10042_Hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu tại công ty giao nhận kho vận ngoại thương (Vinatrans) HP

luận văn tốt nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
  

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:

HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÔNG
TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG VINATRANS HẢI PHÒNG:
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Sinh viên thực hiện

: Lê Thùy Hương
Lớp

: Nga – K38E
Giáo viên hướng dẫn
: TS. NGUYỄN VĂN HỒNG

HÀ NỘI – 2003

MỤC LỤC

Lời nói đầu
1
Chương I: Vai trò của hoạt động giao nhận hàng hoá trong quá trình
phát triển kinh tế
3
I. Khái quát chung về hoạt động giao nhận
3
1. Một số khái niệm về giao nhận và hoạt động giao nhận
3
2. Vai trò của người giao nhận trong hoạt động thương mại quốc tế
4
3. Phạm vi hoạt động của người giao nhận
5
II. Quyền hạn và trách nhiệm của người giao nhận
7
1. Những căn cứ luật pháp về địa vị pháp lý của người giao nhận
7
2. Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn (Standard trading conditions)
8
3. Quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của người giao nhận
9
III. Các mối quan hệ của người giao nhận
10
IV. Các tổ chức giao nhận trên thế giới và ở Việt Nam
11
1. Tổ chức các cơ quan giao nhận trên thế giới
11
2. Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận (FIATA)
11
3. Các công ty giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam
12
V. Vài nét về hoạt động giao nhận ngoại thương tại Việt Nam
13
1. Hoạt động giao nhận ngoại thương trước năm 1986
13
2. Ngành giao nhận ngoại thương chuyển mình với xu hướng mở cửa và
hội nhập kinh tế
15
Chương II: Hoạt động giao nhận hàng hoá XNK tại công ty giao nhận
kho vận ngoại thương (Vinatrans) Hải Phòng
30
I. Giới thiệu chung về công ty Vinatrans
30
1. Quá trình ra đời và phát triển của công ty Vinatrans:
30
2. Cơ cấu tổ chức nhân sự của chi nhánh công ty Vinatrans tại Hải Phòng:
33
II. Tình hình vận tải và giao nhận hàng hoá của Vinatrans Hải Phòng
40

1. Đại lý hãng tàu (Shipping Agent)
40
2. Đại lý giao nhận (Freight Fowarder)
44
3. Tổng sản lượng vận tải và giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu của chi
nhánh Vinatrans Hải Phòng
55
Chương III: Triển vọng của ngành giao nhận nói chung và của công ty
Vinatrans nói riêng. Một số giải pháp kiến nghị.
59
I. Đối với ngành giao nhận Việt Nam
59
1. Phương hướng của ngành giao nhận trong thời gian tới
59
2. Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giao nhận
62
II. Đối với công ty Vinatrans
65
1. Đánh giá tình hình công tác vận tải và giao nhận hàng hoá của
Vinatrans Hải Phòng trong thời gian qua
65
2. Phương hướng phát triển công tác vận tải và giao nhận hàng hoá XNK
của công ty trong thời gian tới
66
3. Các biện pháp để nâng cao hiệu quả của công tác vận tải và giao nhận
hàng hoá XNK
68
Kết luận
70
Tài liệu tham khảo

Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E

LỜI NÓI ĐẦU
Thương mại và vận tải là hai lĩnh vực có mối quan hệ khăng khít và
tương hỗ lẫn nhau. Vận tải đẩy nhanh quá trình trao đổi, giao lưu hàng hoá
giữa các khu vực và trên phạm vi thế giới, còn thương mại là điều kiện để vận
tải ra đời và phát triển. Từ lâu, vận tải đường biển luôn đóng một vai trò quan
trọng trong vận chuyển hàng hoá quốc tế. Hàng năm có khoản 80%-90% hàng
hoá lưu chuyển trên phạm vi quốc tế được vận chuyển bằng đường biển bởi
những ưu điểm của nó so với phương thức vận tải khác.
Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội, vào thế kỷ 15-16
một loại hình dịch vụ mới đã ra đời, tạo thuận lợi và đẩy mạnh quá trình vận
tải, đặc biệt là quá trình vận tải đường biển. Đó là hoạt động giao nhận.
Ở Việt Nam, vào năm 1970 Tổng công ty giao nhận kho vận ngoại
thương (Vietrans) đã ra đời, là tổ chức duy nhất ở Việt Nam làm chức năng
giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu và hàng viện trợ, mà chủ yếu là vận
chuyển bằng đường biển.
Từ năm 1986 trở lại đây, cùng với sự dịch chuyển sang nền kinh tế thị
trường của đất nước, ngành giao nhận Việt Nam đã sớm đổi mới hoà nhập với
vực phát triển của nền kinh tế quốc gia và quốc tế, nhiều tổ chức giao nhận đã
ra đời, các loại hình giao nhận vận tải được mở rộng. Đặc biệt, ngành giao
nhận đã phục vụ tốt hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng tăng trong những
năm qua. Song hoạt động giao nhận cũng ngày càng phức tạp hơn, cạnh tranh
giữa các tổ chức giao nhận trong và ngoài nước ngày càng gay gắt, hoạt động
trong lĩnh vực giao nhận ngày càng khó khăn, chưa đi vào một mối thống nhất
về tổ chức. Mặc dù Hiệp hội giao nhận vận tải Việt nam đã ra đời nhưng việc
điều hành chung vẫn chưa có hiệu quả cao.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động giao nhận nói chung và
hoạt động giao nhận vận tải đường biển nói riêng đối với sự phát triển kinh tế
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
nên tôi đã chọn vấn đề:” Giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu tại công ty giao
nhận kho vận ngoại thương (Vinatrans) HP. Thực trạng và một số giải pháp”
làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
Nội dung của khoá luận tốt nghiệp gồm 3 chương (không kể lời nói đầu
và kết luận)
– Chương I: Vai trò của hoạt động giao nhận hàng hoá trong quá trình phát
triển kinh tế.
– Chương II: Hoạt động giao nhận hàng hoá XNK tại công ty giao nhận kho
vận Ngoại thương (Vinatrans) HP
– Chương III: Triển vọng của ngành giao nhận nói chung và của công ty
Vinatrans nói riêng. Một số giải pháp kiến nghị.
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các bạn sinh
viên, những người đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và rèn luyện tại
trường đại học Ngoại thương, đặc biệt là thầy giáo – tiến sĩ Nguyễn Văn Hồng-
giảng viên khoa kinh tế ngoại thương- người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn
thành khoá luận tốt nghiệp này. Vì đây là một đề tài mang tính thực tiễn cao
nên trong quá trình thực hiện không thể tránh khỏi những sai sót, vậy mong
các bạn đọc thông cảm và cho ý kiến đóng góp.

Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E

CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ

I. Khái quát chung về hoạt động giao nhận:
1. Một số khái niệm về giao nhận và hoạt động giao nhận:
Giao nhận vận tải là một trong những hoạt động nằm trong khâu lưu
thông phân phối, một khâu quan trọng nối liền sản xút với tiêu thụ, là hai khâu
chủ yếu của quá trình tái sản xuất xã hội. Giao nhận vận tải thực hiện chức
năng đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, hoàn thành mặt thứ hai
của lưu thông phân phối là phân phối vật chất, khi mặt thứ nhất là thủ tục
thương mại đã hoàn thành.
Giao nhận gắn liền với vận tải, nhưng nó không phải là vận tải. Hoạt
động giao nhận lo liệu cho hàng hoá được vận tải đến nơi tiêu thụ, nhưng
không phải chỉ lo riêng vận tải mà còn làm những việc khác để di chuyển hàng
hoá như bốc xếp, lưu kho, chuyển tải, đóng gói, thủ tục, chứng từ…”Có sách
viết, hoạt động giao nhận có thể định nghĩa là tổ chức việc vận chuyển hàng
hoá và thực hiện tất cả các công việc có liên quan đến việc vận chuyển hàng
hóa đó”.
Người kinh doanh dịch vụ giao nhận gọi là Người giao nhận. Về người
giao nhận, chưa có một định nghĩa thống nhất được quốc tế chấp nhận. Người
giao nhận có thể là chủ tàu, chủ hàng, công ty xếp dỡ hay kho hàng, người
giao nhận chuyên nghiệp hay bất cứ một người nào kác có đăng ký kinh doanh
hoạt động giao nhận hàng hoá. Theo Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận
thì “ người giao nhận là người lo toan để hàng hóa được chuyên chở theo hợp
đồng uỷ thác và hành động vì lợi ích của người uỷ thác mà bản thân anh ta
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
không phải là người vận tải. Người giao nhận cũng đảm nhận việc thực hiện
mọi công việc liên quan đến hợp đồng giao nhận như bảo quản, lưu kho chung
chuyển, làm thủ tục hải quan, kiểm hoá..”
Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế và sự tiến bộ kỹ thuật
của ngành vận tải mà dịch vụ giao nhận cũng được mở rộng hơn. Ngay nay
người giao nhận đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế và vận tải
quốc tế. Người giao nhận không chỉ làm các thủ tục hải quan, hoặc thuê tàu
mà còn cung cấp dịch vụ trọn goái về toàn bộ quá trình vận tải và phân phối
hàng hoá. ở các nứoc khác nhau, người kinh doanh dịch vụ giao nhận được gọi
các tên gọi khác nhau: “Đại lý hải quan” (Customs House Agent), “Môi giới
hải quan” (Customs Broker), “Đại lý thanh toán” (Clearing Agent), “Đại lý gửi
hàng và giao nhận” (Shipping and Forwarding Agent),” Người chuyên chở
chính” (Principal Carrier)…

2. Vai trò của người giao nhận trong thương mại quốc tế:
Như đã nói trên, ngày nay do sự phát triển của vận tải container, vận tải
đa phương thức, người giao nhận không chỉ làm đại lý, người uỷ thác mà còn
làm cung cấp dịch vụ vận tải đóng vai trò như một bên chính- Người chuyên
chở (Carrier).
Người giao nhận đã làm chức năng và công việc của những người sau:
2.1. Môi giới hải quan (Customs Broker):
Khi mới xuất hiện, người giao nhận chỉ hoạt động trong phạm vi trong
nước. Nhiệm vụ của người giao nhận lúc bấy giờ là làm thủ tục hải quan đối
với hàng nhập khẩu. Sau đó anh ta mở rộng hoạt động dịch vụ ra cả hàng xuất
khẩu và dành chỗ chở hàng trong thương mại quốc tế hoặc lưu cước với các
hãng tàu theo sự uỷ thác của người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu tuỳ thuộc
vào hợp đồng mua bán. Trên cơ sở được nhà nước cho phép, người giao nhận
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
thay mặt người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu để khai báo, làm thủ tục hải
quan như một môi giới hải quan.
2.2 Đại lý (Agent):
Trước đây người giao nhận không đảm nhiệm vai trò của người chuyên
chở. Anh ta chỉ hoạt động như một cầu nối giữa người gửi hàng và người
chuyên chở như một đại lý của người gửi hàng hoặc người chuyên chở. Người
giao nhận nhận uỷ thác từ chủ hàng hoặc người chuyên chở để thực hiện các
công việc khác nhau như: nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm thủ tục hải
quan, lưu kho…trên cơ sở hợp đồng uỷ thác.
2.3. Người gom hàng (Cargo consolidator):
Ở Châu Âu, người giao nhận từ lâu đã cung cấp dịch vụ gom hàng để phục vụ
cho vận tải đường sắt. Đặc biệt, trong ngành vận tải hàng hoá bằng container
dịch vụ gom hàng là không thể thiếu được nhằm biến lô hàng lẻ (LCL) thành
lô hàng nguyên (FCL) để tận dụng sức chở của container và giảm cước phí
vận tải. Khi là người gom hàng, người giao nhận có thể đóng vai trò là người
chuyên chở hoặc chỉ là đại lý.
2.4 Người chuyên chở (Carrier):
Ngày nay, trong nhiều trường hợp, người giao nhận lại đóng vai trò là
người chuyên chở, tức là người giao nhận trực tiếp ký kết hợp đồng vận tải với
chủ hàng và chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hoá từ một nơi này đến một
nơi khác. Nếu như người giao nhận ký hợp dồng mà không trực tiếp chuyên
chở thì anh ta đóng vai trò là người thầu chuyên chở (Contracting carrier), nếu
ah ta trực tiếp chuyên chở thì anh ta là người chuyên chở thực tế (Actual
carrier).
2.5. Người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO):
Trong trường hợp người vận tải cung cấp dịch vụ đi suốt hoặc còn gọi là
vận tải trọn gói từ cửa tới cửa “door to door”, thì người giao nhận đã đóng vai
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
trò là người vận đa phương thức (MTO). MTO cũng là người chuyên chở và
phải chịu trách nhiện về hàng hoá trong suốt hành trình vận tải.
Người giao nhận còn được coi là kiến trúc sư của vận tải, vì người giao
nhận có khả năng tổ chức quá trình vận tải một cách tốt nhất, an toàn nhất và
tiêt kiệm nhất.

3. Phạm vi hoạt động của người giao nhận:
Phạm vi các dịch vụ giao nhận là nội dung cơ bản của dịch vụ giao nhận
kho vận. Trừ khi bản thân người gửi hàng (hoặc người nhận hàng) muốn tự
mình tham gia vào bất kỳ khâu thủ tục, chứng từ nào đó, còn thông thường
người giao nhận có thể thay mặt người gửi hàng (hoặc người nhận hàng) lo
liêụ quá trình vận chyển hàng hoá qua các công đoạn cho đến tay người nhận
cuối cùng. Người giao nhận có thể làm dịch vụ một cách trực tiếp hoặc thông
qua đại lý hoặc thuê dịch vụ của người thứ ba khác.
Những dịch vụ mà nguời giao nhận thường tiến hành là:
+ Chuẩn bị hàng hoá để chuyên chở
+ Tổ chức chuyên chở hàng hoá trong phạm vi ga, cảng,
+Tổ chức xếp dỡ hàng hoá,
+ Làm tư vấn cho chủ hàng trong việc chuyên chở hàng hoá,
+ Ký kết hợp đồng vận tải với người chuyên chở, thuê tàu, lưu cước,
+ Làm thủ tục nhận hàng, gửi hàng,
+ Làm thủ tục hải quan,kiểm nghiệm, kiểm dịch,
+ Mua bảo hiểm cho hàng hoá,
+ Lập các chứng từ cần thiết trong quá trình nhận hàng, gửi hàng,
+ Thanh toán, thu đổi ngoại tệ,
+ Nhận hàng từ chủ hàng, giao cho người chuyên chở và giao cho người nhận
+ Thu xếp chuyển tải hàng hóa
+Nhận hàng từ người chuyên chở và giao cho người nhận,
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
+ Gom hàng, lựa chon tuyến đường chuyên chở, phương thức vận tải và người
chuyên chở thích hợp.
+ Đóng gói bao bì, phân loại, tái chế hàng hoá,
+ Lưu kho, bảo quản hàng hoá,
+ Nhận và kiểm tra các chứng từ cần thiết liên quan đến quá trình vận chuyển
hàng hoá,
+ Thanh toán cước phí, chi phí xếp dỡ, chi phí lưu kho, lưu bãi…
+ Thông báo tình hình đi và đến của phương tiện vận tải,
+ Thông báo tổn thất với người chuyên chở,
+ Giúp chủ hàng trong việc khiếu nại, đòi bồi thường.
Ngoài ra, người giao nhận cung cấp các dịch vụ đặc biệt theo yêu cầu
của chủ hàng như: vận chuyển máy móc thiết bị cho các công trình xây dựng
lớn, vận chuyển quần áo may sẵn trong các container đến thẳng cửa hàng, vận
chuyển hàng triển lãm ra nước ngoài…Đặc biệt trong những năm gần đây,
người giao nhận thường cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức, đóng vai trò
là MTO và phát hành cả chứng từ vận tải.

II. Quyền hạn và trách nhiệm của người giao nhận:
1. Những căn cứ luật pháp về địa vị pháp lý của người giao nhận:
Cho đến nay, chưa có một văn bản luật pháp quốc tế nào về lĩnh vực
giao nhận, nên địa vị pháp lý của người giao nhận ở từng nước khác nhau, tuỳ
theo luật pháp hiện hành ở nước đó. ở những nứơc theo luật common law, là
luật không thành văn thì địa vị pháp lý của người giao nhận dựa trên khái niệm
về đại lý, thường là đại lý uỷ thác. Người giao nhận lấy danh nghĩa của người
uỷ thác để giao dịch cho công việc của người uỷ thác. Hoạt động của người
giao nhận khi đó phụ thuộc vào những quy tắc truyền thống về đại lý, như phải
mẫn cán thực hiện nhiệm vụ của mình, phải trung thực với người uỷ thác, tuân
theo những chỉ dẫn của người ủy thác, mặt khác được hưởng những quyền bảo
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
vệ và giới hạn trách nhiệm phù hợp với vai trò của một đại lý. Trong trường
hợp, người giao nhận đảm nhận trách nhiệm của một bên chính, tự mình ký
kết hợp đống sử dụng người chuyên chở và các đại lý, thì anh ta không được
hưởng nhứng quyền bảo vệ và giới hạn trách nhiệm nói trên và anh ta phải
chịu trách nhiệm cho cả quá trình vận tải hàng há kể cả khi hàng nằm trong tay
những người chuyên chở và đại lý mà anh ta sử dụng.
Ở các nước có luật dân sự (Civil law), như các nước Châu Âu, người giao
nhận theo thể chế đại lý hưởng hoa hồng. Đặc điểm của thể chế này là người
đại lý hưởng hoa hồng vừa là bên chính, vừa là đại lý. Đối với khách hàng,
anh ta là đại lý, nhưng đối các hợp đồng anh ta đã ký kết dể thực hiện được
nhiệm vụ được khách hàng uỷ thác, thì anh ta lại là bên chính.
Như vậy người giao nhận có bổn phận của người đại lý và cũng có
quyền hạn của một bên chính để đòi hỏi thức hiện các hợp đồng mà anh ta ký
kết để chuyên chở hàng của khách hàng. Tuy nhiên, thể chế mỗi nước có
những điểm khác nhau. Nhiều nước, căn cứ vào luật quốc gia, các hiệp hội
giao nhận xây dựng điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn quy đinh quyền hạn,
nghĩa vụ, trách nhiệm của người giao nhận. Những nơi chưa áp dụng điều kiện
kinh doanh tiêu chuẩn thì hợp đồng giữa người giao nhận và khách hàng phải
xác đinh rõ nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của mỗi bên.

2. Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn (Standard trading conditions):
FIATA (Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận) đã thảo một bản mẫu
điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn để các nước tham khảo xây dựng Điều kiện
kinh doanh cho ngành giao nhận của mình:
– Người giao nhận phải thực hiện uỷ thác với sự chăm lo cần thiết nhằm bảo vệ
lợi ích cuẩ khách hàng.
– Người giao nhận điều hành và lo liệu vận chuyển hàng hoá được uỷ thác theo
chỉ dẫn của khách hàng và với cách thức thích hợp cho khách hàng.
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
– Người giao nhận không nhận đảm bảo hàng đến vào một ngày nhất định, có
quyền tự do lựa chọn người lý hợp đồng phụ và tự mình quyết định sử dụng
những phương tiệ vận tải, tuyến đường vận tải thông thường, có quyền cầm
giữ, lưu giữ hàng hoá để đảm bảo những khoản nợ của khách hàng.
– Người giao nhận chỉ chịu trách nhiệm về lỗi lầm của bản thân mình và người
làm công cho mình, không chịu trách nhiệm về sai sót của bên thứ ba, miễn là
đã tỏ ra cần mẫn thích đáng trong việc lựa chọn bên thứ ba đó.
Nhiều hiệp hội coi” Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn” là một trong những
phương tiện chủ yếu nhằm duy trì và nâng cao tiêu chuẩn nghề nghiệp của
ngành giao nhận và đã thông qua “ Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn cho hội
viên của mình, làm căn cứ ký hợp đồng hoặc đính kèm với hợp đồng ký với
khách hàng.
Nội dung của bản “ Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn “ có một số nội
dung có bản sau:
a. Bản điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn có 3 phần:
– Phần điều kiện chung
– Phần công ty đóng vai trò đại lý
– Phần công ty đóng vai trò bên chính
b. Công ty giao nhận có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ với tinh thần khẩn
trương, khéo léo, có cân nhắc và quan tâm thích đáng theo sự đòi hỏi hợp lý
của nghề nghiệp, tiến hành những bước hợp lý để thực hiện chỉ thị của khách
hàng, bảo vệ lợi ích của khách hàng trong khi thực hiện Điều kiện kinh doanh
tiêu chuẩn.
c. Có những quyền bảo vệ miễn trách, giới hạn bồi thường tổn thất được quy
đinh rõ.
d. Xu hướng chung là người giao nhận muốn đóng vai trò đại lý, nhưng khi đã
lấy danh nghĩa của mình ra làm bên chính ký kết hợp đồng để thực hiện chỉ thị
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
của khách hàng thì người giao nhận phải chịu trách nhiệm về hàng hoá tổn thất
xảy ra từ khi nhận cho đến khi giao hàng.

3. Quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của người giao nhận:
Như vậy, có thể phân biệt quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của người
giao nhận khi đóng vai trò là người đại lý và khi đóng vai trò là người uỷ thác.
Ở địa vị nào, người giao nhận cũng phải chăm sóc chu đáo hàng hoá được uỷ
thác, thực hiện đúng những chỉ dẫn của khách hàng về những vấn đề liên quan
đến vận tải hàng hoá. Nhưng khi là đại lý, anh ta chấp nhận trách nhiệm do lỗi
lầm sai sót của mình và của người làm công cho mình. Lỗi lầm sai sót đó có
thể là giao hàng sai chỉ dẫn, gửi sai địa chỉ, lập chứng từ nhầm lẫn, làm sai thủ
tục hải quan, quên thông báo cho khách hàng phải lưu kho tốn kémv.v…Anh ta
không nhận trách nhiệm về tổn thất do lỗi của bên thứ ba miễn là anh ta đã
biểu hiện quan tâm chu đáo trong việc lựa chọn bên thứ ba đó. Còn khi anh ta
đóng vai trò bên chính, thì ngoài những trách nhiệm của đại lý nói trên anh ta
còn chịu những trách nhiệm về hành vi sơ xuất của bên thứ ba mà anh ta sử
dụng để thực hiện hợp đồng. Ở trường hợp này, anh ta thường thương lượng
với khách hàng khoản giá dịch vụ (giá khoán, giá trọn gói) chứ không phải chỉ
nhận khoản hoa hồng như đại lý. Người giao nhận thường đóng vai trò là bên
chính khi đóng hàng lẻ gửi đi, khi kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức,
khi đảm nhận tự vận chuyển hàng hoá hay nhận bảo quản hàng hoá trong kho
của minh. Quyền hạn của người giao nhận khi đóng vai trò đại lý hay khi là
bên chính, trong việc hưởng giới hạn trách nhiệm cũng như trong việc thực
hiện quyền gửi hàng đều như nhau.

Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
III. Các mối quan hệ của người giao nhận:
Do tính chất nghề nghiệp và quy mô hoạt động trên phạm vi thế giới thế
giới, người giao nhận có mối quan hệ khá rộng:
– Ở trong nước là quan hệ với các chủ hàng (người gửi hàng hay người nhận
hàng); các tổ chức thuộc bên thứ ba (người chuyên chở đường bộ, đường sông,
đường sắt, máy bay, người bốc xếp, tổ chứ đóng gói, lưu kho, tổ chức bảo
hiểm, kiểm nghiệm, ngân hàng thanh toán); các nhà đương cục hữu quan (hải
quan, cảng vụ, ngân hàng kết nối, cơ quan thương mại (về giấy phép XNK), cơ
quan giao thông vận tải (về việc cấp giấy phép vận tải), cơ quan lãnh sự nước
ngoài, phòng thương mại (nếu có yêu cầu cấp giấy chứng nhận xuất xứ).
– Ở ngoài nước, người giao nhận có đại lý để lo liệu công việc giao nhận ở các
cảng, sân ga hay ga xe lửa, hay các địa điểm khác. Nhiều công ty còn có các
chi nhánh, đại diện ở nước ngoài. Người giao nhận thường tham gia Liên đoàn
quốc tế các hiệp hội giao nhận (FIATA) để tăng cường mối quan hệ của người
giao nhận.

IV. Các tổ chức giao nhận trên thế giới và ở Việt Nam:
1. Tổ chức các cơ quan giao nhận trên thế giới:
Ngay từ những năm 1522, hãng giao nhận đầu tiên trên thế giới đã xuất
hiện ở Badiley (Thuỵ Sĩ), với tên gọi là E. Vasnai. Hãng này kinh doanh cả
vận tải, giao nhận và thu phí rất cao, khoản 1/3 giá trị của hàng hoá.
Cùng với sự phát triển của vận tải và buôn bán quốc tế, giao nhận được
tách ra khỏi vận tải và buôn bán, dần dần trở thành một ngành kinh doanh độc
lập. Đặc điểm chính của tổ chức giao nhận thời kỳ này là:
+ Hầu hết là các tổ chức (hãng, công ty) tư nhân,
+ Đa số các hãng kinh doanh giao nhận tổng hợp,
+ Các hãng thường kết hợp giữa giao nhận nội địa và quốc tế,
+ Có chuyên môn hoá về giao nhận theo khu vực địa lý hay mặt hàng,
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
+ Cạnh tranh gay gắt lẫn nhau,
Sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty giao nhận dẫn đén sự ra đời các
Hiệp hội giao nhận trong phạm vi một cảng, một khu vực hay một nứơc. trên
phạm vi quốc tế hình thành các Liên đoàn giao nhận nhu: Liên đoàn nhưnữg
người giao nhận Bỉ, Hà Lan, Mỹ…đặc biệt là Liên đoàn quốc tế các hiệp hội
giao nhận, gọi tắt là FIATA.
2. Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận (FIATA):
Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận thành lập năm 1926 là một tổ
chức giao nhạn vận tải lớn nhất trên thế giới. FIATA là một tổ chức phi chính
trị, tự nguyện, là đại diện của 35.000 công ty giao nhận ở 130 quốc gia trên thế
giới. Thành viên của FIATA là các hội viên chính thức (Ordinnary Members)
và hội viên hợp tác (Associated members). Hội viên chính thức là Liên đoàn
giao nhận của các nước, còn hội viên hợp tác là các công ty giao nhận riêng lẻ.
FIATA được sự thừa nhận của các cơ quan Liên hiệp quốc như: Hội
đồng kinh tế – xã hội LHQ (ECOSOC), Hội nghị của Liên hiệp quốc về
thương mại và phát triển (UNCTAD), Uỷ ban Châu Âu của Liên hiệp quốc
(ECE) và ESCAP…
FIATA cũng được các tổ chức liên đoàn đến buôn bán và vận tải như:
Phòng thương mại quốc tế, Hiệp hội vận chuyển hàng không quốc tế (IATA),
các tổ chức của người chuyên chở và chủ hàng thừa nhận.
Mục tiêu chính của FIATA là bảo vệ và tăng cường lợi ích của người
giao nhận trên phạm vi quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ giao nhận, liên
kết nghề nghiệp, tuyên truyền dịch vụ giao nhận vận tải, xúc tiến quá trình đơn
giản hoá và thống nhất chứng từ và các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn nhằm
cải tiến chất lượng dịch vụ của các hội viên, đào tạo nghiệp vụ ở trình độ quốc
tế, tăng cường mối quan hệ phối hợp với các tổ chức giao nhận với chủ hàng
và người chuyên chở. Phạm vi hoạt động của FIATA rất rộng, thông qua hoạt
động của hàng loạt Tiểu ban:
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
+ Tiểu ban về các quan hệ xã hội
+ Tiểu ban nghiên cứu về kỹ thuật vận chuyển đường ô tô, đường sắt, đường
hàng không…,
+ Uỷ ban về vận chuyển đường biển và VTĐPT.
+ Tiểu ban luật pháp, chứng từ và bảo hiểm,
+ Tiểu ban đào tạo nghề nghiệp,
+ Uỷ ban về đơn giản hoá thủ tục buôn bán
+ Tiểu ban về hải quan,
Hiện nay nhiều công ty giao nhận của Việt Nam đã trở thành một thành
viên chính thức của FIATA.

3. Các công ty giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam:
Những năm 60 của thế kỷ 20, các tổ chức giao nhận quốc tế ở VIệt Nam
mang tính chất phân tán. Các đơn vị XNK tự đảm nhận việc tổ chức chuyên
chở hàng hoá của mình, vì vậy các công ty XNK đã thành lập riêng phòng kho
vận, chi nhánh XNK, trạm giao nhận ở các cảng, ga, đường sắt liên vận.
Để tập chung đầu mối quản lý, chuyên môn hoá khâu vận tải, giao nhận,
năm 1970 Bộ Ngoại thương (nay là Bộ thương mại) dã thành lập hai tổ chức
giao nhận:
+ Cục kho vận kiêm Tổng công ty giao nhận Ngoại thương, trụ sở ở HP,
+ Công ty giao nhận đường bộ, trụ sở tại HN
Năm 1976, Bộ ngoại thương đã sáp nhập hai tổ chức trên thành lập một
Công ty giao nhận thống nhất là Tổng công ty giao nhận và kho vận ngoại
thương (Vietrans). Trong thời kỳ bao cấp, Vietrans là công ty duy nhất được
phép tiến hành tổ chức giao nhận hàng hóa XNK trên cơ sở uỷ thác của các
đơn vị XNK.
Những năm gần đây, kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết của nhà nước, dịch vụ giao nhận hàng hoá không còn do
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
Vietrans độc quyền nữa mà do nhiều cơ quan tổ chức khác tham gia, trong đó
nhiều chủ hàng ngoại thương lại tự đảm nhiệm công tác giao nhận.
Do sự phát triển mạnh mẽ của thị trường giao nhận Việt Nam, để bảo vệ
quyền lợi của các nhà giao nhận, Hiệp hội giao nhận Kho vận Việt Nam
(VIFFAS) đã được thành lập năm 1994 và đã trở thành một hội viên chính
thức của FIATA trong năm đó. Cho đến nay VIFFAS đã có 46 thành viên.
V. Vài nét về hoạt động giao nhận ngoại thương tại Việt Nam:
1. Hoạt động giao nhận ngoại thương trước năm 1986:
1.1. Khái quát chung về ngành vận tải ngoại thương:

Ngành vận tải ngoại thương có thể nói là một ngành còn non trẻ ở Việt
Nam, chỉ mới thực sự ra đời vào những năm 1975-1976, khi mà đội tàu viễn
dương bắt đầu có những con tàu lớn được trang bị hiện dại có thể đảm nhiệm
được việc chuyên chở hàng hoá XNK.
Lúc này, cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng của vận tải ngoại thương còn
yếu kém. Hệ thống các cảng biển với một số cảng lớn như HP, SG trang bị kỹ
thuật còn sơ sài, xếp dỡ chủ yếu bằng phương pháp thủ công. Đội tàu chuyên
chở nhỏ bé, cũ kỹ…Do vậy, vận tải biển ngoại thương thời kỳ này chủ yếu là
vận tải cận dương, một số tuyến đường chủ yếu là sang các nước thuộc khối
XHCN cũ (Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc) và các nước Đông Nam Á (Bangkok-
Nhật Bản, Băng kok- Philippin, Nhật Bản- Băngladest). Đội tàu buôn ngoại
thương của ta chỉ chuyên vận tải những mặt hàng nguyên liệu như than,
quặng…với khối lượng chuyên chở thấp, phải dùng cờ tàu nước ngoài để hoạt
động trên các tuyến vận tải quốc tế và cập các cảng nước ngoài. Hoạt động
chính chính của vận tải ngoại thương giai đoạn này là chở hàng thuê và cho
nước ngoài thuê tàu.
Thực tế trên là do kết quả trực tiếp và là tất yếu của nền kinh tế Việt Nam thời
kỳ này.
2.2 Thực trạng hoạt động giao nhận ngoại thương:
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
Từ bức tranh trên cũng có thể dễ dàng hình dung ra thực tế ngành giao
nhận ngoại thương thời kỳ này. Với môi trường sống là hoạt động giao lưu
kinh tếvới nước ngoài nói chung và ngành vận tải ngoại thương nói riêng, giao
nhận ngoại thương không có đủ điều kiện phát triển.
Có thể hình dung ngắn gọn hoạt động giao nhận ngoại thương giai đoạn này ở
một số nét tiêu biểu như sau:
– Giao nhận ngoại thương chưa có hình hài rõ nét của một ngành kinh doanh
dịch vụ độc lập, mọi hoạt động mang tính chất phân tán. Phần lớn các đơn vị
XNK tự thành lập riêng phòng kho vận, trạm giao nhận ở các cảng ga hoặc cán
bộ phụ trách giao nhận.
– Cơ quan duy nhất của Nhà nước được phép giao nhận hàng hoá XNK trên cơ
sở uỷ thác của các đơn vị XNK là Tổng công ty giao nhận và kho vận ngoại
thương- Vietrans. Chính vì thế, có thể nói ngành kinh doanh này bấy giờ mang
tính chất độc quyền dưới sự bao cấp của nhà nước. Cạnh tranh hầu như không
có nên không thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành.
Tuy vây, hoạt động của Vietrans cũng không sôi động và tấp nập do các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu chưa thực sự quen với việc sử dụng dịch vụ của
hãng giao nhận thay vì đứng ra thực hiện công tác giao nhận. Vào đầu những
năm 80, có thêm Công ty vận tải và thuê tàu-Vietracht cũng tham gia vào lĩnh
vực này.
– Các công việc giao nhận ngoại thương chủ yếu là các nghiệp vụ đơn giản gần
với khái niệm tiếp vận hàng hoá XNK, tức là tổ chức nhận và gửi hàng ở cảng,
sân bay, lo liệu các thủ tục xuất nhập khẩu và thủ tục hải quan, vận chuyển nội
địa, lưu kho lưu bãi…Các nghiệp vụ tổ chức cả quá trình chuyên chở hàng viễn
dương hầu như không phát triển mà việc này do các hãng tàu biển và các hãng
hàng không đảm nhiệm.
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
– Khối lượng và chủng loại các mặt hàng giao nhận kém, các tuyến đường
chuyên chở đơn điệu. Đây cũng là một hậu quả dây chuyền do thực trạng
chung của ngành ngoại thương.
– Nhìn chung, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các nghiệp vụ của giao nhận ngoại
thương Việt Nam lúc này rất lạc hậu, chỉ phát triển bằng giai đoạn đầu của
ngành giao nhận thế giới. Các chức năng và vai trò của người giao nhận chưa
phát huy đầy đủ và hoàn thiện. Ngành giao nhận chưa có vai trò lớn trong các
loại hình kinh doanh dịch vụ vận tải như chỗ đứng thực sự của nó trên thị
trường vận tải lúc bấy giờ.

2. Ngành giao nhận ngoại thương chuyển mình với xu hướng mở cửa và hội
nhập kinh tế:
2.1 Những tiền đề của sự phát triển:
* Bối cảnh nền kinh tế có những thay đổi thuận lợi:
Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986) với việc thông qua và thực hiện các chính
sách mở cửa nền kinh tế đã thổi một luồng sinh khí mới cho hoạt động kinh tế
của đất nước.
Thật vậy, những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 là thời điểm
diễn ra những biến động lớn của nền kinh tế Việt Nam. Một loạt các sự kiện
và hoạt động kinh tế quan trọng liên tiếp diễn ra đánh dấu sự chuyển mình của
nền kinh tế đất nước sau cú hích lịch sử là “ chính sách mở “, trong đó phải kể
đến việc Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và trên thế giới.
Năm 1995 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN, tham gia
vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), năm 1998 tham gia diễn đàn
kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), cùng thời gian này VN cũng nộp
đơn tham gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO). Bên cạnh đó ta còn nỗ
lực hoàn thiện cơ sở vật chất và điều kiện kinh tế để phù hợp với không khí
kinh tế sôi động chung như : hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài để thu hút vốn
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
bên ngoài, tiêu chuẩn hoá hệ thống thuế và thủ tục hải quan để tiến tới thực thi
chương trình CEPT…Cũng không thể không nhắc tới vai trò quan trọng của
việc Mỹ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam năm 1995 và việc xúc tiến đẩy
mạnh quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với Mỹ mà minh chứng rõ nét là
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ. Ngoài ra Việt Nam còn tích cực tham gia các
cuộc gặp gỡ Á- Âu (ASEM) và ký kết các hiệp định song phương về hợp tác
kinh tế vùng, tiểu vùng, khu vực và toàn cầu.
Môi trường kinh tế mới, quan hệ thương mại hợp tác quốc tế mở rộng khiến
cho hoạt động của các ngành kinh tế đều trở nên sôi động, đặc biệt là sự nhộn
nhịp chưa từng có của thương mại và buôn bán quốc tế. Cơ hội tìm kiếm thị
trường mới, các bạn hàng và hợp hợp đồng mới, các điều kiện và phương thức
buôn bán quốc tế ngày càng thông thoáng và phong phú làm cho khối lượng
hàng hoá lưu chuyển giữa Việt Nam và thế giới không ngừng tăng lên.
* Những thay đổi trong nội tại ngành vận tải:
Hoạt động xuất nhập khẩu không còn buồn chán và đơn điệu là cái đà
cho sự phát triển của ngành vận tải ngoại thương- hai yếu tố vốn vẫn gắn bó
chặt chẽ với nhau.
Cùng với sự tăng trưởng về hàng hoá chuyên chở, nhu cầu đa dạng hoá
các phương thức vận tải, hiện đại và tiêu chuẩn hoá dịch vụ vận tải cũng tăng
lên nhãm đáp ứng nhu cầu về một dịch vụ chất lượng cao của các khách hàng
trong nước và quốc tế, đồng thời bắt kịp và hội nhập với nền vận tải thế giới
đã phát triển từ lâu đời, đi trước chúng ta hàng chục năm.

Bảng 1: Sản lượng hàng hoá thông quan qua cảng Hải Phòng
Năm
Tổng sản
lượng (tấn)
Nhập (tấn)
Xuất (tấn) Container
(TEU)
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
1997
5,170,000
2,561,000
742,000
154,100
1998
5,232,000
2,756,000
751,000
162,400
1999
5,872,000
2,812,000
795,000
168,000
2000
6,012,400
2,924,000
801,000
169,530
2001
6,321,000
3,410,000
842,000
170,200
2002
6,412,000
3,523,000
856,000
182,000
Nguồn: Báo cáo tổng kết của cảng Hải Phòng 2002

Theo tinh thần chung của Đại hội VI và định hướng phát triển ngành
vận tải mà Đại hội đã đề ra, Bộ Giao thông vận tải đã đưa ra Đề án kinh tế- Xã
hội gồm 11 chương trình mà một trong số đó là :” Xây mạnh chương trình đẩy
mạnh hợp tác Quốc tế”. Thực hiện chương trình hành động của đề án này,
ngành vận tải đã mở rộng mối quan hệ hợp tác kiên doanh, liên kết, mở cửa
đón sự tham gia của rất nhiều các hãng tàu biển, các hãng hàng không…của
các nước trong khu vực và trên thế giới vào hoạt động vận tải Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng của ngành vận tải có sự cải thiện đáng kể. Hệ thống các
cảng biển và cảng hàng không đều được mở rộng, nâng cấp, lắp đặt trang thiết
bị hiện đại toàn diện. Đội tàu ở Việt Nam hiện nay đã khá mạnh, một mặt nhờ
vào củng cố thực lực, mặt khác nhờ vào liên doanh liên kết với các hãng nước
ngoài. Hàng năm đều có sự tăng trưởng đáng kể về cả khối lượng hàng và cả
tuyến đường chuyên chở.
Ngoài ra, không thể không kể đến việc áp dụng rộng rãi container vào
chuyên chở hàng hoá XNK lần đầu tiên ở Việt Nam, bắt đầu từ những năm
đầu thập kỷ 80. Đây là kết quả tất yếu của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại đòi hỏi phải hiện đại hoá các quy trình tổ chức vận tải của sự hội tụ đầy
đủ các điều kiện cần thiết để vận tải container phát triển tại VIệt Nam. Mặt
khác điều này cũng phù hợp với xu thế tiến bộ khoa học rất nhanh chóng của
vận tải quốc tế.
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
Đứng như quy luật phát triển chung của lịch sử vận tải quốc tế, sự bùng
nổ và lan rộng của cuộc cách mạng container trong ngành vận tải Việt Nam
vừa là tiền đề, vừa thúc đẩy việc thực hiện phương thức tổ chức vận tải mới-
một hệ thống vận tải từ cửa đến cửa (door to door) với sự tham gia của nhiều
phương thức vận tải (đường biển, đường hàng không, đường ôtô..), đó là vận
tải đa phương thức- sản phẩm tất yếu của nhu câu liên quan đến chuyến chở
hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng, của tính chất cạnh tranh trở nên
gay gắt trong ngành công nghiệp dịch vụ vận tải.
Đây chính là thời điểm hội tụ đủ điều kiện cho sự nhìn nhận và phát
triển thực sự của ngành giao nhận ngoại thương như một loại hình kinh doanh
dịch vụ vận tải mới mẻ.
2.2 Một số đặc điểm nổi bật của giao nhận ngoại thương hiện nay:
– Bắt đầu không khí nhộn nhịp chưa từng có trong lĩnh vực giao nhận mà
nguyên nhân của nó chủ yếu là do tình trạng bao cấp và độc quyền trong kinh
doanh dịch vụ vận tải không còn nưã. Đến nay đã có hàng trăm hãng giao
nhận gồm cả công ty của quốc doanh, cổ phần, tư nhân và cả các hãng nước
ngoài, trong đó một số công ty đã trở nên thực sự mạnh, quy mô, hoạt động vô
cùng rộng, bao trùm và phát huy được mọi chức năng sở trường của một người
giao nhận.
Riêng khối các công ty quốc doanh và cổ phần công ty Container Việt
Nam, Công ty đại lý vận tải quốc tế, Công ty thương mại và dịch vụ hàng hoá,
Công ty cổ phần và đại lý vận chuyển Gemadept…các hãng tư nhân cũng
nhanh chóng len chân vào lĩnh vực hứa hẹn nhiều thu hoạch này, một số đã có
tên tuổi hiện nay như : Đức Vinh. Anh Cao hay An Nhơn.
Nhưng phải nói rằng, tạo ra sự chuyển mình thực sự trong lĩnh vực này
là do làn sóng của các hãng giao nhận quốc tế tham gia ngày càng sâu rộng
vào dịch vụ vận tải Việt Nam. Đặc biệt là hàng loạt các công ty giao nhận nổi
tiếng trên thế giới như Schenker, Birkart, Danzas…mở văn phòng đại diện tại
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nhằm mở rộng mạng lưới Sales- Marketing
của mình ở Việt Nam, tăng cường sức canh tranh cũng như kiểm soát thị phần
thị trường. Các hãng này với bề dày kinh nhiệm trên lĩnh vực giao nhận quốc
tế, quy mô kinh doanh lớn, phương thức làm việc năng động đã đem lại sinh
khí mới, cách hoạt động mới cho ngành giao nhận còn non trẻ của chúng ta.
Chúng khiến cho mọi chức năng và nhiệm vụ của người giao nhận được phát
huy một cách toàn diện, bàn tay của các hãng giao nhận đã vươn sâu tới mọi
lĩnh vực kinh doanh dịch vụ vận tải, tạo ra một sự cạnh tranh gay gắt với các
loại hình kinh doanh vận tải khác.
– Cũng như toàn ngành vận tải, hoạt động giao nhận ngoại thương vẫn mang
tính chất có sự điều tiết và kiểm soát của nhà nước thông qua các chính sách
quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của các hãng giao nhận nước
ngoài tại Việt Nam.
Tính chất của thị trường giao nhận ở Việt Nam khác với các nước khác
trên thế giới. Tại Châu Á, nơi được coi là trung tâm chính về việc vận chuyển
hàng hóa đã và đang chứng kiến sự thay thế các công ty đại lý địa phương
bằng các chi nhánh hoặc các công ty con của các công ty giao nhận quốc tế. Ví
dụ như ở Đài Loan, Hồng Kông, Sinhgapo…một số hãnggiao nhận Châu Âu
như Danzas, Raf, Karl& Muueller… thay cho việc chỉ định các đại lý tại các
cảng họ đã thiết lập chi nhánh của mình tại các nứớc này vì các luật pháp của
các nước này cho phép. Điều này khác so với nước ta. Theo luật pháp nước ta,
các hãng giao nhận vận tải không đựoc phép kinh doanh vận tải tại Việt Nam
và chỉ được phép giới hạn trong phạm vi nghiên cứu, xúc tiến và phát triển thị
trường. Vì vạy, phần lớn các hãng giao nhận quốc tế cũng hoạt động dưới
hình thức hoặc chỉ định một doanh nghiệp Việt Nam làm đại lý cho họ, hoặc là
thành lập công ty liên doanh hoặc thậm chí tự đảm nhận hoạt động khi núp
dưới danh nghĩa của một đại lý liên doanh là doanh nghiệp Việt nam.
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
Các doanh ngiệp Việt Nam làm đại lý cho các hãng giao nhận đều có
nguồn thu từ hoa hồng đại lý.
Một số đại lý giao nhận tại Việt Nam
Công ty Việt Nam
Hãng nước ngoài
– Gemadept
– Schenker, Birkart, BJ, Ermey, Sunil
Mezario…
-Vietfracht
– TWT, Sun epress, ACS,…
-Vinatrans
– Hapag Lloyd, Zim…
Nguồn: Thống kê của Tổng công ty hàng hải Việt Nam
– Các doanh nghiệp Việt Nam từ quốc doanh tới tư nhân có xu hướng chuyển
hoạt động và nguồn thu chính sang lĩnh vực nhận đại lý cho các hãng nước
ngoài hoặc liên doanh để thành lập một công ty mới kinh doanh cùng lĩnh vực.
Điển hình như Tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines) đã thành lập
hẳn một công ty con trực thuộc là Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển
(Gemadept) chuyên kinh doanh trên lĩnh vực nhận đại lý cho một số hãng giao
nhận có tiếng như : Schenker, Birkart, BJ hay một số hãng tàu như Huyndai,
Hanjin…và thông thường nhận phí hoa hồng trên sản lượng hàng xuất hoặc
hàng nhập.
Ví dụ: Hợp đồng đại lý giữa Birkart và Gemadept quy định phí hoa hồng trả
cho hãng đại lý như sau:
– Hàng đường biển:
+ 1 container 20 feet : USD 18.00 (không kể xuất hay nhập)
+ 1 container 40 feet: USD 36.00 (không kể xuất hay nhập)
+ 1 khối hàng lẻ :5 USD (đối với hàng xuất và nhập trong Châu Á)
7 USD (đối với hàng xuất và nhập trong Châu Âu)
Nguồn thu từ hoa hồng phí chiếm chủ yếu trong doanh số của công ty
này. Lấy ví dụ: Gemadept làm đại lý cho hơn 10 hãng giao nhận lớn nhỏ,
ngoài ra còn có những thương vụ riêng của họ. Nhưng chỉ nhìn vào thu nhập
Luận văn tốt nghiệp -2003
Khoa kinh tế ngoại thương

Lê Thuỳ Hương – Nga K38E
từ hoa hồng làm đại lý cho hai hãng Birkart và Schenker, ta thấy nó chiếm một
phần đáng kể trong doanh thu của công ty này.
Doanh thu của Gemadept từ Birkart và Schenker
Tháng 1-6/2001 (Đơn vị:USD)

Hãng

1

2

3

4

5

6

Tổng
% Doanh
thu
Birkart
2,401 1,737 1,456 2,840 2,952 3,401 13,887
12%
Schenker 1,453 1,002 1,651 2,323 3,010 2,980 14,419
11.5%
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Gemadept 2001
* Tham khảo biểu đồ thị phần

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *