/2013 về tổ chức
và hoạt động của Hội đồng Thuốc và Điều trị trong bệnh viện, một trong những
nhiệm vụ của Hội đồng là giám sát phản ứng có hại của thuốc (ADR). Theo đó, Hội
đồng có những trách nhiệm sau (điều 8):
– Xây dựng quy trình phát hiện, đánh giá, xử trí, dự phòng ADR và các sai sót
trong chu trình sử dụng thuốc tại bệnh viện từ giai đoạn chẩn đoán, kê đơn của thầy
thuốc, chuẩn bị và cấp phát thuốc của dược sĩ, thực hiện y lệnh và hướng dẫn sử
8
dụng của điều dưỡng, sự tuân thủ điều trị của người bệnh nhằm bảo đảm an toàn
cho người bệnh trong quá trình điều trị.
– Tổ chức giám sát ADR, ghi nhận và rút kinh nghiệm các sai sót trong điều
trị.
– Triển khai hệ thống báo cáo ADR trong bệnh viện.
– Thông tin cho cán bộ y tế trong bệnh viện về ADR, sai sót trong sử dụng
thuốc để kịp thời rút kinh nghiệm chuyên môn.
– Cập nhật, bổ sung, sửa đổi danh mục thuốc của bệnh viện, hướng dẫn điều trị
và các qui trình chuyên môn khác dựa trên thông tin về ADR và sai sót trong sử
dụng thuốc ghi nhận được tại bệnh viện.
– Tổ chức tập huấn cho cán bộ y tế về ADR và sai sót trong sử dụng thuốc [9].
1.2.2.2. Khoa Dược
Thông tư 22/2011/TT-BYT của Bộ Y tế quy định một trong những nhiệm vụ
của khoa Dược là tham gia công tác Cảnh giác Dược; theo dõi và tập hợp các báo
cáo về phản ứng có hại của thuốc trong đơn vị và báo cáo về Trung tâm DI & ADR
Quốc gia; đề xuất biện pháp giải quyết và kiến nghị về sử dụng thuốc hợp lý, an
toàn [5].
Thông tư 23/2011/TT-BYT cũng quy định: khoa Dược có nhiệm vụ làm đầu
mối trình lãnh đạo bệnh viện các báo cáo phản ứng có hại của thuốc theo mẫu của
Bộ Y tế và gửi về Trung tâm DI & ADR Quốc gia ngay sau khi xử lý [6].
1.2.2.3. Đơn vị thông tin thuốc
Công văn 10766/YT-Đtr của Bộ Y tế về hướng dẫn tổ chức, chức năng và
nhiệm vụ của đơn vị thông tin thuốc trong bệnh viện quy định: ngoài trách nhiệm
cung cấp thông tin thuốc trong bệnh viện (tư vấn cho bác sĩ, bệnh nhân và Hội đồng
Thuốc và Điều trị) thì đơn vị thông tin thuốc còn có trách nhiệm tham gia theo dõi,
xử lý và thu thập thông tin về phản ứng có hại của thuốc và thuốc không đảm bảo
chất lượng [3]. Như vậy, đơn vị thông tin thuốc có thể là một đơn vị triển khai trực
tiếp các hoạt động Cảnh giác Dược trong bệnh viện.
1.2.2.4. Nhân viên y tế
9
Theo WHO, các nhân viên y tế có điều kiện tốt nhất để báo cáo các nghi ngờ
về ADR xảy ra ở bệnh nhân. Tất cả nhân viên tham gia vào hệ thống chăm sóc sức
khỏe đều tham gia báo cáo các ADR như một phần trong trách nhiệm chuyên môn
của mình, ngay cả khi ADR bị nghi ngờ chưa có mối quan hệ rõ ràng với việc điều
trị [60].
Điều 51, Luật Dược quy định: “Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cán bộ, nhân
viên y tế có trách nhiệm theo dõi và báo cáo cho người phụ trách cơ sở, cơ quan có
thẩm quyền quản lý thuốc về các phản ứng có hại của thuốc” [13].
Thông tư 31 của Bộ Y tế về việc hướng dẫn hoạt động dược lâm sàng trong
bệnh viện quy định: Một trong những nhiệm vụ của dược sĩ lâm sàng là theo dõi,
giám sát ADR và là đầu mối báo cáo các ADR tại đơn vị theo quy định hiện hành.
Tại khoa lâm sàng, dược sĩ lâm sàng ngoài xem xét các thuốc được kê đơn cho
người bệnh về chỉ định, chống chỉ định… còn phải xem xét đến các ADR của thuốc
[7].
1.2.3. Các hoạt động giám sát ADR trong bệnh viện
Việc giám sát phản ứng có hại của thuốc gồm các bước: phát hiện, xử trí,
đánh giá, báo cáo và dự phòng ADR [8][62].
1.2.3.1.
Phát hiện ADR
Điều dưỡng viên, hộ sinh viên, kỹ thuật viên trong bệnh viện có trách nhiệm
theo dõi và phát hiện những biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng bất thường trên
người bệnh, thông báo cho bác sĩ điều trị và khoa Dược, ghi lại các thông tin liên
quan tới thuốc mà người bệnh đã sử dụng.
Bác sĩ phát hiện và ghi nhận những biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng bất
thường của bệnh nhân vào bệnh án; kiểm tra lại tất cả các thuốc thực tế bệnh nhân
đã sử dụng; kiểm tra chất lượng mẫu thuốc lưu lại về cảm quan; kiểm tra tính hợp lý
trong sử dụng thuốc như: tình trạng bệnh lý, liều dùng, tiền sử dị ứng và thời điểm
dùng thuốc có phù hợp với thời điểm xuất hiện ADR không.
Trong quá trình hoạt động chuyên môn, thông qua giám sát sử dụng thuốc
trong bệnh án hoặc duyệt thuốc tại Khoa Dược, dược sĩ phát hiện ADR dựa trên các
10
thuốc chỉ điểm để xử trí phản ứng có hại của thuốc, biểu hiện lâm sàng và kết quả
xét nghiệm cận lâm sàng bất thường. Ưu tiên xem xét bệnh án các đối tượng đặc
biệt, sử dụng thuốc có nguy cơ cao xảy ra ADR [8].
1.2.3.2.
Xử trí ADR
Điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên thực hiện xử trí ADR theo đúng y lệnh
của bác sĩ; theo dõi bệnh nhân và thông báo kịp thời cho bác sĩ điều trị nếu có diễn
biến bất thường. Trường hợp khẩn cấp có thể ngừng sử dụng thuốc nghi ngờ gây
ảnh hưởng tới tính mạng người bệnh trước khi thông báo cho bác sĩ.
Bác sĩ có nhiệm vụ đánh giá mức độ nghiêm trọng của ADR để quyết định
hướng xử trí lâm sàng phù hợp: giảm liều hoặc ngừng thuốc nghi ngờ gây ADR, kịp
thời thực hiện các biện pháp điều trị triệu chứng, điều trị hỗ trợ, đảm bảo chức năng
sống còn cho người bệnh, thực hiện theo các hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế có
liên quan nếu việc xử trí ADR thuộc phạm vi các hướng dẫn đó. Trường hợp cần
thiết, có thể trao đổi hướng xử trí với đồng nghiệp, tổ chức hội chẩn chuyên môn,
tham khảo thêm thông tin về ADR từ dược sĩ, Đơn vị thông tin thuốc bệnh viện
hoặc các Trung tâm về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc.
Giám sát chặt chẽ người bệnh trong trường hợp bắt buộc sử dụng lại thuốc nghi ngờ
gây ADR khi không có thuốc thay thế hoặc khi lợi ích của thuốc vượt trội hơn nguy
cơ.
Dược sĩ lâm sàng cần phải trao đổi với bác sĩ điều trị nếu phát hiện ADR khi
thực hiện hoạt động dược lâm sàng tại khoa phòng để có biện pháp xử trí phù hợp,
cũng như cung cấp thông tin về thuốc trong quá trình xác định và xử trí ADR theo
yêu cầu của cán bộ y tế [8].
1.2.3.3.
Đánh giá ADR
Hội đồng Thuốc và Điều trị bệnh viện cần phải kiểm tra các trường hợp nghi
ngờ là ADR, cử một thành viên chuyên điều tra và phân tích các báo cáo, họp định
kì để thảo luận và đánh giá các báo cáo và thông báo cho các nhân viên y tế trong
bệnh viện. Nhiệm vụ đánh giá ADR bao gồm các bước cụ thể sau đây:
– Đánh giá bản chất của ADR
11
Nhân viên y tế cần xem xét tiền sử người bệnh, kiểm tra chi tiết mô tả ADR,
tra cứu tài liệu về mô tả này và các thuốc nghi ngờ, tra cứu xem ADR đã được ghi
nhận trong tờ hướng dẫn sử dụng thuốc hay các tài liệu y văn về thuốc chưa. Phân
loại mức độ nguy hiểm của phản ứng, và đánh giá mối liên hệ giữa thuốc nghi ngờ
và ADR xuất hiện trên người bệnh.
– Xác định nguyên nhân gây ADR
Sau khi nhận định các triệu chứng lâm sàng cấu thành ADR, nhân viên y tế
cần quan sát thuốc bị nghi ngờ và kiểm tra việc mua, bảo quản thuốc, hạn dùng của
thuốc. Tính tần suất xảy ra ADR trong các khoa khác nhau và kiểm tra xem giữa
các khoa có tỷ lệ mắc ADR cao nhất và thấp nhất với cùng một loại thuốc có điểm
khác nhau nào không, thăm các khoa phòng có tỷ lệ ADR cao để quan sát thuốc bị
nghi ngờ được kê đơn, cấp phát và sử dụng như thế nào. Trong trường hợp cần
thiết, có thể liên hệ với các cơ quan, bệnh viện khác hoặc cơ quan quản lý để tìm
hiểu thông tin về ADR tương tự, hoặc gửi mẫu thuốc đi kiểm tra chất lượng [8],
[62].
1.2.3.4.
Báo cáo ADR
Người trực tiếp viết báo cáo ADR có thể là bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng viên,
hộ sinh, kỹ thuật viên và các nhân viên y tế khác, sử dụng mẫu báo cáo do Bộ Y tế
quy định.
Hội đồng Thuốc và Điều trị bệnh viện cần xây dựng hệ thống giám sát, theo
dõi, điều tra và báo cáo ADR ngay trong bệnh viện, bất kì phát hiện nghiêm trọng
nào cũng cần phải báo cáo với cơ quan quản lý dược phẩm quốc gia và/hoặc với nhà
sản xuất.
Báo cáo cần được gửi trong thời gian sớm nhất có thể sau khi xảy ra phản
ứng, ngay cả khi thông tin thu được chưa đầy đủ. Có thể bổ sung báo cáo nếu thu
thập được thêm thông tin [8], [62].
1.2.3.5.
Dự phòng
Hội đồng Thuốc và Điều trị có thể tăng cường việc sử dụng thuốc an toàn và
dự phòng các trường hợp ADR thông qua xây dựng quy trình báo cáo ADR trong
bệnh viện và xây dựng danh mục các thuốc có nguy cơ cao cần giám sát. Bên cạnh
12
đó, hội đồng cần tổ chức thảo luận để đưa ra hướng xử trí và đề xuất biện pháp dự
phòng trong trường hợp xảy ra các phản ứng có hại nghiêm trọng. Một hoạt động
khác cần được quan tâm là tổ chức tập huấn cho nhân viên y tế về kỹ năng phát
hiện, xử trí ADR và kỹ năng điền báo cáo ADR đúng và đầy đủ thông tin. Định kỳ
tổng kết công tác báo cáo ADR trong bệnh viện, từ đó sử dụng thông tin an toàn
thuốc thu được để cập nhật, sửa đổi danh mục thuốc của bệnh viện, các hướng dẫn
điều trị, quy trình chyên môn trong bệnh viện.
Khoa Dược, Đơn vị Thông tin Thuốc của bệnh viện cần cập nhật thông tin về
an toàn thuốc; gửi đến cán bộ y tế và người bệnh trong cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh; giám sát chất lượng trước khi cấp phát thuốc về các khoa phòng; hướng dẫn
và hỗ trợ cán bộ y tế trong công tác báo cáo ADR.
Đối với nhân viên y tế cần phải tuân thủ chỉ định, chống chỉ định, thận trọng,
liều dùng của thuốc, quy trình bảo quản và sử dụng thuốc trên bệnh nhân, chú ý
tương tác thuốc trong kê đơn [8], [62].
1.2.4. Những tồn tại của công tác báo cáo ADR trong bệnh viện
1.2.4.1. Quy trình báo cáo ADR
Quy trình báo cáo ADR tại bệnh viện chưa thống nhất và hoàn thiện. Theo
nghiên cứu thực hiện năm 2013 tại một số bệnh viện trên phạm vi cả nước thì chỉ có
56,25% số bệnh viện ban hành được quy trình báo cáo ADR, trong đó có đến
20,83% cán bộ y tế không biết bệnh viện có quy trình báo cáo ADR hay không [2].
Báo cáo ADR từ các cơ sở điều trị đa khoa chiếm tỷ lệ cao nhất 63,4%; báo cáo từ
các bệnh viện tuyến trung ương chỉ chiếm tỷ lệ 9,2% so với 63,6% bệnh viện tuyến
tỉnh, thành phố [15]. Sự tham gia của cán bộ nhân viên y tế là khác nhau giữa các
cơ sở. Báo cáo ADR được thực hiện bởi bác sĩ khoảng 60 – 98% trong khi báo cáo
từ dược sĩ chỉ chiếm khoảng 0 – 25% [1], [14], [19].
1.2.4.2. Cơ sở vật chất và nhân lực
Thiếu cán bộ chuyên trách về Cảnh giác dược
Tuy rằng việc có một bộ phận/cán bộ chuyên trách được đào tạo bài bản về
hoạt động Cảnh giác Dược là cần thiết nhưng không phải bệnh viện nào cũng có
điều kiện đáp ứng. Do đó trách nhiệm làm báo cáo ADR trở nên khó khăn khi hàng
13
ngày các nhân viên y tế phải đối mặt với một khối lượng công việc lớn và thường
ưu tiên dành thời gian cho các hoạt động chuyên môn được phân công [26], [43].
Hạn chế về cơ sở vật chất
Việc mẫu báo cáo không sẵn có tại các khoa phòng (bao gồm mẫu báo cáo
ADR, mẫu báo cáo sai sót liên quan đến thuốc và mẫu báo cáo nghi ngờ chất lượng
thuốc) là một phần nguyên nhân khiến các cán bộ y tế không làm báo cáo [26], [43].
1.2.4.3. Nhận thức và thái độ của nhân viên y tế
Hạn chế trong nhận thức về tầm quan trọng của Cảnh giác Dược
Mặc dù đã được triển khai rộng rãi tại nhiều quốc gia, một số nhân viên y tế
vẫn cho rằng Cảnh giác dược là việc lý tưởng, phi hiện thực; ít quan tâm đến nguy
cơ liên quan tới thuốc; coi trung tâm báo cáo ADR là một địa chỉ xa vời và không
chắc chắn về vai trò của mình trong hoạt động báo cáo ADR [51]. Nhiều cán bộ y tế
quan niệm ADR của thuốc đã được nghiên cứu đầy đủ trước khi thuốc được đưa
vào thị trường và cho rằng chỉ nên báo cáo ADR nếu chắc chắn rằng biến cố đó liên
quan đến việc sử dụng thuốc [43]. Những quan điểm sai lầm trên khiến cho hoạt
động báo cáo ADR chưa được quan tâm đúng mức và dẫn đến hậu quả là báo cáo
không đầy đủ vẫn còn rất phổ biến [42].
Thiếu sự hợp tác của nhân viên y tế
Các nhân viên y tế cũng có thể lo ngại rằng nếu chỉ báo cáo một ca đơn lẻ sẽ
không thể đóng góp gì cho kiến thức y học [43], hay một số người có tham vọng giữ
thông tin và đăng tải một chùm ca về ADR cho cá nhân mình [26]. Một số khác có
tâm lý e ngại bị liên lụy hoặc bị quy kết trách nhiệm vì việc báo cáo của mình và vì
vi phạm tính bảo mật bệnh án của bệnh nhân [26], [29].
Thiếu kiến thức lâm sàng và không biết cách thực hiện báo cáo
Công tác đào, tạo tập huấn về Cảnh giác Dược ở nhiều quốc gia vẫn chưa
được triển khai rộng rãi đến nhân viên y tế tại các cơ sở khám chữa bệnh. Nhiều nơi
nhân viên y tế không biết cách điền thông tin vào báo cáo và không biết gửi báo cáo
ADR tới đâu [26], [40]. Một đặc điểm khác của phản ứng có hại của thuốc là mối
quan hệ nhân quả giữa thuốc và ADR thường không chắc chắn đặc biệt khi bệnh
14
nhân sử dụng nhiều thuốc và tình trạng bệnh phức tạp. Đây cũng là nguyên nhân
khiến nhiều nhân viên y tế cảm thấy thiếu tự tin khi thực hiện báo cáo [43].
1.2.5. Hoạt động báo cáo ADR tại bệnh viện Phụ sản Trung Ương
Bệnh viện Phụ sản Trung Ương là bệnh viện chuyên khoa tuyến cuối ngành
sản phụ khoa, sơ sinh, hỗ trợ sinh sản với quy mô 700 giường bệnh. Bệnh viện có
14 khoa lâm sàng, 9 khoa cận lâm sàng, 7 trung tâm và 7 phòng chức năng [71].
Trong giai đoạn 2010 – 2014, bệnh viện đã triển khai nhiều hoạt động nhằm
đẩy mạnh hoạt động Cảnh giác Dược trong bệnh viện. Nghiên cứu đánh giá báo cáo
phản ứng có hại của thuốc tại bệnh viện giai đoạn 2009 – 2011 cho thấy: số lượng
báo cáo chưa cao (36 báo cáo/ 3 năm); các báo cáo ADR được ghi nhận chủ yếu
thông qua hoạt động duyệt thuốc và thực hành tại khoa lâm sàng của dược sĩ; sự
tham gia của bác sĩ, điều dưỡng còn hạn chế [18]. Tháng 3 năm 2012, Hội đồng
Thuốc và Điều trị chính thức triển khai Đề án Phát triển công tác Dược lâm sàng tại
bệnh viện với nội dung chính liên quan đến hoạt động phát hiện và phòng ngừa các
phản ứng có hại của thuốc gây ra. Đề án xác định rõ đây là một cấu thành hữu cơ
của hoạt động dược lâm sàng và là việc làm hàng ngày của dược sĩ lâm sàng, bác sĩ
và các nhân viên y tế khác (Phụ lục 4). Cũng trong năm này, bệnh viện bắt đầu tham
gia vào Dự án “Hỗ trợ hệ thống y tế” – Hợp phần 2.1 “Tăng cường các hoạt động
Cảnh giác Dược” tài trợ bởi Global Fund. Sau hai năm triển khai, hoạt động báo cáo
phản ứng có hại của thuốc đã có bước phát triển rõ rệt, thể hiện ở số lượng báo cáo
ADR gửi về Trung tâm DI & ADR Quốc gia ngày càng tăng [15][16]. Tuy nhiên,
nhận thức được những tồn tại trong công tác báo cáo ADR tại bệnh viện cũng như
đặt mục tiêu vận hành hệ thống báo cáo ADR theo một quy trình chuẩn và thống
nhất, tháng 10 năm 2014, Hội đồng Thuốc và Điều trị đã ban hành quy trình báo
cáo ADR số SOP.01.ADR.KD-PSTW. Được xây dựng dựa trên quy tắc Quy trình
điều hành chuẩn SOP (Standard Operating Procedure), quy trình báo cáo mới bao
gồm mục tiêu, quy trình thực hiện được mô tả chi tiết và các hồ sơ và phụ lục kèm
theo (Phụ lục 5).
15
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu bao gồm:
– Tất cả các báo cáo ADR của bệnh viện Phụ sản Trung Ương đã gửi tới
Trung tâm DI & ADR Quốc gia trong giai đoạn từ tháng 1/2010 đến tháng 12/2014.
– Tất cả các nhân viên y tế tại các khoa lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh
viện Phụ sản Trung Ương.
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện Phụ sản
Trung Ương và Trung tâm DI & ADR Quốc gia.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu 1: Phân tích tình hình báo cáo ADR của Bệnh viện Phụ sản Trung
Ương giai đoạn 2010 – 2014
– Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
– Phương pháp thu thập số liệu: Hồi cứu dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu về báo cáo
ADR được lưu trữ tại Trung tâm DI & ADR Quốc gia từ năm 2010 đến năm 2014.
– Cấu trúc dữ liệu: Dữ liệu gồm 4 phần chính là thông tin về báo cáo, thông
tin về thuốc nghi ngờ, thông tin về ADR và kết quả đánh giá chất lượng báo cáo.
Mục tiêu 2: Khảo sát nhận thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế
trong hoạt động báo cáo ADR tại bệnh viện Phụ sản Trung Ương
– Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang không can thiệp thông qua bộ
câu hỏi dành cho các nhân viên y tế.
– Phương pháp thu thập dữ liệu: Bộ câu hỏi tự điền (Phụ lục 3).
– Bộ câu hỏi được thiết kế bao gồm câu hỏi có nhiều lựa chọn, câu hỏi
Có/Không và câu hỏi thăm dò.
– Bộ câu hỏi đảm báo bí mật tên người trả lời, không phân biệt giữa các khoa
lâm sàng/cận lâm sàng.
– Bộ câu hỏi được phát ra cho 100% đối tượng nghiên cứu thông qua điều
dưỡng hành chính của các khoa lâm sàng, sau 07 ngày làm việc thu lại bộ câu hỏi
16
đã trả lời tại phòng Hành chính khoa lâm sàng, sau đó 07 ngày quay lại lần nữa để
thu các phiếu chưa nộp.
– Cấu trúc dữ liệu: Dữ liệu gồm 5 phần chính:
+ Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng tham gia phỏng vấn,
+ Nhận thức của nhân viên y tế về an toàn thuốc và phản ứng có hại của
thuốc,
+ Nhận thức về trách nhiệm của nhân viên y tế – tầm quan trọng của công tác
báo cáo ADR,
+ Thực trạng việc thực hành báo cáo ADR tại bệnh viện,
+ Quy trình báo cáo ADR tại bệnh viện và biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động báo cáo ADR.
2.3.
CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU
2.3.1. Phân tích tình hình báo cáo ADR
Thông tin chung về báo cáo
– Số lượng và tỷ lệ báo cáo ADR của bệnh viện Phụ sản Trung Ương so với
tổng số báo cáo từ bệnh viện chuyên ngành sản phụ khoa và từ các bệnh viện trên cả
nước.
– Phân tích số lượng báo cáo ADR theo tháng: sự thay đổi về số lượng báo
cáo ADR theo tháng trước và sau thời điểm bệnh viện triển khai Đề án Phát triển
công tác Dược lâm sàng (tháng 3 năm 2012) dựa trên hai tiêu chí: xu hướng và mức
độ.
– Đối tượng tham gia báo cáo: bác sĩ, dược sĩ, NVYT khác.
– Các khoa phòng ghi nhận báo cáo.
– Sự thay đổi về đối tượng tham gia báo cáo và khoa phòng ghi nhận báo cáo
ADR qua các năm.
– Thời gian trì hoãn gửi báo cáo ADR: Tính theo đơn vị ngày, là thời gian từ
ngày xảy ra phản ứng đến ngày Trung tâm DI & ADR nhận được báo cáo.
– Báo cáo ADR nghiêm trọng: dựa vào mức độ nghiêm trọng của phản ứng,
báo cáo ADR được phân loại ở 6 mức là: tử vong, đe dọa tính mạng, nhập viện/kéo
17
dài thời gian nằm viện, tàn tật vĩnh viễn/nặng nề, dị tật thai nhi và không nghiêm
trọng [8].
Thông tin về thuốc nghi ngờ gây ADR
Thuốc nghi ngờ gây ADR được mã hóa theo hệ thống phân loại ATC (The
anatomical therapeutic chemical classification system). Mã ATC là một hệ thống
phân loại mà trong đó các hoạt chất được phân vào những nhóm khác nhau tương
ứng với cơ quan hoặc hệ cơ quan mà chúng tác động cũng như những đặc tính điều
trị, đặc tính dược lý và đặc tính hóa học của chúng [58].
– Phân loại báo cáo ADR theo lý do sử dụng thuốc: Dựa trên phân loại ICD-
10 của WHO, lấy đến 3 ký tự [66].
– Phân loại thuốc nghi ngờ gây ADR theo đường dùng thuốc.
– Các họ dược lý được báo cáo nhiều nhất: dựa vào mã ATC của thuốc, lấy
đến bậc 3 – biểu thị phân nhóm dược lý/điều trị.
– Các thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất.
Thông tin về ADR
Biểu hiện ADR được mô tả bằng bộ thuật ngữ WHO-ART 2012 (Adverse
Reaction Terminology) [67]. Mỗi biểu hiện ADR được chuẩn hóa ở mức PT
(Prefered term) và các PT được nhóm lại bằng mã SOC (System Organ Classes –
phân loại tổ chức cơ thể bị ảnh hưởng) tương ứng [67].
– Phân loại báo cáo ADR theo tổ chức cơ thể bị ảnh hưởng: Dựa vào mã
SOC của biểu hiện ADR được báo cáo.
– Các biểu hiện ADR được ghi nhận nhiều nhất.
– Các cặp thuốc – ADR được ghi nhận nhiều nhất.
Chất lượng báo cáo ADR
– Chất lượng báo cáo được đánh giá dựa trên cách tính điểm hoàn thành báo
cáo (report completeness score) theo thang điểm VigiGrade của hệ thống
Documentation grading thuộc Trung tâm Uppsala của Tổ chức Y tế thế giới WHO
(Trung tâm WHO – UMC) [27].