BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI
LẠI QUANG PHƢƠNG
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH BÁO CÁO ADR
TRÊN BỆNH NHI TRONG CƠ SỞ DỮ LIỆU
QUỐC GIA VÀ TÌM HIỂU NHẬN THỨC,
THÁI ĐỘ CỦA CÁN BỘ Y TẾ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG CẢNH GIÁC DƢỢC TẠI
MỘT BỆNH VIỆN CHUYÊN KHOA NHI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƢỢC SĨ
Hà Nội – 2014
BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI
LẠI QUANG PHƢƠNG
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH BÁO CÁO ADR
TRÊN BỆNH NHI TRONG CƠ SỞ DỮ LIỆU
QUỐC GIA VÀ TÌM HIỂU NHẬN THỨC,
THÁI ĐỘ CỦA CÁN BỘ Y TẾ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG CẢNH GIÁC DƢỢC TẠI
MỘT BỆNH VIỆN CHUYÊN KHOA NHI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƢỢC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn:
1. TS. Nguyễn Hoàng Anh
2. DS. Vũ Hồng Ngọc
Nơi thực hiện:
1. Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc
và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc
2. Bệnh viện Nhi Trung ương
Hà Nội – 2014
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Hoàng Anh,
giảng viện bộ môn Dược lực, Phó giám đốc Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc
và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc – Người thầy luôn tận tâm hướng dẫn và dìu
dắt tôi qua từng bước đi quan trọng trong quá trình thực hiện khóa luận.
Tôi xin cảm ơn TS. Nguyễn Hồng Hà, Trưởng khoa Dược và DS. Vũ Hồng
Ngọc, cán bộ khoa Dược Bệnh viện Nhi Trung Ương đã góp ý, cung cấp tài liệu để
tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám đốc, các
khoa phòng chức năng, các bác sĩ lâm sàng Bệnh viện Nhi Trung Ương đã tạo điều
kiện triển khai và tích cực tham gia khảo sát về nhận thức và thái độ của cán bộ y tế
đối với hoạt động Cảnh giác Dược, một trong hai mục tiêu quan trọng của khóa luận
này.
Tôi xin cảm ơn DS. Trần Thúy Ngần – Chuyên viên Trung tâm Quốc gia về
Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc. Chị đã luôn quan tâm,
hướng dẫn và động viên tôi từ những bước đi đầu tiên để thực hiện khóa luận này.
Tôi xin cảm ơn toàn thể thầy cô trường Đại học Dược Hà Nội đã truyền đạt
những kiến thức và kỹ năng nghiên cứu khoa học quý báu cho tôi. Cảm ơn các anh,
chị ở Trung tâm Quốc Gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của
thuốc đã luôn nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè. Những người đã
luôn bên cạnh tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện khóa luận này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2014
Sinh Viên
Lại Quang Phƣơng
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………………………………………………
1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
………………………………………………………………………….
2
1.1. Trẻ em và những thay đổi về dƣợc động học và dƣợc lực học của thuốc …
2
1.1.1. Thay đổi dược động học của thuốc trên trẻ em …………………………………..
2
1.1.2. Thay đổi dược lực học của thuốc trên trẻ em ……………………………………..
5
1.2. Những tồn tại trong việc sử dụng thuốc trên trẻ em
……………………………….
5
1.2.1. Tình trạng thiếu dữ liệu về an toàn thuốc và sử dụng thuốc ngoài chỉ định
trên trẻ em ……………………………………………………………………………………………….
6
1.2.2. Thiếu dạng thuốc sử dụng cho trẻ em
………………………………………………..
6
1.2.3. ADR ghi nhận trên trẻ em trong lịch sử Y khoa và từ các nghiên cứu …..
7
1.3. Các phƣơng pháp giám sát ADR …………………………………………………………..
8
1.3.1. Phương pháp giám sát tích cực:
………………………………………………………..
8
1.3.2. Phương pháp giám sát thụ động ……………………………………………………….
9
1.4. Giám sát ADR trên trẻ em
…………………………………………………………………..
10
1.5. Vấn đề báo cáo thiếu (underreporting) trong hoạt động báo cáo ADR và
vai trò của nhận thức và thái độ của cán bộ y tế
…………………………………………
11
1.5.1. Vấn đề báo cáo thiếu (underreporting) trong hoạt động báo cáo ADR
…
11
1.5.2. Vai trò nhận thức và thái độ của cán bộ y tế trong hoạt động báo cáo
ADR …………………………………………………………………………………………………..
12
1.6. Giới thiệu về hoạt động báo cáo ADR tại Bệnh viện Nhi Trung Ƣơng …..
13
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ……………….
15
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
………………………………………………………………………….
15
2.1.1. Khảo sát tình hình báo cáo ADR trên bệnh nhi trong Cơ sở dữ liệu Quốc
gia giai đoạn 2010 – 2012………………………………………………………………………..
15
2.1.2. Tìm hiểu nhận thức, thái độ của cán bộ y tế đối với hoạt động Cảnh giác
Dược ở Bệnh viện Nhi Trung Ương
………………………………………………………….
15
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
…………………………………………………………………….
15
2.2.1. Khảo sát tình hình báo cáo ADR trên bệnh nhi trong Cơ sở dữ liệu Quốc
gia giai đoạn 2010 – 2012………………………………………………………………………..
15
2.2.2. Tìm hiểu nhận thức, thái độ của cán bộ y tế đối với hoạt động Cảnh giác
Dược ở Bệnh viện Nhi Trung Ương
………………………………………………………….
19
2.3. Xử lý số liệu
………………………………………………………………………………………..
20
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ
……………………………………………………………………………..
21
3.1. Tình hình báo cáo ADR trên bệnh nhi trong Cơ sở dữ liệu Quốc gia giai
đoạn 2010 – 2012 ………………………………………………………………………………………
21
3.1.1. Số lượng báo cáo ADR nhi và tỷ lệ báo cáo ADR nhi nghiêm trọng. ….
21
3.1.2. Phân loại báo cáo ADR theo đặc điểm bệnh nhân nhi ……………………….
22
3.1.3. Phân loại thuốc gây ADR theo nhóm thuốc ……………………………………..
23
3.1.4. Thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất ………………………….
24
3.1.5. Phân loại ADR theo tổ chức cơ thể bị ảnh hưởng (SOC)
……………………
25
3.1.6. Các cặp thuốc nghi ngờ – ADR được báo cáo nhiều nhất
………………….
26
3.1.7. Phân loại báo cáo ADR theo đối tượng báo cáo
………………………………..
29
3.1.8. Phân loại báo cáo ADR theo nơi báo cáo …………………………………………
29
3.2. Tìm hiểu nhận thức, thái độ của cán bộ y tế đối với hoạt động Cảnh giác
Dƣợc tại Bệnh viện Nhi Trung Ƣơng …………………………………………………………
31
3.2.1. Nhận thức của cán bộ y tế về ADR và tầm quan trọng của việc báo cáo
ADR …………………………………………………………………………………………………..
32
3.2.2. Nhận thức của cán bộ y tế về cách thực hiện báo cáo ADR
………………..
35
3.2.3. Thực trạng công tác báo cáo ADR tại bệnh viện
……………………………….
38
3.2.4. Các biện pháp được cán bộ y tế đề xuất để cải thiện hoạt động báo cáo
ADR …………………………………………………………………………………………………..
40
BÀN LUẬN ………………………………………………………………………………………………..
42
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT …………………………………………………………………………
48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC: BỘ CÂU HỎI
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
ADR
Phản ứng có hại của thuốc (Adverse drug reaction)
CEM
Theo dõi biến cố thuần tập (Cohort Event Monitoring)
EU
Liên minh châu Âu (European Union)
FDA
Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (U.S
Food and Drug Administration)
STT
Số thứ tự
WHO
Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
1
Bảng 3.1: Tỷ lệ báo cáo ADR nghiêm trọng qua từng năm
22
2
Bảng 3.2: Phân loại báo cáo ADR nhi theo nhóm tuổi và giới tính
22
3
Bảng 3.3: Tỷ lệ ADR nghiêm trọng trong từng nhóm thuốc
24
4
Bảng 3.4: 10 thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất
24
5
Bảng 3.5: Tỷ lệ ADR nghiêm trọng với mỗi tổ chức cơ thể bị ảnh hưởng
26
6
Bảng 3.6: 10 cặp thuốc – ADR được báo cáo nhiều nhất
27
7
Bảng 3.7: Cặp ADR nghiêm trọng – thuốc
28
8
Bảng 3.8: Phân loại báo cáo ADR theo nơi báo cáo
30
9
Bảng 3.9: Danh sách bệnh viện chuyên khoa và số báo cáo
30
10
Bảng 3.10: Tỷ lệ thu hồi bộ câu hỏi
31
11
Bảng 3.11: Đặc điểm nhân khẩu học của cán bộ y tế
31
12
Bảng 3.12: Nhận thức về độ an toàn thuốc
32
13
Bảng 3.13: Nhận thức về nguyên nhân gây ADR
33
14
Bảng 3.14: Nhận thức về khái niệm ADR
33
15
Bảng 3.15: Nhận thức về trách nhiệm báo cáo ADR
34
16
Bảng 3.16: Nhận thức về tầm quan trọng của báo cáo ADR
34
17
Bảng 3.17: Nhận thức về lý do báo cáo ADR là quan trọng
35
18
Bảng 3.18: Nhận thức về mẫu báo cáo ADR
36
19
Bảng 3.19: Nhận thức về nơi cung cấp mẫu báo cáo ADR
36
20
Bảng 3.20: Nhận thức về nơi nhận báo cáo ADR
37
21
Bảng 3.21: Thông tin tối thiểu khi điền báo cáo
38
22
Bảng 3.22: Tỷ lệ cán bộ y tế đã gặp/báo cáo ADR
38
23
Bảng 3.23: Các khó khăn khi thực hiện báo cáo ADR
39
24
Bảng 3.24: Các nguyên nhân không báo cáo ADR
40
25
Bảng 3.25: Biện pháp để cải thiện hoạt động báo cáo ADR
41
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT
Tên hình
Trang
1
Hình 3.1: Số lượng báo cáo ADR Nhi năm 2010 – 2012
21
2
Hình 3.2: Tỷ lệ các nhóm thuốc nghi ngờ được ghi nhận trong báo cáo
23
3
Hình 3.3: Tỷ lệ các tổ chức cơ thể bị ảnh hưởng
25
4
Hình 3.4: Tỷ lệ báo cáo theo đối tượng báo cáo
29
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ em là một đối tượng bệnh nhân đặc biệt. Độ an toàn của thuốc sử dụng
trên trẻ em là một mối quan tâm lớn của hoạt động Cảnh giác Dược. Trẻ em thường
không được lựa chọn đưa vào các thử nghiệm lâm sàng nên thông tin của phần lớn
các thuốc hiện có chủ yếu dựa trên kết quả từ các thử nghiệm tiến hành trên người
lớn. Dữ liệu về độ an toàn của thuốc trên trẻ em còn hạn chế, thiếu dạng thuốc sử
dụng chuyên biệt và việc sử dụng thuốc ngoài chỉ định là những vấn đề nổi bật còn
tồn tại trong sử dụng thuốc trên trẻ em. Đây cũng là những yếu tố làm tăng nguy cơ
dẫn đến phản ứng có hại của thuốc (ADR) trên đối tượng này [37], [68]. Kết quả
thống kê cho thấy tỷ lệ bệnh nhi nhập viện do ADR được ghi nhận lên tới 2% [17].
Để cải thiện tình trạng thiếu thông tin về hiệu quả và độ an toàn của thuốc
trên trẻ em, các nhà sản xuất dược phẩm được khuyến khích thực hiện các thử
nghiệm lâm sàng của thuốc trên bệnh nhi nếu thuốc đó thực sự cần thiết sử dụng
trên trẻ [37], [57]. Tuy nhiên, những nghiên cứu này có một số hạn chế như thời
gian tiến hành nghiên cứu ngắn, cỡ mẫu nhỏ và ít có nghiên cứu đánh giá về độ an
toàn của thuốc. Vì vậy, báo cáo ADR sau khi lưu hành trên thị trường vẫn tiếp tục là
nguồn dữ liệu chính cung cấp các dữ liệu về an toàn thuốc trong Nhi khoa [37]. Tuy
nhiên cần phải nhắc đến hạn chế lớn nhất gặp phải với báo cáo tự nguyện là tình
trạng báo cáo thấp hơn so với thực tế (underreporting) [35], [65]. Nhận thức và thái
độ của cán bộ y tế đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả hoạt động
báo cáo ADR [39], [47].
Trong bối cảnh đó, chúng tôi thực hiện đề tài “Khảo sát tình hình báo cáo
ADR trên bệnh nhi trong Cơ sở dữ liệu Quốc gia và tìm hiểu nhận thức, thái độ của
cán bộ y tế đối với hoạt động Cảnh giác Dược tại một bệnh viện chuyên khoa nhi”
với mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm báo cáo ADR trên đối tượng bệnh nhi ghi nhận trong Cơ
sở dữ liệu Quốc gia trong vòng ba năm 2010 – 2012.
2. Khảo sát nhận thức, thái độ của cán bộ y tế đối với hoạt động Cảnh giác
Dược tại một bệnh viện chuyên khoa nhi là Bệnh viện Nhi Trung Ương.
2
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
Có hai hướng tiếp cận trong thực hành lâm sàng được cho là tốt cho trẻ em
nhưng lại dẫn đến những hậu quả không mong muốn. Thứ nhất là sử dụng cho trẻ
em những loại thuốc dành cho người lớn với suy nghĩ bất kỳ thuốc nào sử dụng điều
trị cho người lớn đều có thể sử dụng cho trẻ em với các điều kiện tương tự ngay cả
khi không có nghiên cứu về việc dùng thuốc trên trẻ em, không có cơ sở khoa học
để thiết lập chế độ liều ngoài việc hiệu chỉnh liều dựa trên cân nặng và không có
thông tin về sự khác nhau về đáp ứng giữa trẻ em và người lớn với thuốc. Thứ hai là
bảo vệ trẻ em quá mức trước những tình huống không rõ ràng và chắc chắn. Điều
này dẫn tới việc không tuyển chọn trẻ vào các nghiên cứu mặc dù những nghiên cứu
này có thể giúp cải thiện việc điều trị trên bệnh nhi. Trên thực tế, việc sử dụng thuốc
trên trẻ em với những hiểu biết không đầy đủ đã gây ra nhiều bi kịch trong điều trị
[37].
1.1. Trẻ em và những thay đổi về dƣợc động học và dƣợc lực học của thuốc
Trọng lượng, cấu tạo và sự hoàn thiện các cơ quan bài tiết thuốc trong cơ thể
có ảnh hưởng lớn đến quá trình dược động học của trẻ em. Việc dự đoán ảnh hưởng
của quá trình phát triển và hoàn thiện của trẻ đến dược lực học của thuốc gặp nhiều
khó khăn do những dữ liệu về thay đổi liên quan giữa độ tuổi và thụ thể của thuốc
hiện còn rất hạn chế [23].
1.1.1. Thay đổi dƣợc động học của thuốc trên trẻ em
a. Hấp thu thuốc
Đường uống
– PH dạ dày của trẻ cao do lượng acid clohydric chưa được bài tiết đầy đủ
[4], [9], [30], [52], [55]. Chỉ sau 1 tuổi, lượng acid dạ dày mới tăng lên và dần đạt
mức tương đương người lớn. Do đó, các thuốc uống không bền trong môi trường
acid như kháng sinh β-lactam cần dùng liều thấp hơn; trong khi các thuốc acid yếu
như phenobarbital và phenytoin cần liều cao hơn khi sử dụng trên trẻ nhỏ [57].
– Thời gian tháo rỗng dạ dày của trẻ kéo dài hơn nên các thuốc hấp thu chủ
yếu ở dạ dày có thể có mức độ hấp thu lớn hơn so với dự đoán và các thuốc hấp thu
3
ở ruột non có thể không đạt được hiệu quả điều trị [23]. Sau từ 6-8 tháng, thời gian
tháo rỗng dạ dày của trẻ đạt mức gần giống với người lớn [52], [55].
– Nhu động ruột của trẻ nhỏ mạnh hơn nên làm giảm thời gian lưu thuốc tại
ruột và ảnh hưởng đến khả năng hấp thu các thuốc tác dụng kéo dài [4].
Đường tiêm bắp
Hấp thu thuốc sau khi tiêm bắp phụ thuộc vào khối lượng cơ và lưu lượng
máu đến tổ chức bắp thịt [23]. Trẻ nhỏ có khối lượng cơ bắp thấp nên hấp thu thuốc
có nhiều bất thường và khó dự đoán. Trong trường hợp việc tưới máu được đột ngột
cải thiện, lượng thuốc vào vòng tuần hoàn có thể tăng cao đột ngột và tăng độc tính
của thuốc. Điều này đặc biệt nguy hiểm khi sử dụng các thuốc như glycosid tim,
kháng sinh aminoglycosid và thuốc chống co giật [23]. Đường tiêm bắp có thể gây
đau và khó tính toán sinh khả dụng để xác định liều chính xác [4].
Đưa thuốc qua da
Da của trẻ em mỏng nên có khả năng hấp thu thuốc cao hơn so với người lớn
và có thể làm tăng nguy cơ gặp ADR. Một số chế phẩm bôi ngoài da chứa prilocain
và lidocain được khuyến cáo không sử dụng trên trẻ sinh thiếu tháng do prilocain có
thể được hấp thu đáng kể và gây methemoglobin. Corticoid dạng bôi ngoài da hay
nhỏ mũi cần sử dụng thận trọng trên trẻ em do có thể được hấp thu tương đương
như khi sử dụng đường toàn thân và gây hội chứng Cushing [4].
b. Phân bố thuốc
Trẻ sơ sinh có 70-75% trọng lượng cơ thể là nước, trong đó 40% là dịch
ngoại bào so với tỷ lệ tương ứng ở người lớn là 50-60% và 20% [23], [52]. Tổng
lượng nước trong cơ thể và tỷ lệ dịch ngoại bào so với trọng lượng cơ thể giảm dần
theo độ tuổi. Các thuốc có hệ số lipid/nước lớn có thể tích phân bố ít khác biệt giữa
trẻ nhỏ và người lớn trong khi các thuốc tan nhiều trong nước có sự khác biệt rõ rệt
[4]. Do đó, để đạt được nồng độ tương đương trong huyết tương, các thuốc tan
nhiều trong nước như aminoglycosid khi sử dụng trên trẻ nhỏ cần liều (tính theo
mg/kg cân nặng) cao hơn [4].
4
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến phân bố thuốc là liên kết thuốc-protein huyết
tương. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có nồng độ albumin và α1 acid glycoprotein thấp hơn
so với người lớn nên có liên kết của nhiều loại thuốc với các protein này giảm như
thuốc tê, diazepam, phenytoin, ampicilin và phenobarbital. Nồng độ thuốc tự do
tăng có thể làm tăng tác dụng cũng như tăng độc tính của thuốc [23]. Đến sau 1
tuổi, nồng độ protein huyết tương của trẻ đạt mức của người lớn [52].
Sự liên kết của thuốc với các mô khác nhau của cơ thể thay đổi theo độ tuổi.
Ví dụ, digoxin liên kết với hồng cầu ở trẻ sơ sinh cao hơn so với người lớn có thể
do số lượng vị trí liên kết ở hồng cầu cao hơn ở trẻ sơ sinh [52].
c. Chuyển hóa thuốc
Gan là cơ quan chính thực hiện chức năng chuyển hóa thuốc. Hầu hết các
thuốc được chuyển hóa tại gan từ các chất thân lipid thành các hợp chất phân cực
hơn và dễ bị thải trừ qua thận [52]. Do hệ enzym ở trẻ nhỏ chưa hoàn thiện nên tốc
độ chuyển hóa thuốc của trẻ nhỏ, đặc biệt trẻ sơ sinh yếu hơn rõ rệt so với người lớn
dẫn đến thời gian bán thải của thuốc kéo dài hơn [4], [68]. Sự hoàn thiện các hệ
enzym theo lứa tuổi có sự dao động mạnh và chưa có dữ liệu nghiên cứu đầy đủ về
quy luật này [4].
Ngoài ra, đối với một số thuốc, con đường chuyển hóa thứ yếu ở người lớn
lại đóng vai trò là con đường chuyển hóa chủ yếu ở trẻ em để bù trừ cho sự thiếu
hụt các con đường chuyển hóa khác. Ví dụ, paracetamol được chuyển hóa ở người
lớn chủ yếu qua con đường glucuronid hóa nhưng do thiếu enzym này nên thuốc
được chuyển hóa chủ yếu theo con đường liên hợp với sulfat ở trẻ em [4], [55].
d. Thải trừ thuốc qua thận
Con đường chính thải trừ thuốc ra khỏi cơ thể là thận [4], [52]. Ở trẻ sơ sinh,
cấu tạo và chức năng của thận chưa hoàn chỉnh nên khả năng bài tiết của thận hạn
chế [30]. Trẻ sơ sinh dưới 1 tuần tuổi đòi hỏi khoảng thời gian dùng thuốc kéo dài
hơn [55]. Khả năng lọc cầu thận của trẻ dưới 6 tháng tuổi kém hơn so với người lớn
nhưng có thể bù trừ do quá trình tái hấp thu tại ống thận cũng giảm sút rõ rệt. Cần
đặc biệt lưu ý khi sử dụng những thuốc có phạm vi điều trị hẹp trên trẻ em để tránh
5
quá liều và cần kéo dài khoảng cách đưa thuốc để thận kịp đào thải thuốc, tránh
hiện tượng tích lũy thuốc. Thông thường, sau 8 tháng tuổi, chức năng bài tiết của
thận của trẻ sẽ đạt được mức của người lớn [4].
1.1.2. Thay đổi dƣợc lực học của thuốc trên trẻ em
Những dữ liệu về thay đổi dược lực học của thuốc trên trẻ em trong quá trình
phát triển hiện còn rất hạn chế [68]. Dược động học và dược lực học có mối liên
quan lẫn nhau như sự thay đổi về liên kết protein huyết tương hay khả năng thâm
nhập mô có thể dẫn đến sự thay đổi nồng độ thuốc dẫn đến thay đổi đáp ứng của cơ
thể với thuốc [55]. Sự phát triển và hoàn thiện các cơ quan trong cơ thể và số lượng
receptor có sự thay đổi lớn theo độ tuổi và có ảnh hưởng đến sự đáp ứng của cơ thể
với thuốc. Ví dụ, ở trẻ nhỏ các receptor opioid phát triển nhiều tại tủy xương và cầu
não là những nơi có trung tâm hô hấp và tim mạch so với các phần khác của não bộ.
Kết quả quan sát lâm sàng cho thấy tỷ lệ cao suy hô hấp và chậm nhịp tim ở những
trẻ sơ sinh sử dụng opioid để giảm đau [68].
Một ví dụ khác liên quan đến sự khác biệt dược lực học trong quá trình phát
triển là đáp ứng cao hơn với thuốc ức chế miễn dịch ciclosporin ở trẻ sơ sinh. Nồng
độ thuốc sử dụng trên trẻ sơ sinh tại đó ức chế 50% bạch cầu đơn nhân máu ngoại vi
chỉ bằng một nửa so với người lớn. Cơ chế chính xác để giải thích cho hiện tượng
này còn chưa được biết rõ [68]. Trẻ em đặc biệt nhạy cảm với một số thuốc và tình
trạng ngộ độc đã được ghi nhận như phản ứng rối loạn trương lực cơ cấp tính hoặc
co giật liên quan đến việc sử dụng metoclopramid và pronclorperazin (thuốc đối
kháng dopamin 2); phản ứng tăng thân nhiệt quá mức với thuốc kháng cholinergic
như atropin, scopolamin và tăng nguy cơ ngừng tim đột ngột đã được ghi nhận ở trẻ
mắc loạn nhịp nhanh trên thất được điều trị bằng verapamil [68].
1.2. Những tồn tại trong việc sử dụng thuốc trên trẻ em
Trẻ em thường không được lựa chọn là đối tượng của các thử nghiệm lâm
sàng. Do đó, nhiều thuốc có rất ít thông tin về hiệu quả và độ an toàn trên trẻ em
nhưng đã được sử dụng rộng rãi trong Nhi khoa. Dữ liệu về độ an toàn của thuốc
còn hạn chế, thiếu các nghiên cứu trên đối tượng này, thiếu dạng thuốc sử dụng
6
chuyên biệt và việc sử dụng thuốc ngoài chỉ định (off-label) là những vấn đề nổi bật
còn tồn tại về vấn đề sử dụng thuốc trên trẻ em [37], [68].
1.2.1. Tình trạng thiếu dữ liệu về an toàn thuốc và sử dụng thuốc ngoài chỉ
định trên trẻ em
Không phải loại thuốc nào hiện được sử dụng trên trẻ em đều đã được tiến
hành thử nghiệm trên đối tượng này và có đầy đủ thông tin về hiệu quả cũng như độ
an toàn của thuốc. Việc dùng thuốc cho trẻ em trong trường hợp này được gọi là
dùng thuốc ngoài chỉ định được cấp phép, bao gồm việc kê đơn với liều lượng, cách
dùng và chỉ định khác với mô tả trong tờ hướng dẫn sử dụng [17], [57], [68]. Tình
trạng sử dụng thuốc ngoài chỉ định cho trẻ em diễn ra phổ biến là hậu quả của việc
cán bộ y tế đưa ra quyết định sử dụng thuốc dựa trên kinh nghiệm, ý kiến của
chuyên gia hay suy luận dược lý khi thiếu thông tin về giới hạn liều dùng theo độ
tuổi và các tác dụng bất lợi có thể gặp phải khi sử dụng thuốc [17], [44], [68].
Một số biện pháp đã được đưa ra để cải thiện tình hình sử dụng thuốc ngoài
chỉ định trên trẻ em bao gồm khuyến khích các nhà sản xuất dược phẩm thực hiện
thêm các thử nghiệm lâm sàng [37], [57]. Tổ chức Y tế Thế giới cũng đang tập
trung thiết lập hướng tiếp cận tốt hơn đối với các thuốc cho trẻ em tại các quốc gia
đang phát triển [57]. Tuy đã có thêm những nghiên cứu được tiến hành trên đối
tượng trẻ em trong thời gian gần đây, những nghiên cứu này có một số hạn chế như
thời gian tiến hành ngắn, cỡ mẫu nhỏ và ít đánh giá độ an toàn của thuốc. Do đó,
báo cáo ADR sau khi lưu hành trên thị trường hiện vẫn tiếp tục là nguồn chính cung
cấp các dữ liệu về an toàn thuốc trong Nhi khoa [37].
1.2.2. Thiếu dạng thuốc sử dụng cho trẻ em
Công thức bào chế phù hợp luôn là một vấn đề khó khăn trong sản xuất
thuốc cho trẻ em. Thuốc dành cho trẻ em cần sử dụng các loại tá dược đặc biệt để
hòa tan dược chất rắn thành dạng thuốc lỏng, chất bảo quản để ổn định hay các chất
tạo ngọt và che giấu mùi vị khó chịu của dược chất. Điều này làm cho việc tạo ra
công thức bào chế thuốc dành riêng cho trẻ em thường tốn kém và gây nhiều khó
khăn cho nhà sản xuất. Ngoài ra, các thuốc dạng lỏng thường khó bảo quản hơn các
7
dạng thuốc rắn và có tuổi thọ ngắn hơn [37]. Do thiếu các thuốc dành riêng cho trẻ
nhỏ, dược sĩ, nhân viên y tế chăm sóc trẻ và cha mẹ đôi khi tự tạo ra các chế phẩm
thuốc sử dụng cho trẻ mà không có thông tin về sinh khả dụng, tương tác thuốc –
thức ăn hoặc với chất lỏng sử dụng để pha chế [37], [57], [68]. Một số dạng bào chế
rắn phù hợp cho bệnh nhân nhi cũng đã được phát triển như dạng bột, dạng hạt cốm.
Tuy nhiên, những dạng thuốc này không phải lúc nào cũng sẵn có với mọi loại
thuốc sử dụng trên trẻ em. Một nghiên cứu tại Úc cho thấy 22-27% thuốc chỉ định
cho bệnh nhân nhi thiếu dạng bào chế phù hợp [62]. Trong một số trường hợp, việc
sử dụng cho trẻ em những thuốc của người lớn bằng cách pha loãng thuốc dạng
dung dịch, bẻ nhỏ hoặc nghiền nát thuốc dạng rắn để sử dụng với lượng nhỏ hoặc
dùng cùng thực phẩm có thể dẫn đến các sai sót về đường dùng, tốc độ tiêm truyền,
sai sót trong việc tính toán liều và pha loãng. Đối với một số dạng thuốc rắn, việc bẻ
nhỏ hoặc nghiền nát có thể gây phá hủy cấu trúc của chế phẩm ảnh hưởng đến việc
giải phóng hoạt chất và điều trị cho bệnh nhi [68].
Ngoài ra, trong các chế phẩm thương mại của thuốc ngoài dược chất chính
còn chứa các tá dược như chất bảo quản, dung môi hòa tan… Mặc dù hầu hết các tá
dược không gây ảnh hưởng đến người dùng, đặc biệt người lớn nhưng ADR liên
quan đến một số tá dược đã được ghi nhận trên trẻ em [55]. Năm 1937, elixir chứa
sulphanilamid sử dụng dung môi diethylen glycol đã gây tử vong trên 100 bệnh
nhân tại Mỹ, phần lớn trong đó là trẻ em [29]. Dung môi này tiếp tục gây bùng phát
các ca tử vong ở trẻ em điều trị bằng xiro chứa paracetamol tại Nam Phi năm 1967
[13], tại Bangladesh năm 1990 [32], Ấn Độ năm 1998 [56] và tại Nigeria năm 1990
[46] và năm 2008 [12].
1.2.3. ADR ghi nhận trên trẻ em trong lịch sử Y khoa và từ các nghiên cứu
Năm 1959, hội chứng xanh xám dẫn đến tử vong liên quan đến việc dùng
liều cao cloramphenicol trên trẻ sơ sinh đã được mô tả với các biểu hiện nôn mửa,
suy hô hấp, chướng bụng, tiêu chảy, hạ thân nhiệt, xanh tái thậm chí gây tử vong
[15], [23]. Trẻ sơ sinh có thể tích lũy cloramphenicol với nồng độ rất cao trong mô
do chức năng của chuyển hóa thuốc theo con đường liên hợp của gan còn kém [55].
8
Năm 1961, dị tật phát triển chi được phát hiện trên trẻ sơ sinh của các bà mẹ
dùng thalidomid để điều trị buồn nôn và mất ngủ trong thai kỳ. Thalidomid sau đó
đã bị rút khỏi thị trường [41].
Năm 1979, acid valproic được ghi nhận gây nhiễm độc gan dẫn đến hậu quả
tử vong trên nhiều trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ dưới 3 tuổi [20], [21].
Năm 1980, hội chứng Reye’s liên quan đến salicylat đã được ghi nhận và
thuốc này không còn được sử dụng để giảm đau, hạ sốt trên trẻ em [59].
Năm 2004, Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA)
khuyến cáo việc sử dụng các thuốc chống trầm cảm có thể làm tăng nguy cơ tự tử
trên người trẻ tuổi [26].
Năm 2007, FDA cảnh báo về nguy cơ tim mạch của các thuốc điều trị chứng
tăng động giảm chú ý [27].
Trong năm 2010, các báo cáo về chứng ngủ lịm trên trẻ sau khi tiêm vaccin
phòng virus cúm H1N1 Pandemrix gia tăng tại các nước Scandinavian. Mối liên
quan giữa biến cố và thuốc này gần đây đã được xác nhận trong một nghiên cứu
được công bố tại Phần Lan [49].
Các ADR trên trẻ em đã được ghi nhận trong các nghiên cứu với tỷ lệ đáng
chú ý. Một nghiên cứu quan sát tiến cứu tại Anh cho thấy ADR là nguyên nhân gây
nhập viện trên 2,9% số bệnh nhân nhi, trong đó 17,7% được ghi nhận là sử dụng
thuốc ngoài cộng đồng và 82,3% sử dụng thuốc trong bệnh viện [28]. Tổng quan hệ
thống từ sáu nghiên cứu tiến cứu trên trên bệnh nhân nhi cho thấy 1,8% số trường
hợp trẻ nhập viện do nguyên nhân gặp phải ADR và 10,9% số trẻ em nhập viện gặp
ADR [17].
1.3. Các phƣơng pháp giám sát ADR
Các phương pháp Cảnh giác Dược được sử dụng để giám sát và thu thập
ADR bao gồm phương pháp giám sát tích cực và giám sát thụ động:
1.3.1. Phƣơng pháp giám sát tích cực:
Giám sát tích cực (giám sát chủ động) bao gồm việc thu thập, phân tích, giải
thích và công bố các dữ liệu liên quan đến một hoặc nhiều ADR bằng cách sử dụng
9
các phương pháp quan sát [74]. Việc theo dõi bệnh nhân được tiến hành chủ động
và tất cả các biến cố có hại do thuốc xảy ra ngay sau khi bắt đầu điều trị đều được
báo cáo một cách thường xuyên và định kì [25], [60], [69]. Giám sát tích cực được
thực hiện dưới nhiều hình thức bao gồm Theo dõi biến cố thuần tập (Cohort Event
Monitoring – CEM), Giám sát trọng điểm (Sentinel Surveillance), Hồ sơ đăng kí
(Registry).
– Theo dõi biến cố thuần tập: Theo dõi biến cố thuần tập là một nghiên cứu
thuần tập tiến cứu theo dõi các ADR liên quan đến một hoặc nhiều thuốc. Quy trình
cơ bản của CEM bao gồm: thiết lập một nhóm thuần tập các bệnh nhân phơi nhiễm
với mỗi loại thuốc hoặc phác đồ điều trị, sau đó ghi lại tất cả các biến cố có hại xảy
ra trên nhóm bệnh nhân thuần tập trong một khoảng thời gian xác định. Tất cả các
biến cố có hại xảy ra trong quá trình sử dụng thuốc sẽ được thu thập, bất kể biến cố
đó có liên quan tới thuốc hay không [69].
– Giám sát trọng điểm: Giám sát trọng điểm có thể được định nghĩa là “việc
thu nhận và phân tích dữ liệu bằng cách lựa chọn các cơ sở theo khu vực địa lý, đặc
điểm về y tế và khả năng báo cáo các dữ liệu chất lượng cao” [73]. Quy trình của
giám sát trọng điểm cũng tương tự như CEM. Tuy nhiên, bệnh nhân trong giám sát
trọng điểm được thu thập từ các cơ sở điều trị trọng điểm được lựa chọn đại diện
cho cả nước [69].
– Hồ sơ đăng kí: Phương pháp hồ sơ đăng kí theo dõi bệnh nhân có cùng
những đặc tính tương tự nhau. Đặc tính này có thể là một bệnh (hồ sơ đăng kí
bệnh), hoặc một phơi nhiễm cụ thể (hồ sơ đăng kí thuốc) [25]. Hồ sơ đăng kí đặc
biệt hữu ích cho các nghiên cứu về những tác động dài hạn của thuốc, bệnh hiếm
hoặc phơi nhiễm hiếm [65].
1.3.2. Phƣơng pháp giám sát thụ động
Báo cáo tự nguyện là hình thức phổ biến của phương pháp giám sát thụ
động. Báo cáo tự nguyện được định nghĩa là “hệ thống thu thập các báo cáo về
ADR, được các cán bộ y tế cũng như các công ty sản xuất kinh doanh dược phẩm
báo cáo một cách tự nguyện về cơ quan có thẩm quyền quản lý về các ADR” [65].
10
Báo cáo tự nguyện đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các tín hiệu
an toàn của một thuốc sau khi được đưa ra thị trường.
Ưu điểm của báo cáo tự nguyện:
– Cơ cấu đơn giản, chi phí thực hiện thấp nên được sử dụng phổ biến nhất
trong hoạt động giám sát ADR [69].
– Phạm vi áp dụng rộng rãi với tất cả các thuốc ở mọi thời điểm, với số lượng
dân số lớn, không phân biệt đối tượng bệnh nhân [65].
– Có khả năng phát hiện nhanh những nghi ngờ lâm sàng mà có thể chưa
được ghi nhận, do đó hỗ trợ tốt cho hệ thống cảnh báo sớm [65].
Hạn chế của báo cáo tự nguyện:
– Tình trạng báo cáo thấp hơn so với thực tế (underreporting) do khó kiểm
soát về số lượng báo cáo, báo cáo thiếu dữ liệu và thiếu chính xác [65].
– Không lượng giá được tỷ lệ mắc phải ADR và đo lường các yếu tố nguy cơ
liên quan tới ADR [65], [69].
– Chỉ báo cáo những ADR đã biết hoặc nghi ngờ. Hiện tượng này gây khó
khăn trong việc phát hiện và hình thành giả thuyết về các nguy cơ an toàn một cách
đầy đủ và toàn diện [65].
1.4. Giám sát ADR trên trẻ em
Trẻ em là đối tượng đặc biệt và thường ít được đưa vào các nghiên cứu theo
dõi độ an toàn của thuốc; do đó, báo cáo tự nguyện hiện vẫn là nguồn cung cấp dữ
liệu chính về độ an toàn của thuốc trên đối tượng này [16], [42], [54]. Ngoài những
đặc điểm chung của hình thức báo cáo tự nguyện, do một số đặc điểm đặc biệt về
việc sử dụng thuốc, báo cáo tự nguyện trên đối tượng bệnh nhân nhi còn có thêm
một số hạn chế như sau [37]:
– Các ADR do việc sử dụng thuốc ngoài chỉ định hoặc không được cấp phép
rất ít được các cán bộ y tế báo cáo.
– Trẻ em thường được sử dụng phối hợp nhiều thuốc, trong đó nhiều thuốc
được sử dụng ngoài chỉ định hoặc không được cấp phép. Điều này gây khó khăn
cho việc phát hiện và báo cáo ADR của cán bộ y tế.
11
– Các ADR của trẻ sơ sinh do việc sử dụng thuốc của người mẹ trong giai
đoạn mang thai hoặc cho con bú có thể không được báo cáo đầy đủ do không thu
thập được dữ liệu về việc sử dụng thuốc của người mẹ trước đó.
– Những ADR cần có nhiều thời gian để theo dõi như ADR trên quá trình
phát triển nhận thức và thể chất chưa được quan tâm đầy đủ. Cán bộ y tế ít có điều
kiện để theo dõi, phát hiện và báo cáo những ADR này.
– Trẻ nhỏ không có khả năng tự phát hiện và mô tả triệu chứng gặp phải.
Việc theo dõi và phát hiện ADR trên trẻ phụ thuộc rất nhiều vào người chăm sóc và
cán bộ y tế gây cản trở cho việc phát hiện và báo cáo ADR trên trẻ em.
1.5. Vấn đề báo cáo thiếu (underreporting) trong hoạt động báo cáo ADR và
vai trò của nhận thức và thái độ của cán bộ y tế
1.5.1. Vấn đề báo cáo thiếu (underreporting) trong hoạt động báo cáo ADR
Tình trạng báo cáo thiếu là một trong những hạn chế lớn nhất của báo cáo tự
nguyện với tỷ lệ báo cáo thiếu ước tính lên tới 90-95% [35], [71].
a. Tình trạng báo cáo thiếu trong thực hành thực tế
Bệnh nhân thường phát hiện ra những bất thường sau khi sử dụng thuốc
trước cán bộ y tế; tuy nhiên, do thiếu những kiến thức y khoa, tỷ lệ báo cáo ADR từ
bệnh nhân thấp hơn so với từ cán bộ y tế. Trong một khảo sát tại Hà Lan tiến hành
thông qua bộ câu hỏi được phát đến cho tất cả các bác sỹ và bệnh nhân của họ cho
thấy 86% số bác sỹ báo cáo ADR so với tỷ lệ này ở bệnh nhân là 70% [48].
Tuy nhiên, số ADR được cán bộ y tế báo cáo vẫn thấp hơn nhiều so với thực
tế. Kết quả một nghiên cứu tại Pháp đưa ra hệ số báo cáo thiếu là 24 433, nghĩa là
chỉ một trong số mỗi 24 433 ADR được báo cáo đến trung tâm Cảnh giác Dược
[43]. Trong một nghiên cứu tại Anh, tỷ lệ ADR được báo cáo ghi nhận là 6% [40].
b. Những nguyên nhân gây tình trạng báo cáo thiếu
Nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng báo cáo thiếu đã được ghi nhận, trong
đó được biết đến nhiều là 7 lý do do Inman liệt kê mà được gọi là “7 tội lỗi chết
người” bao gồm [38]:
– Thiếu hiểu biết về sự cần thiết của việc báo cáo.
12
– Thiếu tự tin báo cáo khi mới chỉ nghi ngờ.
– Không quan tâm đến đóng góp chung cho việc nâng cao nhận thức.
– Niềm tin sai lầm rằng chỉ có thuốc an toàn mới được cấp phép.
– Lo sợ (ví dụ: kiện tụng).
– Tham vọng thu thập và công bố một loạt case cho mục đích công bố cá
nhân.
– Cảm giác tội lỗi vì đã gây ra một ảnh hưởng xấu.
Ngoài ra nhiều lý do khác như ADR được biết quá rõ hoặc không đáng để
báo cáo, thiếu mẫu báo cáo, không có thời gian, không biết cách báo cáo, không
chắc chắn mối quan hệ nhân quả, hệ thống báo cáo không thuận lợi… cũng được
xác định trong các nghiên cứu [34], [51], [64].
1.5.2. Vai trò nhận thức và thái độ của cán bộ y tế trong hoạt động báo cáo
ADR
Cán bộ y tế là đối tượng chính quyết định hiệu quả của hoạt động Cảnh giác
Dược nói chung và hoạt động báo cáo ADR nói riêng. Trong đó, các đối tượng cán
bộ khác nhau tham gia với các mức độ khác nhau vào các hoạt động này. Tại Mỹ,
68% báo cáo ADR nghiêm trọng được gửi bởi dược sĩ [8]. Tại Hà Lan, 40% báo
cáo ADR đến từ các dược sĩ hiệu thuốc cộng đồng, nội dung các báo cáo này
thường tập trung trên các ADR dễ phát hiện, chất lượng báo cáo thấp hơn không
đáng kể so với chất lượng báo cáo của bác sĩ [63]. Còn tại Việt Nam, 60-68% số
báo cáo ADR được gửi bởi bác sĩ, báo cáo từ dược sĩ chỉ chiếm khoảng 11,3-16,2%
[5], [6].
Trong các nguyên nhân gây báo cáo thiếu, một trong những nguyên nhân
được nhắc đến thường xuyên nhất và có ảnh hưởng lớn nhất là hạn chế về nhận thức
và thái độ của cán bộ y tế [39], [47]. Cán bộ y tế chưa tích cực tham gia vào hệ
thống báo cáo ADR tự nguyện với nhiều nguyên nhân như: sự thờ ơ, thiếu quan tâm
với báo cáo ADR kể cả khi gặp ADR nghiêm trọng, chưa có thói quen báo cáo
ADR, tâm lý e ngại bị liên lụy hoặc quy kết trách nhiệm vì việc báo cáo của mình
và vì vi phạm tính bảo mật bệnh án của bệnh nhân [10], [14], [33].
13
Nhận thức của cán bộ y tế về tầm quan trọng và phạm vi của Cảnh giác Dược
còn hạn chế. Tại nhiều quốc gia, công tác đào tạo, tập huấn về Cảnh giác Dược vẫn
chưa được triển khai rộng khắp dẫn đến các hạn chế trong nhận thức của cán bộ y
tế. Nhiều nơi cán bộ y tế thiếu kiến thức về việc báo cáo ADR như không biết viết
báo cáo ADR như thế nào và nộp báo cáo ADR ở đâu [10], [33], [50]. Một nghiên
cứu tiến hành tại Canada đã tổng kết những trở ngại lớn nhất của việc báo cáo ADR
bao gồm các cán bộ y tế coi Cảnh giác Dược là việc siêu tưởng, phi hiện thực, coi
cơ quan quản lý báo cáo là xa vời và họ cũng không chắc chắn về thẩm quyền của
mình trong việc báo cáo ADR [45]. Nhiều cán bộ y tế quan niệm ADR của thuốc đã
được nghiên cứu đầy đủ trước khi thuốc được đưa vào thị trường và cho rằng chỉ
nên báo cáo ADR nếu chắc chắn rằng biến cố đó liên quan đến việc sử dụng thuốc
[36]. Rào cản của việc báo cáo ADR có thể là sự thiếu tự tin, lo lắng việc báo cáo có
vẻ sẽ vô lý khi chỉ là nghi ngờ một trường hợp ADR hoặc khi mối quan hệ nhân quả
giữa thuốc và biến cố có hại là khó xác định [50]. Cán bộ y tế cũng có thể lo ngại
rằng nếu chỉ báo cáo một ca đơn lẻ sẽ không thể đóng góp gì cho kiến thức y học,
hay một số người có tham vọng giữ thông tin và đăng tải một chùm ca về ADR cho
cá nhân mình [10], [25].
1.6. Giới thiệu về hoạt động báo cáo ADR tại Bệnh viện Nhi Trung Ƣơng
Bệnh viện Nhi Trung Ương được thành lập từ năm 1969 với tên gọi là Viện
Bảo vệ Sức khoẻ Trẻ em, năm 1997 được đổi tên là Viện Nhi, tên gọi hiện nay có
quyết định chính thức vào tháng 06 năm 2003. Trong khoảng giữa các giai đoạn
trên, Viện còn có các tên gọi không chính thức là Bệnh viện Nhi Việt Nam – Thuỵ
Điển và Viện Nhi Olof Palmer [72].
Bệnh viện Nhi Trung Ương là một bệnh viện chuyên khoa nhi tuyến cuối có
quy mô 1200 giường bệnh với khoảng 50 000 bệnh nhân nội trú mỗi năm. Bệnh
viện có 30 khoa lâm sàng, 11 khoa cận lâm sàng và 1 viện trực thuộc. Bệnh viện có
nhiều hoạt động nghiên cứu khoa học sáng tạo, dám nghĩ dám làm, đã phẫu thuật và
điều trị thành công nhiều trường hợp khó và phức tạp như mổ tách các cặp song
14
sinh, ghép thận, ghép tủy xương, phẫu thuật tim hở, phẫu thuật cong vẹo cột sống
bẩm sinh… cho trẻ em [72].
Nằm trong khoa Dược của bệnh viện, tổ Dược lâm sàng không chỉ đảm
nhiệm việc duyệt thuốc cho các khoa/phòng mà còn kiểm tra giám sát sử dụng
thuốc an toàn, hợp lý, kiểm tra quy chế chuyên môn cũng như các hoạt động thông
tin thuốc.
Về hoạt động giám sát và báo cáo ADR trong bệnh viện, hiện khoa Dược
đang tiến hành xây dựng quy trình báo cáo ADR. Trong những năm vừa qua, khoa
Dược có ghi nhận đầy đủ về mặt số lượng ADR thông qua việc các khoa phòng báo
cho khoa Dược những ADR xảy ra trên bệnh nhân. Khi có ADR xảy ra trên bệnh
nhân, các khoa phòng liên hệ khoa Dược, khoa Dược cử dược sĩ lâm sàng xuống
khoa đó để tìm hiểu rõ thêm, hướng dẫn cán bộ y tế làm báo cáo ADR theo mẫu.
Các báo cáo này được tập hợp lại và gửi về Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc
và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc. Đồng thời, khoa Dược cũng liên hệ với
công ty cung cấp thuốc đó về các ADR đã xảy ra. Tổng số báo cáo ghi nhận tại
Khoa Dược trong giai đoạn 2010-2013 là 46 báo cáo được thực hiện bởi 32 cán bộ y
tế trong bệnh viện.
15
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
2.1.1. Khảo sát tình hình báo cáo ADR trên bệnh nhi trong Cơ sở dữ liệu Quốc
gia giai đoạn 2010 – 2012
Đối tượng nghiên cứu là tất cả các báo cáo ADR trên phạm vi cả nước, được
gửi đến, tổ chức thẩm định và lưu trữ tại Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và
Theo dõi phản ứng có hại của thuốc từ 1/2010 đến 12/2012.
– Tiêu chuẩn lựa chọn: các báo cáo ADR được Trung tâm Quốc gia về Thông
tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc thu nhận từ 1/2010 đến 12/2012, có
thông tin về tuổi và tuổi <18 và có mối liên quan giữa việc sử dụng thuốc và ADR
được đánh giá ở các mức độ chắc chắn, có khả năng, có thể.
- Tiêu chuẩn loại trừ: các báo cáo ADR không có thông tin về thuốc nghi ngờ
và/hoặc không có thông tin về ADR.
2.1.2. Tìm hiểu nhận thức, thái độ của cán bộ y tế đối với hoạt động Cảnh giác
Dƣợc ở Bệnh viện Nhi Trung Ƣơng
Đối tượng nghiên cứu là tất cả các bác sĩ và điều dưỡng tại 30 khoa lâm sàng
của Bệnh viện Nhi Trung Ương.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Khảo sát tình hình báo cáo ADR trên bệnh nhi trong Cơ sở dữ liệu Quốc
gia giai đoạn 2010 – 2012
Nghiên cứu mô tả hồi cứu dữ liệu từ các báo cáo ADR đã thẩm định và lưu
trữ tại Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của
thuốc giai đoạn 2010 – 2012.
- Các tiêu chí được mô tả bao gồm:
1) Thông tin chung về báo cáo ADR
Số lượng báo cáo ADR nhi, tỷ lệ báo cáo ADR nhi trong Cơ sở dữ liệu, tỷ
lệ báo cáo ADR nghiêm trọng.
Đối tượng và đơn vị gửi báo cáo ADR.
Tỷ lệ phân bố bệnh nhân theo giới tính, nhóm tuổi.
16
2) Thông tin về thuốc nghi ngờ
Thuốc nghi ngờ gây ADR được mã hóa theo hệ thống phân loại ATC. Mã
ATC là một hệ thống phân loại mà trong đó các hoạt chất được phân vào những
nhóm khác nhau tương ứng với cơ quan hoặc hệ cơ quan mà chúng tác động cũng
như những đặc tính điều trị, đặc tính dược lý và đặc tính hóa học của chúng.
Các nhóm thuốc nghi ngờ được báo cáo và tỷ lệ ADR nghiêm trọng trong
từng nhóm.
Các thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất.
3) Thông tin về ADR
Biểu hiện ADR được mô tả bằng bộ thuật ngữ WHO – ART 2012 (Adverse
Reaction Terminology). Mỗi biểu hiện ADR được chuẩn hóa ở mức PT (Prefered
term) và mỗi PT được mã hóa bằng mã SOC (System Organ Classes) tương ứng
(SOC là mã phân loại tổ chức cơ thể bị ảnh hưởng) [70].
Phân loại tổ chức cơ thể bị ảnh hưởng và tỷ lệ ADR nghiêm trọng ghi
nhận với từng tổ chức cơ thể bị ảnh hưởng.
Các cặp thuốc nghi ngờ – biểu hiện ADR được báo cáo nhiều nhất.
- Cách thức phân loại mức độ nghiệm trọng của ADR và cách thức phân
nhóm tuổi bệnh nhi:
1) Phân loại mức độ nghiêm trọng của ADR
Các ADR có hại ghi nhận được phân loại mức độ nghiêm trọng dựa theo
hướng dẫn của WHO năm 2003 về phân loại độc tính để xác định mức độ nặng của
biến cố bất lợi (WHO Toxicity grading scale for determining the severity of adverse
events) [67].