11314_Tiểu luận Tang lễ người Việt

luận văn tốt nghiệp

Tiểu luận

TANG LỄ NGƯỜI VIỆT

A. Quan niệm về cái chết của người Việt
Đời người ai cũng phải đi qua ba giai đoạn từ Âú, Tráng, đến Lão, vì vậy
mọi người đều không qua khỏi vòng càng khôn Sinh, Lão, Bệnh, Tử .
Người ta thường nói rằng: “sinh có hạn, tử bất kì”. Ai cũng có thể biết
được ngày mình có mạt trên đời, nhưng chắc chán một điều rằng không
phải ai cũng biết được ngày mình lìa bỏ thế giới của dương trần về với
miền cực lạc. Đối mặt với cái chết con người không khỏi khiếp hải, lo
lắng từ những suy nghĩ đầy trực giác của người nguyên thủy đến những
day dứt băn khoăn, toan tính của người hiện đại đều có điểm tương đồng,
đó là cảm giác đâu đớn, bất lực trước cái chết “ hai tay buông xuoi và thế
là hết, cuộc sống quá ngắn ngủi có ý nghĩa gì đâu khi thần chết với lưỡi
hái tử thần đã ở kề bên”
Sợ hãi và ước muốn trước cái chết đã đưa con người vào thế giới tâm
linh. Quan niệm về kiếp sau và sự bất tử của linh hồn làm vơi bớt gánh
nặng tinh thần và họ gắng chuẩn bị cho kiếp sau như một cuộc hành trình
đến nơi ở vĩnh viễn .
Dù mỗi người đi về thế giới bên kia bằng cách nâo đi nữa, họ đều giống
nhau ở ước nguyện trở thành bất tử, muốn quay về mái nhà xưa để cùng
đoàn tụ với gia đình. Vì vậy mà trong tang ma của người Việt mang đầy
những sắc tố tâm linh.

B. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH TANG MA SAU KHI NGƯỜI CHẾT
1. Lễ mộc dục
Người than cần chuẩn bị một dải loại để buộc tóc, một con dao nhỏ để cắt
móng tay, móng chân, hai khăn vải trắng, một lược thưa để chải tóc, hai
chậu đựng nước. Lâu tắm xong, gói móng tay, móng chân bỏ vào áo quan,
thay áo cũ, mặc áo mới cho người chết.
Người chết có quan tước thường được mặc đủ xiêm đai, hốt, hia mũ triều
phục, có nhà dùng những thứ tốt đẹp nhất vẫn mặc lúc sinh thời, không phải
may mới, có nơi kiêng không mặc áo kép, chỉ mặc áo đơn cắt bỏ hết khuy,
mặc vạt cái vào trong…tóm lại mặc trái hẳn với người còn sống.
Những cụ già 70 tuổi trở lên chết thường mặc quần điều, áo lam, chit khăn
nhiễu tím.
2. Hồn bạch
Khi người bệnh chết thì người thân phải thoa son dưới bàn chân người chết,
rồi lấy miếng vải trắng in dấu chân (nam tả, nữ hữu!) lưu giữ trong hộp hay
trong khánh để thờ.
Hay người ta còn lấy bảy thước loại đã cắt đặt trên ngực người chết, trước
khi tắt thở kết như hình người, một đầu hai tay, còn hai đầu dải rời ra lam
hai chân. Sau khi nhập quan đạt hồn bạch lên trên linh sàng để sớm tôi rước
ra vào. Còn ngày nay người ta dung ảnh thay cho hồn bạch.
3. Chủ tang
Chủ tang thường là con trai trưởng, nếu con trai trưởng đã chết thì con
trai đầu long của người đó đứng lam chủ tang.
Người con có tang mẹ hoặc tang vợ nếu người cha cón sống thì cha làm
chủ tang, còn ông thì ông làm chủ tang.
4. Tướng lễ, hộ tang, tư thư, tư hóa
– Tướng lễ: Người thong thạo cách sắp đặt mọi việc tang lễ.
– Hộ tang: chọn người hiểu biết lễ nghi để giúp.
– Tư thư: người ghi lễ khách đến cúng viếng
– tư hóa: người ghi chép những việc tiêu dung
5. Cáo phó
Người tư thư làm cáo phó viết tay cho người mang đến các nhà thân thích,
họ hang, bạn bè, ở xa phải gửi cáo phó riêng sai người mang đi. Ngày nay
người ta đang cáo phó trên nhật báo, hoặc đọc qua đài, qua tivi.
6. Trị quan
Sửa soạn quan tài, mọi thứ cần thiết dung để liệm, để dọc theo một bên để
dọc theo một bên nơi đạt thi hài.Dùng giấy bồi hay giấy bản lót đáy quan tài,
hoặc trà búp khô trải khắp đáy áo quan. Trên lớp giấy đặt một miếng ván
mỏng khuôn khổ vừa bằng trong long áo quan, khoét bảy lổ hổng, tượng
hình sao Bắc Đẩu gọi là ván thất tinh.
7. Phạn hàm
Gồm một nhúm gạo vo sạch và ba đồng tiền, láy thìa xúc gạo và một đồng
tiền cho vào miệng lần đầu là sơ phạn hàm, lần thứ hai là tái phạn hàm, lần
cuối là tam phạn hàm
8. Khâm liệm
Khi liệm tang chủ quỳ xuống khóc, người chấp sự quỳ theo và khấn: “ Được
ngày giờ, xin làm lễ liệm cẩn cáo, tang chủ sụp lạy và đứng lên”
Sau đó tang chủ cởi bỏ dải buộc hàm chit đầu, phủ mặt bằng một vuông vải
hay vóc nhiễu màu đen lót hang màu hồng có dải buộc ra đằng sau gáy, lồng
bao tay, đi bít tất và giầy cho người chết. Phải kiêng không cho nước mắt
khóc của con cháu nhỏ vào thi hài, sợ không mát sau này con cháu trong nhà
sẽ khó làm ăn. Trải đồ tiểu liệm ngang dọc chỉnh tề, rồi trải vải khâm lên
trên, khiêng thay đặt nằm ngay ngắn, xếp đồ bổ khuyết đâu vào đấy, gói vải
khâm, buộc tiểu liệm. Đại liệm cũng gói buộc như tiểu liệm
9. Nhập quan
Sau khi khâm liệm xong, thân nhân có mặt đứng theo thứ tự gần xa, trên
dưới quanh quan tài để thực hiện lễ nhập quan. Con trai đứng bên trái con
gái đứng bên phải. Người chấp sự quỳ hô: “Được ngày giờ xin làm lễ nhập
quan”
Người ta trải tạ quan sát đáy hàm, khiêng thay đã liệm từ từ đặt vào, gói lại
lần chót. Nếu chết vào giờ xấu thì ngoài những bùa dán trên áo quan người
ta hay bỏ cổ bài tổ tôm hay quyển lịch tàu, cuối cùng đậy nắp quan tài và
sơn gắn kín
Mọi người sụp lạy rồi đứng lên
Đặt quan tài ở giữa nhà . Nếu trong nhà còn người thứ bậc cao hơn người
chết thì đặt ở gian bên, đầu quay ra ngoài.
Trên quan tài có một bát cơm in với một trứng gà luộc đặt giữa hai chiếc đũa
bong cắm đứng thẳng.
Con cháu trải rơm ngồi hai bên linh cữu, trai bên trái, gái bên phải
10. Lễ phát tang
– Khi gia đình có người bệnh nặng có dấu hiệu sắp ra đi thì những người
lớn trong gia đình đã kiểm điểm số người phải mặc tang, lo may đồ tang
trước cho từng người, theo thứ tự quan trọng trước sau.
– Mọi người thân quyến trong gia đình tập trung lại chung quanh quan tài.
Người có quyền trong gia đình làm lễ phát tang, đồng thời phân phát khăn
áo cho con cháu chịu tang và từ đây con cháu mới được cất tiếng khóc.
Cũng theo tập quán dân tộc chỉ sau lễ phat tang thì mới chính thức báo tang.
– Mọi người đến phúng viếng và từ lúc này mới có tiếng kèn trống và lúc này
con cháu mới được mặc tang phục và chit khăn theo thứ bậc.
11. Lập bang tang lễ
Sau khi có người từ trần, gia đình tang chủ cùng chính quyền đại diện, ủy ban
Mặt trận, Tổ quốc, cơ quan chủ quản người quá cố, hội người cao tuổi…
phối hợp lập bang tang lễ.
Người đại diện chính quyền phải thông thạo về lễ tang, được thân nhân người
quá cố cảm mến, tin cẩn thì làm trưởng ban để điều hành các công việc lễ
tang
– Ban tang lễ có nhiệm vụ điều hành từ đầu đến cuối đám tang theo nếp sống
văn hóa..
12. Thiết linh sàng, linh tọa
– Thiết linh sàng là kê giường nằm cho vong hồn người chết
– Linh tọa là bàn thờ, bao giờ cũng đặt trước linh cữu. Trên linh tọa về phía
trong giữa đặt bài vi đề chức tước, họ, tên húy, tên thụy, tên hiệu
– Linh cửu ở nhà quàn nên đặt theo chiều dọc. Đầu quan tài hướng vào trong,
để cho người đến viếng mật niệm trước quan tài. Khi di chuyển quan tài ra xe
tang thì xoay đầu quan tài ra phía cửa để thuận chiều đi.
– Bàn thờ bao giờ cũng đặt trước linh cữu, trên linh tọa và phía trong giữa đặt
bài vị và chức tước, họ, tên húy, tên hiệu, bài vị làm bằng nang tre bẻ khung
phất giấy cao chừng 40 phân tay để đứng được, đặt đằng trước hồn bạch. Bát
hương để trước với ba đài rượu phía ngoài, hai bên là đèn nến, ống hương,
tươm tất hơn là có mâm ngũ quả và đồ tam sự hay ngũ sự.
13. Thành phục
– Ngay sau khi thiết linh tọa thì làm lễ thành phục. Con trai đội mũ nùn rơm
quấn bẹ chuối, mặc áo xô gai cầm gậy, cha gậy tre mẹ gậy vông, con dâu
cũng mặc xô gai thắc lưng ra ngoài bằng dây bện bẹ chuối, áo xổ gấu hoặc
không, cũng như con gái còn ở nhà khác con gái đã đi lấy chồng, áo có sổ
gấu và không, mọi người đều xõa tóc đội mũ mấn. Con rễ và anh em mặc áo
thụng trắng, chị em quấn vặn khăn trắng với tóc. Thân thuộc đều mặc đồ
trắng cả.
– Ở nước ta trang phục trong tang ma là màu trắng đã trở thành phong tục.
Khi có tang, con trai, con gái, con dâu nên mặc tang phục màu trắng để phân
biệt với khách đến viếng. Aó tang cần sạch sẽ, chỉnh tề là biểu hiện văn hóa,
văn minh.
Bên cạnh đó ở nước ta còn quan niệm rằng “ vạn vật hữu linh”, vì vậy mà
khi chủ chết cây cối trong vườn cũng đâu buồn mà để tang, nhiều nơi còn
đeo băng trắng cho cả cây cối.
14. Các quy định về áo tang
– Trảm thôi : Tang 3 năm , áo may vải xô gai rất xấu, không khâu gấu
– Tư thôi : Tang một năm có chống gậy, một năm không chống gậy, 5
tháng, 3 tháng, áo may vải xô có khâu gấu.
– Đại công : Tang 9 tháng,áo may vải to sợi.
– Tiểu công: Tang 5 tháng, áo may vải to sợi.
15. Thời hạn để tang
– Cố ông, cố bà, để tang tư thôi 3 tháng
– Cụ ông, cụ bà để tang tư thôi 5 tháng
– Ông bà, để tang tư thôi khồg phải chống gậy thì 1 năm
– Cha mẹ để tang trảm thôi 3 năm
– Chú bác thím để tang 1 năm
– Cô ở nhà tang 1 năm, lấy chồng tang 9 tháng
– Anh hem ruột để tang 1 năm
– Chị em dâu để tang 9 tháng
– Anh em con chú con bác để tang 9 tháng
– Chị em dâu con chú con bác để tang 3 tháng
– Chị em ruột ở nhà tang một năm, lấy chồng tang 9 tháng
– Chi em con chú con bác ở nhà để tang 9 tháng, lấy chồng tang 5 tháng
– Con trai trưởng, con dâu trưởng để tang 1 năm
– Con trai thứ để tang 1 năm
– Con dâu thứ để tang 9 tháng
– Cháu gọi bằng chú bác để tang một năm
– Cháu dâu gọi bằng chú bác để tang 9 tháng
– Cháu gái gọi bằng chú bác ở nhf tang 1 năm, lấy chồng tang 9 tháng
– Cháu trai trưởng, cháu dâu trưởng, cháu trai thứ gọi bằng ông để tang 9
tháng
– Cháu dâu thứ gọi bằng ông để tang 5 tháng
– Ông ngoại, bà ngoại đê tang 5 tháng
– Cậu, gì, để tang 5 tháng
– Mợ, giượng chồng gì không để tang
– Cha mẹ vợ để tang 1 năm
– Chồng để tang 3 năm áo trảm thôi
– Vợ để tang 1 năm
Ngoài
16. Kèn giải
– Đối với dân tộc ta nhạc tang trong tang lễ là một nhu cầu không thể thiếu
được, nó đã trở thành phong tục tập quán lâu đời và ăn sâu vào tiềm thức và
mang ý nghĩa truyền thống của dân tộc vì thế mà nhân gian đã đúc kết thành
câu ca: “Sống dầu đèn, chết kèn trống”.
Nhạc của lễ tang do đội nhạc tang cử hành. Kèn trống là hai nhạc cụ chính
trong âm nhạc lễ tang, chủ yếu là kèn giải và trống cơm cùng với kèn trống
là phường bát âm (xinh tiền, xáo, nhị, Đàn nguyệt, tam, trống cảnh, trống
bộc, kèn).
– Không phải đám tang nào cũng có kèn trống. Theo tập quán của dân
tộc ta cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới là cái chết nào hợp
quy luật như chết già, chết đúng lúc đó là sự vui mừng của con cháu là
có kèn trống. Ngược lại cái chết nào không hợp qui luật như chết trẻ
con chết trước cha mẹ, chết do tai nạn, chết “bất đắc kì tử”… thì
không dung kèn trống
17. Chuyển cữu
Trước khi tống táng, phải khiêng linh cữu sang nhà thờ tổ để người chết
yết tổ, lễ tục là vậy nhưng thong thường vẫn là rước hồn bạch sang nhà
tổ, tang chủ vào làm lễ cáo yết thay người chết, lễ 4 lạy không cầm gậy ,
rồi lùi xuống một bước cầm gậy lễ 4 lạy nữa. Xong lại rước hồn bạch về
linh tọa. Nếu không có nhà thờ tổ riêng biệt thì người ta thường dân trầu
rượu, lễ khấn gia tiên và xoay quan tài một vòng rồi đặt nguyên chỗ cũ.
Khi chuyễn cữu con cháu trong nhà bắt tay vào khiêng.Ở nhiều nơi khi
nâng quan tài lên người ta thường đập cái chén, bát hoặc đập một cái nồi
đất bởi người ta quan niệm rằng khi đập vậy thì cái hồn giật mình và đi
theo người chết đến nơi an nghĩ.
18. Cáo thần đại lộ
Trước khi rước linh cữu về nơi an nghĩ cuối cùng, người ta làm lễ cáo thần
đại lộ. Lễ gồm trầu rượu, hoa quả hay lễ mặn tùy tâm. Người giàu sang
thường thiết lập hương án nơi đầu ngõ để tế một tuần rượu. Việc cáo thần
đại lộ có thể cử người đại diện làm lễ
19. Nghi thức đưa đám
Dẫn đầu là hai phương tướng, đồ mã nang tre, phất giấy bốn mắt, hình
dung dữ tợn cầm khí giới chì đồng phủ việt. Có nhà mướn người vẽ mặt
đeo râu, xõa tóc mặt áo phường tuồng cầm gươm giáo, tượng hình
phương tướng, đi dẫn đầu.
Sau đó là minh tinh, mlinh tinh bao giờ cũng viết bằng chữ trắng, không
viêt mực đen, chữ viết rộng bề ngang hẹp bề dài.
Nối theo sau là hương án bày giá gương, độc bình, mâm ngũ quả và đồ
tam sự, tiếp đó là mâm bày lợn quay, xôi hay bánh trái.
Trướng đối của con cháu thân thuộc và bạn hữu phúng đều căng lên trục
và đem đi rước.
Linh xa đi sau, bốn người khiêng, tựa như long đình nhưng không
Sơn thép lộng lẫy , trong để hồn bạch với bát hương , bình hoa và đèn
nến. Đằng trước là đồ minh khí ( đồ mã) đủ cả biển đèn làm theo kiểu bát
bửu. Phường bát âm đi trước mặt. Đi liền kề hai đầu đòn linh xa là biển
đang triệu phất giấy, đàn ông đề hai chữ Trung, Tín. Đàn bà đề Trinh,
Thuận hoặc Trinh, Tiết.
Sau cùng là đại dư để linh cữu và con cháu đi sau linh cữu, con trai đều
mũ gậy, đưa đám cha thì chống gậy tre để tròn, đưa đám mẹ thì chống
gậy vông đẽo vuông. Nếu đưa đám mẹ thì riêng con trai đi trước linh cữu,
chống gậy, bưng miệng đi giật lùi.
Con dâu, con gái và những phụ nữ thân thuộc đi dưới một cái màn vải
trắng gọi là bạch mạc. Con dâu trưởng và con gái thường nằm ngang
đường thỉnh thoảng lăn vài vòng, cháu chắt đi theo linh xa không đi theo
linh cữu, bà con bạn hữu đi theo sau cùng.
Trong khi đi đường người ta thường rắc vàng giấy, vàng thoi cho ma quỷ,
để khỏi bị chúng quấy nhiễu trở ngại bước đi của người chết.
20. Nhà trạm
Nhà trạm làm bằng tre luồng lợp cót, căng vải kết hoa treo đèn, hoành phi
đối liên chậu cảnh, hương án, bàn độc bày trí trang trọng .
Đến chỗ huyệt lại có một trạm đặt cữu dừng lại để tế hạ huyệt
21. Đưa linh cữu ra xe tang, hoặc đòn khiêng
Khi khiêng linh cữu, người điều khiễn phải phân bố lực lượng cho đều.
Trước khi chuyển cữu, mọi người nhấc quan tài lên để kiểm tra có thật
chắc chắn không, rồi lại đặt xuống. Mọi người khiêng linh cữu phải theo
hiệu lệnh của người chỉ huy (gọi là người chấp hiệu) dùng hai thanh tre
phát ra những tiếng cắc, cắc đều đều tức là mọi việc đã ổn thỏa, cứ thế
mà đi. Khi có hai tiếng cắc, cắc từng nhịp là nâng lên hạ xuống một chút..
“Một tiếng bỏ đi, hai tiếng rì rì mà lên”
Ngươì chỉ huy làm sao mà trên nắp quan tài có chắn rượu, hoặc bát nước
đầy khi nâng lên hoặc hạ xuống rượu hoặc nước không đổ ra ngoài.
Người chỉ huy điều khiển mọi người nhấc quan tài lên lần thứ hai, nhẹ
nhàng xoay quan tài để đầu đi trước, khi ra đến xe tang hoặc đòn khiêng
thì nhẹ nhàng đặt linh cửu vào một cách cẩn trọng.
22. Hạ huyệt
Trước khi hạ huyệt người ta thường tế thổ thần gồm vàng, hương trầu
rượu và một lễ mặn bày trên một chiếc án theo hướng tốt để xin phép an
táng người chết tại nơi đây.
Huyệt đào theo hướng địa lý chỉ bảo. Được giờ hoàng đạo người ta đặt
cữu xuống, gọi là hạ huyệt
Minh tinh được trải lên trốc quan tài một lát rồi đem ra phương Bắc đốt .
Lấp huyệt, đắp mộ xong, mọi người đứng trước mộ vái lạy từ biệt
Nhà táng và thuyền bát nhã cũng như khung giá căng minh tinh và hai
hình phương tướng đã được mang đốt đi ngay sau khi đại dư được đặt
xuống bên cạnh huyệt.
23. Rước về
Đám tang phải đi một đường về một nẻo, nhưng vẫn phải theo thứ tự theo
lúc đi. Về đến nhà người ta rước thần chủ( ảnh) từ linh xa đặt vào bàn
thờ, .làm lễ an vị, bốn lạy một vái.
Bàn thờ được thiết lập ở những nơi trang trọng ,nhất trong nhà, nhưng
không bao giờ được đặt trong nhà thờ tổ. Nếu nhà có bàn thờ gia tiên ở
gian giữa thì phải đặt bàn thờ vong ở gian bên, không được thờ chung ở
gian giữa, phải đợi hết tang mới có thể rước sang hợp tự
24. Tế ngu
Ngu là vui. Tế ngu để làm nguôi lòng đâu thương của cha hay mẹ vừa
mất, để tỏ lòng hiếu kính cho cha mẹ được yên vui.
Tế ngu gôm có 3 lần, lần đầu là sơ ngu, lần thứ 2 là tái ngu, lần 3 là tam
ngu. Tế ngu thì chủ tế là con trưởng hay cháu đức tôn đứng hàng đầu,
mỗi cử động phải theo người tướng lễ đi bên cạnh hương dẫn, để tránh
lỗi lầm dễ mắt phải trong lúc đau thương không đủ sáng suốt. Con cháu
xếp hàng hai bên,nam trái nữ phải,con dâu,con gái, cháu gái ngồi dưới
đất,dâu trưởng ngồi hàng đầu,khi dâng cơm thì chính tay dâu trưởng xơi
cơm.
Văn tế thường viết mực đen trên vải hay vóc nhiễu trắng may thành bức
trướng dài rộng hai ba thước tây, căng lên khung để chết trươc mặt người
đọc những câu đối và những bài thơ điếu.
Sau lễ sơ ngu, người ta buôn 2 cánh màn trắng trước bàn thờ xuống và
dâng cơm. Lúc này con cháu phải quay đầu sang bên ngoài , tránh không
trông thẳng lên bàn thờ, vì người ta cho rằng làm như vậy để cho vong
linh hưởng kẻo trông thấy con cháu sẽ xúc động bi thương.
Trướng đối đọc xong người ta lại căng treo trên tường nhà thờ vong,
không đốt đi như văn tế thần, và bỏ hết đi sau lễ đại tường.
Sau lễ sơ ngu là tái ngu và tam ngu.Thông thường nhiều gia đình làm lễ
tái ngu ba ngày kế tiêp liền nhau.
25. Viếng mộ
Ba ngày sau khi chôn cất, con cháu mỗi buổi sớm phải đi viếng mộ.
26. Cúng 7 ngày
Sau 7 ngày, con cháu lại phải làm lễ cúng, người xưa quan niệm con
người có bảy lỗ( thất khiếu gồm hai mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi, mồm).
Khiếu cũng có nghĩa là 7 vía. Cúng 7 ngày là giải một vía.
27. Cúng 49 ngày
Cúng 49 ngày còn gọi là chung thất hết 7 tuần. 7 tuần tương đương với 7
cửa. Cúng bảy tuần là mong người chết yên hàn đi qua các cửa này dưới
cõi âm, con số 7 còn chỉ các ngôi sao như Mặt trăng, mặt trời, sao thủy,
sao hỏa, sao mộc, sao kim, sao thổ. Mỗi vị thần ấy có một cung, mỗi
cung gồm 7 bộ tức là 49 bộ đại diện cho lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái
của các vũ trụ và con người.
28. Cúng 100 ngày
Cúng 100 ngày còn gọi là Tốt khốc. Tốt là cuối cùng, khốc là khóc. Cúng
100 ngày thì thôi không khóc và không cúng cơm nữa. Người xưa quan
niệm ( chết không phải là hết mà là về cõi cực lạc. Nếu chưa về được cõi
ấy thì phải đầu thai qua kiếp khác. Người chết hồn đi lang thang nhưng
không tự kiếm ăn được nên phải cúng cơm 100 ngày
29. Tiểu tường
Còn gọi là giỗ đầu, được tổ chức một năm sau ngày người thân mất. Sau
lễ tiểu tường người thân được quyền bỏ hung phục như xô ga, gậy mấn
mũ rơm, nhưng vẫn phải mặc đồ tang, áo trắng vải xấu đã mặc tù lúc lễ
thành phục, con trai vẫn phải chít khăn ngang.
30. Đại tường
Còn được gọi là giỗ hết được tổ chức hai năm sau ngày người thân mất.
Đại tang đến đây được coi là hết. Sau lễ cúng đại tường linh hồn sẽ được
siêu thoát hoặc đầu thai thành kiếp khác. Theo phong tục dân gian phải
đợi sau 2 tháng nữa để chọn một ngày làm lễ trừ phục, nghĩa là bỏ hết đồ
tang, thời gian từ lễ đại tường đến lễ trừ phục khoảng 3 tháng, tục gọi là 3
tháng đờm.
31. Đốt mã
Ngày rằm tháng 7 đầu tiên sau tiểu tường, người ta thường làm lễ đốt mã
cho vong, đồ mã làm bằng giấy, giống hệt những đồ dùng hằng ngày như
áo, quần, khăn, yếm, giầy, dép, chăn, gối… thậm chí có cả mèo, chó,
ngựa, trâu.
32. Làm chay
Dân gian tin rằng những người chết bất đắc kì tử, chết đuối, chết do tai
nạn phần nhiều là do nghiệp chướng, bởi thế cần làm chay để giải oan,
cầu mong cho linh hồn được siêu thoát. Làm chay được tổ chức ở chùa
hay ở nhà, thông thường phải mất bảy đem mới xong.
33. Cải táng
Chôn lúc mới chết gọi là hung táng còn 3, 4, năm sau đem hài cốt táng
nơi khác gọi là cải táng. Người Việt vốn coi trọng đạo hiếu, luôn tin từ tổ
tiên, ông bà, cha mẹ đến mình có mối tương quan, hài cốt tiền nhân yên
lành, ấm cúng con cháu mới mạnh khỏe, làm ăn phát đạt. Do đó người ta
tin rằng người có đại tang gặp nhiều rủi ro làm việc gì cũng không thuận
lợi bởi lúc ấy thi thể cha mẹ đang bị rửa nát, hủy hoại tức có liên hệ với
con cháu cùng huyết mạch, vì vậy mà người xưa muốn tìm nơi đát tốt để
mồ mã ông bà ông bà, cha mẹ, nằm ở nơi quí địa để phù hộ cho con cháu
làm ăn phát đạt mạnh khỏe.
Muốn cải táng phải chọn ngày thích hợp không xung khắc với tuổi người
chết. Trước hôm cải táng phải làm lễ cáo vong và cáo gia tiên. Ngày cải
táng làm lễ khấn thổ thần nơi mã xin đào lên và cúng thổ thần nơi sắp
đêm chôn. Sau khi đào đất, cạy nắp quan tài người ta thu lượm từng cái
xương rửa sạch bằng nước thơm rồi bỏ vào tiểu gọi là sang tiểu. Ngày cải
táng con cháu đội khăn tang, mặc áo trắng… Sau khi cải cát mới được
rước bát hương về thần chủ sang thò chung gian giữa với tổ tiên.
34. Mộ phần
Thông thường mộ đắp tròn đất vuông cao trên mặt, đường kính rộng hơn
một thước tây. Nhà nào giàu có hơn thì xây mộ bằng gạch đá nỗi trên bề
mặt, ít khi xây bao bọc tiểu đựng hài cốt vì người ta cho rằng xây bịt kín,
không thông khí đất, xương không tốt không mát mẽ.
Nhìn chung mộ xây không theo một hình thức nhất định nào.
35. Một số trường hợp qua đời khác
– Đối với những người chết bất đắc kì tử ở dọc đường, chết do tai nạn xe cộ,
chết đuối… thì xác không được đưa về nhà va được chon ngay.
– Đối với những người chết trong những ngày tết thì lập tức tổ chức nghi lễ
an tang ngay trước giờ khắc giao thừa, nếu gấp quá không chuẩn bị kịp thì
lui lại đến mùng ba.
– Đối với những người chết vì bệnh dịch hoặc vì căn bệnh nguy hiểm thì
phải thực hiện khâm liệm ngay, không để lâu trong nhà và đưa đám vào ban
đêm. Những người này khi an tang phải đào nguyệt thật sâu, đổ vôi bột xung
quanh để tránh mầm bệnh và uế khí, giữ vệ sinh môi trường
– Đối với những người chết mất xác, đối với những người này, người ta vẫn
phải đóng quan tài cho người quá cố, người ta nhập quan chôn cất tượng
trưng.
– Đối với những người bị sét đánh: theo quan niệm dân gian đây là loại chết
không bình thường những thủ tục an tang cũng going như chết bình thường
nhưng có một điều là gia đình tang chủ rất sợ kẻ gian đào trộm nên phải
canh phòng cẩn thận tói 3 tháng.
36.Am chúng sinh
– Là nơi cúng viếng những người nằm trong mồ mả vô chủ, am này có một
bà đồng lo việc thờ cúng. Mỗi khi trong làng có đám tang, các tang chủ
thường có đồ lễ tới cúng nơi am. Để có tiền lo cho việc cúng trong am bà
đồng trông chờ vào sự từ tâm của người làng đồng thời bà còn lập một cái
nong nằm cạnh đường đi để quyên góp…
– Tại am chúng sinh vào ngày rằm và ngày đầu tháng hoặc vào các kì lễ bà
đồng đứng ra tổ chúc cúng các linh hồn gọi là cúng bách linh. Đồ lễ gồm
hương, hoa quả,.. nhưng đặc biệt là cháo hoa nấu bằng gạo, và cháo được
múc ra đổ vào những chiếc lá đa để các cô hồn ai ai cũng được hưởng.
– Vào tháng 7 dân làng nhân dịp xóa tội vong nhân thường tổ chức làm chay
taị am chúng sinh. Làm chay thường diễn ra trong hai hoặc hai ba ngày
nhưng cũng có nơi tổ chức đến 5 hoặc 7 ngày, và dân làng thiết lập đàn tràng
ngay tại cửa am. Trước khi cúng đàn chay có cuộc chiêu âm hồn gọi là rước
linh. Rước linh do một vị hòa thượng đi đầu cầm gậy tầm xích, theo sau vị
hòa thượng là các vải, khi đám rước đi hết bãi tha ma, vị hòa thượng mới
quay trở lại đàn. Lễ cúng lúc đó mới bắt đầu.
Đàn tràn chia làm 3 lớp. Lớp trên cùng là tượng phật. Đồ lễ là đồ chay gồm
hương, đèn, hoa quả. Lớp thứ 2 cúng bách linh đồ lễ có them đồ mặn như gà
vịt và cả lợn. Lớp thứ 3 ở ngoài cùng là đồ mã cúng cho các vong hồn và các
quan âm, có các hình nhân, voi, ngựa, thuyền bè.
– Lễ cúng bắt đầu bằng “ lễ phát tấu” tụng kinh cho các vong hồn chúng
sinh được siêu sinh tịnh độ, kinh được tụng suốt ngày đêm. Sáng ngày hôm
sau là “lễ dâng lục cúng”, sau đó là “ lễ cát đoạn” và các lễ “ phóng sinh thí
thực”. Sáng ngày thứ ba có lễ “chạy đàn phá ngục”. Sau đó vàng mã được
đem hóa.

KẾT LUẬN
Nhìn chung tang ma của người Việt mang màu sắc tâm linh rất rõ nét
nhưng vẫn giữ được sự cung kính, tình cảm, luyến tiếc giữa người ở lại
và người ra đi bên cạnh đó tang ma của người việt cũng thấy rõ tính cộng
đồng. Điều này thể hiện rất rõ ở những điểm sau:
+ Nhà có tang việc thì nhiều mà người nhà không đủ tỉnh táo minh mẫn
nữa, nên bà con hang xóm làng bao giờ cũng chạy tới giúp rập lo tang chỉ
bảo cho mọi việc, bên cạnh đó người Việt Nam còn quan niệm rằng “
Bán anh em xa mua láng giêng gần, nên khi nhà có người mất, hang xóm
láng giêng không những giúp đỡ mà còn để tang nhau “ Họ dương 3
tháng, láng giêng 3 ngày”.
+ Đến khi đưa linh cữu của người chết về thế giới bên kia thì bên cạnh
những người thân còn có hang xóm, láng giêng, đến đưa tiễn.
+ Tính cộng đồng còn thể hiện ở chỗ khi hang xóm có tang ma mà nhà
mình lại có việc vui ví dụ như đám cưới thì mọi việc phải tổ chức hết sức
tế nhị không được nhảy múa rền vang…

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lễ tang Việt Nam truyền thống và kế thừa, Trương Thìn. Nxb Hà
Nội, 2002.
2. Tục Tang ma, Phạm Minh Thảo. Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội,
2004.
3. Việt Nam Phong tục, Phan Kế Bính. Nxb Văn học, 2006.
4. 100 điều nên biết về phong tục việt nam, Tân Việt. Nxb Văn hóa
dân tộc Hà Nội, 2006.
5. Phong tục Việt Nam, Toan Ánh. Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
6 . http://google.com.vn

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *