10191_KLTNĐH – Tiến trình Tái khởi động quan hệ Nga-Mỹ từ 2009 đến 2012 Hướng triển khai và kết quả

luận văn tốt nghiệp

BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
——————–

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Sinh viên thực hiện: Đặng Thành Đạt
Lớp: CT35A

Hà Nội – 2012

BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
——————–

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TIẾN TRÌNH “TÁI KHỞI ĐỘNG” QUAN HỆ NGA – MỸ
TỪ 2009 ĐẾN 2012: HƯỚNG TRIỂN KHAI VÀ KẾT QUẢ

Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS. Tạ Minh Tuấn
Sinh viên thực hiện: Đặng Thành Đạt
Lớp: CT35A

Hà Nội – 2012

MẪU TRANG BÌA VÀ TRANG 1 KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Khổ 140 x 200mm
LỜI CẢM ƠN
Nếu muốn gửi lời cám ơn đầu tiên
Cho em gửi tới những người thầy đáng trọng
Những “ngọn lửa thần” đã cho em hi vọng
Trong suốt tháng năm em theo học tại trường.
Đó là thầy Tạ Minh Tuấn thân thương
Người hỗ trợ em hoàn thành bài khóa luận
Dù biết rằng công việc thầy rất bận
Nhưng vẫn cho em những nhận xét kịp thời.
Em cũng muốn cám ơn một lời
Tới thầy Đỗ Sơn Hải trưởng khoa
Tới cô Đỗ Thị Thủy
Cùng những thầy cô khoa chính trị
Những người giúp em trang bị kiến thức ngành.
Lời tri ân xin gửi tới gia đình
Là mẹ cha công sinh thành nuôi dưỡng
Hai Người đã cho con phương hướng
Nâng đỡ con trên những bước đường đời
Ngày mai đây bay tới những chân trời
Sẽ vẫn không quên những lời khuyên răn ấy.
Những người bạn – cảm ơn họ biết mấy
Đã bên tôi suốt chừng ấy quãng đường
Những tình cảm quá đỗi thân thương
Một lời tri ân biết nhường nào cho đủ
Nguyện giữ trong tim và luôn thầm nhắc nhở…

Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Đặng Thành Đạt

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………. 2
CHƢƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TIẾN TRÌNH “TÁI KHỞI ĐỘNG”
QUAN HỆ NGA – MỸ
………………………………………………………………………… 8
1. Bối cảnh thế giới
…………………………………………………………………………. 8
1.1. Xu thế chung trong thời đại toàn cầu hóa
………………………………….. 8
1.2. Tính phức tạp của các vấn đề toàn cầu
……………………………………. 10
1.3. Sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa các nước lớn
……….. 11
2. Lợi ích chung của hai bên
………………………………………………………….. 14
2.1. Về chính trị – an ninh
…………………………………………………………….. 14
2.2. Về kinh tế – tài chính
……………………………………………………………… 16
2.3. Về vai trò và vị thế quốc tế …………………………………………………….. 18
3. Nhân tố lãnh đạo ………………………………………………………………………. 19
3.1. Về phía Mỹ
…………………………………………………………………………… 19
3.2. Về phía Nga …………………………………………………………………………. 20
CHƢƠNG II: NỘI DUNG TIẾN TRÌNH “TÁI KHỞI ĐỘNG” QUAN
HỆ NGA – MỸ………………………………………………………………………………….. 22
1. Nhận thức chung về tiến trình “tái khởi động” quan hệ Nga – Mỹ .. 22
1.1. Về mục tiêu của tiến trình
………………………………………………………. 22
1.2. Các tuyên bố chung từ lãnh đạo hai nước ……………………………….. 23
2. Những hướng triển khai ưu tiên…………………………………………………. 26
1

2.1. Về an ninh – chính trị ……………………………………………………………. 26
2.2. Về kinh tế – thương mại …………………………………………………………. 32
2.3. Về dân chủ – nhân quyền ……………………………………………………….. 35
2.4. Về năng lượng – môi trường ………………………………………………….. 38
CHƢƠNG III: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TIẾN TRÌNH “TÁI KHỞI
ĐỘNG” QUAN HỆ NGA – MỸ SAU BA NĂM (2009-2012) ………………. 41
1. Thành tựu
…………………………………………………………………………………. 41
1.1. Hiệp ước START mới và hợp tác an ninh – quốc phòng
…………….. 41
1.2. Sự cân bằng chiến lược trong quan hệ song phương
…………………. 43
1.3. Sự khởi sắc trong hợp tác kinh tế ……………………………………………. 45
2. Những bất đồng tồn tại
………………………………………………………………. 46
2.1. Mâu thuẫn về hệ thống phòng thủ tên lửa châu Âu …………………… 46
2.2. Bất đồng trong các vấn đề quốc tế
………………………………………….. 47
2.3. Cạnh tranh ảnh hưởng trong không gian “hậu Xô-viết” …………… 48
2.4. Những mâu thuẫn khác
………………………………………………………….. 49
3. Đánh giá nguyên nhân và hướng giải quyết
………………………………… 50
3.1. Nguyên nhân của những bất đồng
…………………………………………… 50
3.2. Hướng giải quyết ………………………………………………………………….. 53
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………. 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
…………………………………………….. 58

2

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Nghĩa tiếng Anh
Nghĩa tiếng Việt
NATO
The North Atlantic
Treat Organization
Tổ chức Hiệp ước Bắc
Đại Tây Dương
OECD
Organization for
Economic Cooperation
and Development
Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế
START
Strategic Arms
Reduction Treaty
Hiệp ước cắt giảm vũ
khí chiến lược
NPT
Non – proliferation
Treaty
Hiệp ước không phổ
biến vũ khí hạt nhân
IMF
International Monetary
Fund
Quỹ Tiền tệ quốc tế
G8
The Group of Eight
Nhóm 8 nền kinh tế lớn
nhất thế giới
IAEA
International Atomic
Energy Agency
Cơ quan năng lượng
nguyên tử quốc tế
WTO
World Trade
Organization
Tổ chức thương mại
thế giới
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
SNG (CIS)
Commonwealth of
Independent States
Cộng đồng các quốc gia
độc lập
NMD
National Missile
Defense
Phòng thủ tên lửa
quốc gia
EU
European Union
Liên minh châu Âu
ABM
Anti-Ballistic Missile
Treaty
Hiệp ước chống
tên lửa đạn đạo
PLO
Palestine Liberation
Organization
Tổ chức giải phóng
Palestine
SORT
Strategic Offensive
Reductions Treaty
Hiệp ước cắt giảm vũ
khí tiến công chiến lược

3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ giữa Nga và Mỹ trải qua
nhiều thăng trầm. Liên Xô tan rã, Mỹ trở thành siêu cường số một thế giới với
sức mạnh vượt trội trên nhiều lĩnh vực. Trong khi đó, nước Nga sau một thời
gian dài lâm vào khủng hoảng, đã từng bước tìm lại vị thế cường quốc trước
kia trong một thập niên gần đây. Sự kiện ngày 11/9/2001 đã đưa Nga và Mỹ
xích lại gần nhau trong cuộc chiến chống khủng bố trên phạm vi toàn cầu, tuy
nhiên, quãng thời gian hòa dịu ngắn ngủi đó đã bị chấm dứt sau khi cuộc
chiến giữa Nga và Grudia nổ ra vào tháng 8 năm 2008. Không lâu sau đó, vào
năm 2009, tân Tổng thống Mỹ Barack Obama, cùng với Tổng thống Nga
Dmitry Medvedev, đã quyết định thổi một làn gió mới vào “đám tro tàn” quan
hệ Nga – Mỹ bằng tiến trình tái khởi động (reset) đầy tham vọng nhưng thể
hiện quyết tâm cao từ lãnh đạo hai nước. Trải qua chặng đường ba năm, tiến
trình này đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần không nhỏ trong việc
cải thiện quan hệ Nga – Mỹ nói riêng, cũng như làm gia tăng những nhân tố
tích cực trong quan hệ quốc tế nói chung. Tuy nhiên, không thể phủ nhận
rằng, tiến trình này vẫn còn tồn tại những hạn chế xuất phát từ nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan, cùng với đó là những lo ngại về khả năng tiến
xa hơn trong thời gian sắp tới, khi Tổng thống Nga Vladimir Putin lên nắm
quyền tại điện Kremlin. Câu hỏi về sự ra đời của tiến trình “tái khởi động”
quan hệ Nga – Mỹ như thế nào, nội dung của tiến trình này là gì, thành tựu
cũng như hạn chế của tiến trình ra sao đã trở thành một trong những vấn đề
nổi trội thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu và dư luận trên
toàn thế giới. Tuy nhiên, hầu hết các công trình trước đây nghiên cứu về
chặng đường “tái khởi động” đều chỉ dừng lại ở thời điểm giữa năm 2011, do
vậy, cấp thiết cần có một đề tài nghiên cứu mới tính đến thời điểm gần đây
4

(năm 2012) để có cái nhìn tổng quan hơn về tiến trình này, và đặc biệt xem
xét tiến trình đó dưới vai trò lãnh đạo của Tổng thống mới nước Nga V. Putin.

Đề tài nghiên cứu về tiến trình “tái khởi động” quan hệ Nga – Mỹ ra
đời còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn khi hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới, thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế, nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài
nhằm phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong
đường lối đối ngoại đó, quan hệ các nước lớn luôn là một trong những ưu tiên
trọng tâm. Vì vậy, nghiên cứu mối quan hệ quốc tế đặc biệt Nga – Mỹ mang
một ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam trong việc đánh giá tình hình quốc
tế và hoạch định chính sách quốc gia.

Từ những nhận thức trên, tác giả đã chọn đề tài: “Chặng đường “tái
khởi động” quan hệ Nga – Mỹ từ năm 2009 đến 2012: hướng triển khai và kết
quả” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành quan hệ quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tiến trình “tái khởi động” quan hệ Nga – Mỹ là một trong số những đề
tài thu hút sự quan tâm của đông đảo các học giả, các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước. Trong đó, đáng chú ý có thể kể đến một số công trình sau:

Với các tác giả nước ngoài có thể kể đến bài nghiên cứu “The U.S –
Russia relations after the “Reset”: Building a new agenda. A view from
Russia” (tạm dịch Mối quan hệ Nga – Mỹ sau khi “tái khởi động”: Xây dựng
một lộ trình mới. Quan điểm từ nước Nga) [29] của các tác giả người Nga
thuộc Câu lạc bộ thảo luận quốc tế Valdai đã nêu ra một số thành tựu, hạn chế
cơ bản của tiến trình và đề xuất xây dựng một chương trình nghị sự mới với
những lĩnh vực hợp tác mở rộng trong quan hệ Nga – Mỹ trong tương lai.
Bài: “Results of the “Reset” in US – Russian relations” (tạm dịch Kết quả của
việc “Tái khởi động” trong quan hệ Mỹ – Nga) [46] của Giáo sư R. Craig
5

Nation tại Viện nghiên cứu Âu – Á và Nga thuộc Trường Cao học Hải quân
Mỹ, cũng đã khái quát những nội dung chính trong tiến trình “tái khởi động”
quan hệ Nga – Mỹ, những lợi ích còn mâu thuẫn, những thành tựu cơ bản mà
hai bên đã đạt được, từ đó dự báo về tương lai của tiến trình trong thời gian
tới. Gần đây, vào tháng 2 năm 2012, Jim Nichol, một chuyên gia nghiên cứu
về Nga và Âu – Á đã có bài : “Russian Political, Economic, and Security
Issues and U.S. Interests” [47] (tạm dịch Các vấn đề chính trị, kinh tế và an
ninh của Nga và lợi ích của Mỹ), trong đó có đề cập tới quan hệ Nga – Mỹ từ
khi “tái khởi động” tới nay, cụ thể là những tính toán lợi ích của hai bên cũng
như những thành tựu mà cả hai đã đạt được trong thời gian vừa qua.

Với các tác giả trong nước, phải kể tới bài viết “Quan hệ Mỹ – Nga đến
2020” trong cuốn “Cục diện thế giới đến 2020” [4] của tác giả Đỗ Văn Minh,
trong đó cung cấp cái nhìn tổng quan về thực trạng quan hệ Nga – Mỹ hiện
nay và tương lai phát triển của mối quan hệ này trong thập niên tới. Bài viết
“Chuyển biến trong quan hệ Mỹ – Nga dưới chính quyền Obama: Nguyên
nhân và triển vọng” [10] của tác giả Lê Linh Lan đã chỉ ra những nguyên
nhân dẫn tới dấu hiệu “tan băng” trong quan hệ Nga – Mỹ, đồng thời đánh giá
các nhân tố tác động tới triển vọng trong ngắn hạn cũng như dài hạn của mối
quan hệ này. Ngoài những bài nghiên cứu trên đây còn có một số bài viết của
nhiều tác giả khác việc đánh giá tiến trình “tái khởi động” quan hệ Nga – Mỹ
từ nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, có hai luồng quan điểm chính khi
đánh giá tiến trình này. Thứ nhất là quan điểm “bi quan” về sự thành công của
tiến trình bởi nhiều người cho rằng, giữa Nga và Mỹ tồn tại quá nhiều mâu
thuẫn khó dung hòa. Một số bài viết ủng hộ quan điểm này như “The US –
Russian Reset in Recess” (tạm dịch Tiến trình “tái khởi động” quan hệ Nga –
Mỹ lâm vào khủng hoảng) [60] của tác giả Dmitri Trenin, hay bài “U.S –
Russian Relations Difficult to Revive” (tạm dịch Quan hệ Nga – Mỹ khó có
6

thể hồi phục) [43] của tác giả Ji Zhiye. Thứ hai là quan điểm trung lập của
một số tác giả khi nhìn vào những thành tựu mà cả hai cường quốc đã đạt
được cũng như những hạn chế, và cho rằng khó có thể nói trước tiến trình này
là thành công hay thất bại, ít nhất cho tới thời điểm hiện tại. Một trong số đó
là bài “Evaluating the US – Russian “Reset” (tạm dịch Đánh giá tiến trình
“tái khởi động” quan hệ Nga – Mỹ) [61] của hai tác giả Eric Edelman và Bob
Joseph, hay bài “The US – Russia reset: A skeptical View” (tạm dịch Tái khởi
động quan hệ Nga – Mỹ: Góc nhìn hoài nghi) [39] của tác giả Volodymyr
Duboryk.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài của khóa luận không nằm ngoài mục tiêu làm rõ những nét cơ
bản trong tiến trình “tái khởi động” quan hệ Nga – Mỹ từ năm 2009 đến 2012,
bao gồm nội dung và hướng triển khai ưu tiên, đồng thời đánh giá kết quả của
tiến trình này sau ba năm thực hiện.

Như vậy, khóa luận sẽ tập trung giải quyết hai câu hỏi nghiên cứu
chính: Thứ nhất, nội dung và hướng triển khai chính của tiến trình “tái khởi
động” quan hệ Nga – Mỹ là gì. Thứ hai, tiến trình đã đạt được những thành
tựu gì, và còn những hạn chế nào tồn đọng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở hình thành, nội dung, thành tựu và
hạn chế của tiến trình “tái khởi động” quan hệ Nga – Mỹ từ năm 2009 đến
nay (tháng 5/2012); tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu sẽ có sự liên hệ với
các giai đoạn trước đó.

7

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên mục tiêu và định hướng nghiên cứu đã đề ra, đề tài sẽ sử dụng
phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp lịch sử – logic, kết hợp với
phương pháp liệt kê, phương pháp phân tích so sánh và tổng hợp.
6. Bố cục khóa luận: gồm 3 chƣơng
Chương I : Cơ sở ra đời tiến trình “tái khởi động” quan hệ Nga – Mỹ.
Chương này tập trung làm rõ những yếu tố cơ bản làm nền tảng cho sự
ra đời của tiến trình, giải thích tại sao Nga và Mỹ quyết định nhấn nút “tái
khởi động” quan hệ vào thời điểm năm 2009.
Chương II : Nội dung tiến trình “tái khởi động” quan hệ Nga – Mỹ

Đây là chương tập trung làm nổi bật những nội dung cơ bản trong tiến
trình “tái khởi động” được thỏa thuận bởi lãnh đạo hai nước Nga và Mỹ, thể
hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đồng thời, khai thác và làm rõ những
hướng ưu tiên triển khai chính.
Chương III : Đánh giá kết quả của tiến trình “tái khởi động” quan hệ Nga –
Mỹ sau ba năm (2009 – 2012)
Nội dung chính của chương này là nêu rõ những thành tựu và hạn chế
của tiến trình sau ba năm khởi động, đồng thời khai thác nguyên nhân cơ bản
dẫn tới những những hạn chế đó và rút ra hướng giải quyết.

Do sự dàn trải của vấn đề nghiên cứu, cùng với đó là giới hạn về thời
gian và trình độ chuyên môn của tác giả, do vậy những nội dung trình bày
trong khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp, phê bình từ thầy cô và bạn đọc quan tâm
để hoàn chỉnh hơn nội dung của đề tài.

8

CHƢƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TIẾN TRÌNH “TÁI KHỞI ĐỘNG”
QUAN HỆ NGA – MỸ
Với sức mạnh vượt trội sau Chiến tranh lạnh, Mỹ luôn duy trì mối quan
hệ “không cân xứng” với Nga, mà theo Giáo sư Stephen F. Cohen thì ở đó
“kẻ thắng được tất cả, kẻ thua phải mất tất cả” [35]. Quan hệ Mỹ – Nga dưới
chính quyền Tổng thống B. Clinton căng thẳng xung quanh các vấn đề như
mở rộng NATO, Kosovo và phòng thủ tên lửa. Dưới chính quyền G. Bush,
sau một thời kỳ nồng ấm ngắn ngủi sau sự kiện 11/9/2001, quan hệ Mỹ – Nga
lại bước vào thời kỳ khó khăn với đỉnh điểm là xung đột quân sự Nga –
Georgia năm 2008. Đây là va chạm chiến lược gián tiếp đầu tiên giữa Nga và
Mỹ kể từ sau Chiến tranh lạnh [10;42]. Nhìn chung, trên bản đồ toàn cầu của
Mỹ, nước Nga vẫn luôn được theo dõi chặt chẽ về mọi mặt, đảm bảo sự phát
triển của Nga không đi ngược lại lợi ích của Mỹ. Trong khi đó, Nga luôn cố
gắng kế thừa tích cực những “di sản” đáng giá do lịch sử để lại, đồng thời
theo đuổi đường lối đối ngoại đa phương, “thực dụng”, đặc biệt là với Mỹ, để
thực hiện mục tiêu trở thành một cực lớn trong thế giới đa cực [23;20]. Do đó,
với mục tiêu hàn gắn mối quan hệ Nga – Mỹ nhằm hướng đến những lợi ích
chiến lược lâu dài, chính quyền Tổng thống Obama đã khởi xướng chính sách
“tái khởi động” quan hệ hai nước ngay sau khi ông bước vào Nhà Trắng năm
2009. Tuy nhiên, xét từ cách tiếp cận của chủ nghĩa hiện thực mới có thể thấy,
sự ra đời của tiến trình này chịu sự tác động mạnh mẽ của nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan, bao gồm bối cảnh thế giới, lợi ích của Nga, Mỹ và
nhân tố lãnh đạo.
1. Bối cảnh thế giới
1.1. Xu thế chung trong thời đại toàn cầu hóa
Chiến tranh lạnh kết thúc với sự tan rã của tình trạng đối đầu Đông –
Tây, mà đại diện là Liên Xô và Mỹ, cũng từ đây, hòa bình, hợp tác và phát
triển đã trở thành xu thế chính trong quan hệ quốc tế. Các nước đều nhận thức
9

được tầm quan trọng của môi trường quốc tế ổn định mà ở đó họ có thể bắt
tay với nhau, cùng phát huy những lợi thế so sánh của từng nước nhằm phục
vụ cho mục tiêu phát triển. Ngoài ra, xu thế hội nhập khu vực và quốc tế buộc
các quốc gia phải điều chỉnh và thay đổi chính sách đối ngoại của mình. Theo
đó, tư duy mới về quan hệ quốc tế hình thành thay thế tư duy cũ, đó là cách
tiếp cận cùng thắng (win – win approach). Hầu hết các nước đều đặt lợi ích
dân tộc lên trên hết, trên cơ sở tìm mọi cách duy trì môi trường hòa bình và ổn
định về mọi mặt ở trong nước, trong khu vực cũng như trên thế giới [1;62].

Đầu thế kỷ XXI, thế giới chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của cách
mạng khoa học công nghệ với mũi nhọn là công nghệ thông tin, kinh tế tri
thức và toàn cầu hóa. Cuộc cách mạng này làm thay đổi tư duy của các nước
về thế giới quan và chiến lược đối ngoại, thay đổi phương thức quan hệ giữa
các nước, và là động lực chính đẩy nhanh sự thay đổi tương quan lực lượng
giữa các quốc gia [20;12]. Xã hội thông tin toàn cầu và sự phát triển của nền
kinh tế tri thức mở ra cho các nước những cơ hội tiếp cận và tiếp nhận những
thành quả của khoa học và công nghệ để xây dựng những ngành nghề mới có
hàm lượng kĩ thuật và tri thức cao [11;153]. Trên thực tế, cả Nga và Mỹ đều
là những nước lớn, có tiềm năng phát triển mạnh và đóng vai trò nhất định
trên bản đồ kinh tế thế giới. Mỹ hiện là nền kinh tế lớn nhất thế giới với GDP
đạt khoảng hơn 15 nghìn tỷ USD (2011), chiếm khoảng 25% GDP thế giới
[63]. Mỹ cũng là nước đi đầu trong việc xây dựng “nền kinh tế mới” dựa trên
cơ cấu dịch vụ là chủ yếu, lấy công nghệ thông tin là cơ hở hạ tầng và chất
xám là yếu tố căn bản [15;308]. Trong khi đó Nga với thế mạnh của một
“cường quốc năng lượng” cũng đang vươn lên mạnh mẽ và luôn đứng trong
tốp những nền kinh tế hàng đầu thế giới. Tại Diễn đàn Kinh tế quốc tế năm
2008, Tổng thống Nga D. Medvedev đã nói rằng sự phát triển của nền kinh tế
Nga trong những năm tới sẽ dựa trên 5 trụ cột lớn, 5 trụ cột quan trọng nhất
tương đương với 5 chữ “I”, đó là: thể chế (institution), cách tân (innovation),
10

hạ tầng (infrastructure), đầu tư (investment) và tri thức (intellect) [23;22]. Rõ
ràng, cả Mỹ và Nga đều mong muốn “hòa mình” một cách tích cực nhất vào
xu thế chung của thời đại, tranh thủ nhiều hơn nữa những mặt tích cực do
cuộc cách mạng khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức mang lại. Toàn
cầu hóa đã làm cho Mỹ và Nga phụ thuộc chặt chẽ vào nhau và với các nước
khác. Và “khi lợi ích giữa các quốc gia đan xen vào nhau đồng thời ngày càng
phụ thuộc lẫn nhau thì tư duy về đối ngoại và phương thức quan hệ quốc tế
cũng thay đổi mạnh mẽ” [20;13].
1.2. Tính phức tạp của các vấn đề toàn cầu
Hiện nay, những vấn đề toàn cầu phức tạp đang thách thức mọi quốc
gia trên toàn thế giới. Việc giải quyết các vấn đề toàn cầu đòi hỏi phải có sự
đầu tư về phương tiện vật chất, sự hợp tác quốc tế về mọi mặt không phân
biệt chế độ xã hội, tôn giáo, chính kiến, hệ tư tưởng; đòi hỏi sự nỗ lực tối đa
của cả nhân loại về mặt nhận thức lẫn hành động thực tế [12;12]. Thực tế, cả
Mỹ và Nga đều là những quốc gia phải đối mặt trực tiếp với hàng loạt các vấn
đề toàn cầu từ nhiều thập kỷ nay. Với vai trò là những nước lớn, Nga và Mỹ
còn đóng vai trò là những nhân tố then chốt trong các cơ chế giải quyết vấn đề
toàn cầu trong phạm vi khu vực và quốc tế. Năm 2001, sau sự kiện 11/9, một
mặt trận chống khủng bố trên phạm vi toàn cầu do Mỹ lãnh đạo đã trở thành
“chất keo dính” quan hệ Nga – Mỹ, đưa hai quốc gia vốn lạnh nhạt trở thành
những người bạn đứng trên cùng một chiến tuyến. Thậm chí Mỹ đã tuyên bố
rằng: chống khủng bố đã trở thành ưu tiên của chính sách đối ngoại Mỹ, là
tiêu chí để phân định bạn thù trong thời điểm hiện nay [5;24]. Sau nhiều nỗ
lực của cả hai quốc gia, vẫn chưa thể khẳng định rằng cuộc chiến này đã
thành công, bởi lẽ mạng lưới khủng bố vẫn đang hoạt động rộng khắp, với
những hình thức ngày càng tinh vi hơn. Đây chính là bàn đạp để Nga và Mỹ
vẫn cần đến nhau trong nỗ lực chung giải quyết vấn đề toàn cầu này. Tuy
nhiên, khủng bố không chỉ là vấn đề toàn cầu duy nhất gắn kết mối quan hệ
11

Nga – Mỹ. Trong hơn nửa thế kỷ qua, cộng đồng quốc tế đã chứng kiến
những cố gắng đáng kể của hai nước trong việc hướng tới một thế giới không
có vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, trên thực tế số nước có vũ khí hạt nhân lại
đang tăng lên mặc dù, nhìn tổng thể số lượng vũ khí hạt nhân đã giảm đi.
Theo thống kê, trên thế giới hiện nay có 10 nước có vũ khí hạt nhân và có thể
còn tăng lên trong tương lai [28;37]. Sau những thành công bước đầu của cả
Nga và Mỹ trong việc cắt giảm số lượng vũ khí hạt nhân, cộng đồng quốc tế
vẫn rất cần sự hợp tác sâu rộng hơn nữa của hai cường quốc này. Do đó, quan
hệ hợp tác Nga – Mỹ nhiều khả năng vẫn còn kéo dài trong thời gian tới.
Ngoài ra, còn nhiều vấn đề toàn cầu khác như biến đổi khí hậu, sự gia tăng số
lượng tội phạm xuyên quốc gia, khó khăn của nền kinh tế thế giới, sự phức
tạp của vấn đề nhân quyền,… đang thách thức hầu hết các quốc gia. Rõ ràng,
hiệu quả giải quyết những vấn đề đó chỉ có thể đạt được thông qua cơ chế đa
phương, mà cụ thể là thông qua vai trò của hai cường quốc Nga, Mỹ với
những ưu thế nổi trội về tài chính, khoa học công nghệ và sự tín nhiệm.
1.3. Sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa các nước lớn
Dưới tác động của quy luật phát triển không đồng đều giữa các quốc
gia, tương quan lực lượng giữa các nước liên tục thay đổi. Nếu như tại thời
điểm đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Mỹ là siêu cường duy nhất còn lại
trên thế giới với sức mạnh ưu việt trên tất cả các lĩnh vực, thì ở thời điểm hiện
tại, vị trí ấy của Mỹ đang bị thách thức bởi nhiều nước và nhóm nước khác,
trong đó có Nga. Hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng, cục diện cơ bản của thế
giới tuy vẫn là “nhất siêu đa cường” nhưng vận động nhanh hơn theo hướng
đa cực, đa trung tâm hóa, trong đó vị thế siêu cường của Mỹ ngày càng suy
yếu và so sánh lực lượng ngày càng bất lợi hơn cho Mỹ.

Về kinh tế, Mỹ hiện đang phải đối mặt với nhiều khó khăn lớn, đặc biệt
là tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao (9%), thâm hụt ngân sách nặng (nếu như
trong những năm 90, thặng dư mậu dịch hằng năm lên tới hàng trăm tỉ USD
12

thì đến 2009, thâm hụt ngân sách liên bang chiếm khoảng 10% GDP
[22;100]), nợ công tăng gần 100% GDP (khoảng 15 nghìn tỷ USD vào quý III
năm 2011, được coi là ngưỡng nguy hiểm với nền kinh tế Mỹ), đồng thời bị
đánh tụt hạng về mức độ tín ngưỡng tài chính. Mỹ cũng bị tụt xuống vị trí thứ
ba về thương mại quốc tế (sau Trung Quốc và EU). Hệ thống tài chính Mỹ
bộc lộ rõ những khuyết điểm mang tính hệ thống, đây là nguyên nhân dẫn tới
làn sóng biểu tình mang tên “Chiếm lấy phố Wall” tại quốc gia này năm 2011.
Mỹ cũng không còn chiếm vị trí số một trong lĩnh vực khoa học – công nghệ
mà bị một số đối thủ khác như Nhật Bản, Tây Âu, Trung Quốc,…cạnh tranh.
Về quân sự, tuy có quân đội mạnh nhất thế giới nhưng bị “căng mỏng” vì
triển khai quá nhiều nơi, sức mạnh của quân đội Mỹ không phát huy hết tác
dụng trước các thách thức an ninh mới. Sự ủng hộ của dân chúng và Quốc hội
Mỹ dành cho các cuộc phiêu lưu quân sự giảm sút, cùng với đó là những khó
khăn về kinh tế đã làm giảm khả năng triển khai quân sự của Mỹ [21;58].
Việc Mỹ chỉ nắm quyền chỉ huy trong thời gian đầu của cuộc không kích
Libya và sau đó trao quyền chỉ huy cho NATO vào tháng 3/2011 là minh
chứng rõ rệt cho điều này. Về ngoại giao, uy tín của Mỹ trên thế giới đang
trên đà suy giảm, đặc biệt là ở Trung Đông, các nước Mỹ La-tinh, Cộng đồng
các quốc gia độc lập (SNG) và trên các diễn đàn quốc tế sau khi Washington
can thiệp một cách máy móc, nhiều khi là thô bạo vào công việc nội bộ của
nước khác, xuất phát từ thuyết “Ngoại giao chuyển hoán” cũng như sự tin
tưởng của quốc gia này vào sức mạnh dân chủ, tiền bạc và vũ khí [22;102].

Trong khi đó, Nga ngày càng chứng tỏ tiềm năng mạnh mẽ của mình
trên nhiều lĩnh vực với mong muốn lấy lại vị thế “siêu cường” đã từng có
trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Sau một thời gian dài khủng hoảng do hệ quả
của đối đầu Xô – Mỹ, từ năm 2000, dưới sự lãnh đạo của Tổng thống V.
Putin, nước Nga từng bước thoát khỏi khó khăn, lập lại ổn định chính trị và
cải thiện vị thế quốc tế. Trên cơ sở thế và lực ngày càng tăng, chính quyền
13

Nga đặt mục tiêu chấn hưng đất nước thông qua việc thực hiện Chiến lược
phát triển đến năm 2020, Học thuyết quân sự và đối ngoại mới. Trong đó
Chương trình Phát triển kinh tế – xã hội từ nay đến 2020 chia thành hai giai
đoạn (từ năm 2007 đến 2012 và từ năm 2013 đến 2020), dự kiến GDP của
Nga vào năm 2012 sẽ tăng 35-36% so với năm 2007, năm 2020 sẽ tăng 63-
69% so với 2012 [23;19]. Nga quyết tâm đứng vào nhóm 5 nước có tiềm lực
kinh tế hàng đầu thế giới, duy trì cân bằng chiến lược với phương Tây và khôi
phục lại vị trí cường quốc vốn có. Nga được đánh giá đã vượt qua cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 khá tốt, và khôi phục lại mức
sản lượng tiền khủng hoảng chỉ hai năm sau đó (2011). So với năm 2005,
GDP trên đầu người của Nga đã tăng gấp đôi, ước tính đạt khoảng 10,360
USD vào năm 2010 [84]. Nga đã trở thành thành viên chính thức của WTO,
thành viên của G8, G20 và đang đứng trong hàng ngũ các nhà cung cấp chính
cho các quỹ đối phó với khủng hoảng và viện trợ phát triển. Giới phân tích
cho rằng, tuy chưa hết khó khăn nhưng rõ ràng nước Nga đang có tiềm năng
lớn mạnh về kinh tế để thực hiện mơ ước của mình [23;19]. Nước Nga ngày
nay đang nỗ lực để gia tăng tiếng nói và tầm ảnh hưởng trong SNG, sẵn sàng
tham gia đóng góp cùng cộng đồng quốc tế để giải quyết các vấn đề toàn cầu,
tăng cường quan hệ với các đối tác nước ngoài, đồng thời tham gia vào các
luật chơi mới để thực hiện mục tiêu trở thành một cực lớn trong một thế giới
đa cực. Điều này được thể hiện rất rõ trong “Những định hướng cơ bản trong
chính sách đối ngoại của Liên bang Nga” do Tổng thống D. Medvedev thông
qua năm 2008, trong đó nhấn mạnh “nước Nga ngày nay đã trỗi dậy với thế
và lực mới, có được vai trò đầy đủ trong các vấn đề toàn cầu” [14;104].
Như vậy, trong khi Nga đang nỗ lực vươn lên vị thế của một cường
quốc như đã từng có trong quá khứ thì Mỹ cũng nỗ lực vực dậy những khó
khăn của quốc gia này để đảm bảo chiếc ghế siêu cường không bị thách thức.
14

Mỹ cũng phải chấp nhận một thực tế đó là thế giới đang dần trở nên bằng
phẳng hơn và việc duy trì một môi trường quốc tế đơn cực là điều không thể.
2. Lợi ích chung của hai bên
Có thể nói, trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các quốc gia ngày càng chặt chẽ như hiện nay, hợp tác có lẽ là cách tốt nhất
để đảm bảo những lợi ích chung của cả Nga và Mỹ.
2.1. Về chính trị – an ninh
Không chỉ riêng Tổng thống Obama mà từ trước đó, khi Tổng thống G.
Bush còn đương nhiệm, Mỹ đã coi khủng bố hạt nhân là nguy cơ lớn nhất đe
dọa tới an ninh quốc gia. Với sức mạnh hạt nhân như hiện tại, sự ủng hộ và
hợp tác của Nga có ý nghĩa rất quan trọng với Mỹ trong việc ngăn ngừa một
cuộc chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra bởi cả hai nước nắm trong tay 95% số
đầu đạn hạt nhân của toàn thế giới. Bên cạnh đó, Nga cũng đóng vai trò đáng
kể cùng với Mỹ ngăn chặn sự lan rộng của vũ khí hạt nhân, sự phổ biến của
công nghệ chế tạo vũ khí hạt nhân mà không chỉ các quốc gia, mà cả các lực
lượng phi quốc gia cũng nỗ lực để sở hữu chúng trên phạm vi toàn cầu [31;9].
Với Mỹ, khủng bố vẫn luôn là một mối đe dọa về an ninh, nếu Nga không hỗ
trợ, Mỹ sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn để bảo đảm lợi ích của chính
nước Mỹ, cũng như sự an toàn của cả nhân loại. Ngược lại, nếu đồng ý hợp
tác trong việc ký kết một hiệp ước kiểm soát vũ khí hạt nhân mới, hay đứng
cùng hàng ngũ với Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, Nga sẽ đạt
được những lợi ích nhất định. Thứ nhất, về mặt uy tín, việc Mỹ mong muốn
hợp tác với Nga chứng tỏ Mỹ đã thừa nhận vị thế của Nga như một cường
quốc trong cân bằng chiến lược với Mỹ. Nói cách khác, việc ngồi vào bàn
đàm phán với Mỹ để thảo luận những vấn đề quan trọng đã thể hiện uy thế
của nước Nga với tư cách là một đối tác ngang tầm và đặc biệt của Mỹ [44;9].
Thứ hai, về mặt an ninh, hợp tác với Mỹ cho phép Nga giữ được cân bằng hạt
nhân với quốc gia này, hơn nữa, trong cuộc chiến chống khủng bố với Mỹ,
15

Nga có thể lợi dụng nó để đẩy mạnh chiến dịch chống lực lượng ly khai
Chechnya, cũng như kiềm chế lực lượng Hồi giáo quá khích ở Nga [4;382].
Hợp tác với Mỹ còn giúp Nga có cơ hội đàm phán về vấn đề hệ thống phòng
thủ tên lửa ở châu Âu cũng như việc mở rộng lãnh thổ của NATO tại khu vực
ảnh hưởng của Nga – đây đều là những vấn đề Nga đang rất quan tâm ở thời
điểm hiện tại.

Với tư cách là hai nước lớn, đồng thời là những nhân tố quan trọng
trong các cơ chế hợp tác quốc tế, cả Nga và Mỹ đều mong muốn sự hợp tác
giữa hai nước sẽ góp phần mang lại những giải pháp hữu hiệu cho các vấn đề
toàn cầu hiện nay. Nga hiện là quốc gia đứng thứ 3 thế giới về lượng khí thải
nên Mỹ cần sự hợp tác chặt chẽ của Nga trong việc tìm ra hướng giải quyết
cho các cuộc thảo luận về biến đổi khí hậu vốn đang bị bế tắc. Nga cũng là
quốc gia phải đối mặt với sự bùng nổ của các tổ chức tội phạm, ước tính có
khoảng 3.500 tổ chức đang hoạt động trên toàn lãnh thổ từ sau khi Liên Xô
tan rã [12;147], do đó, Nga thực sự cần đến sự hỗ trợ của Mỹ để giải quyết
vấn để này. Ngoài ra, còn nhiều vấn đề toàn cầu phức tạp khác đã trở thành
“chất keo dính” giữa Washington và Moscow trong nỗ lực chung nhằm tìm ra
những giải pháp hiệu quả như buôn lậu ma túy, nạn rửa tiền hoặc làn sóng di
dân,…Đặc biệt, Nga và Mỹ còn cần đến nhau trong việc giải quyết các cuộc
xung đột quốc tế như vòng đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân trên bán đảo
Triều Tiên, chương trình hạt nhân của Iran, vấn đề nhân quyền tại Syri,…

Trong tính toán chiến lược của Mỹ, Nga luôn được coi là ưu tiên hàng
đầu vì nước này có có vị trí địa – chính trị đặc thù, đó là vị trí án ngữ giữa các
cường quốc Đại Tây Dương cũ và các cường quốc châu Á – Thái Bình Dương
mới, như lời một quan chức Ngoại giao Mỹ từng nói: nước Nga giữ chiếc chìa
khóa có thể mở hoặc đóng những cánh cửa khác [6;71]. Do vậy, những cuộc
xung đột quốc tế có thể xảy ra trong tương lai do hệ quả của quá trình toàn
cầu hóa sẽ làm vị trí của Nga ở trung tâm Âu – Á trở thành thứ “hàng hóa
16

chiến lược” mà Mỹ không thể không quan tâm. Thực tế, tất cả các cuộc xung
đột quốc tế (nhất là những cuộc xung đột ở bên cạnh lãnh thổ Nga) khiến Mỹ
lo ngại sẽ không thể được giải quyết triệt để nếu thiếu sự tham gia trực tiếp
hay gián tiếp của Nga [16;51]. Ngoài ra, những mối quan hệ truyền thống, các
kênh ảnh hưởng và uy tín của Nga ở một loạt nước và khu vực trên thế giới
biến Nga thành một trung gian có hiệu quả giữa các nước và khu vực đó với
Mỹ [16;52]. Ngoài ra, một mối quan ngại chung mà cả Nga và Mỹ đều đang
chia sẻ với nhau đó là sự vươn lên mạnh mẽ của một số quốc gia cạnh tranh
trực tiếp với lợi ích của Nga và Mỹ, đặc biệt là Trung Quốc. Rõ ràng, nếu bản
đồ quyền lực thế giới có sự thay đổi và được phân bổ lại với vai trò ngày càng
tăng của các quốc gia này, thì không chỉ Mỹ mà cả Nga cũng sẽ bị ảnh hưởng
đáng kể về mặt lợi ích. Không chỉ có vậy, nếu Nga, Mỹ không hợp tác với
nhau, thay vào đó một trong hai bên thực thi chiến lược kiềm chế bên còn lại,
thì rất có khả năng hoặc Nga hoặc Mỹ sẽ thắt chặt quan hệ với một quốc gia
thứ ba để tạo đối trọng quyền lực với bên kia. Trên thực tế, Nga đã từng rất lo
ngại về nhóm G2 Trung – Mỹ, coi đây là thách thức lớn đối với lợi ích của
Nga khi hai nền kinh tế lớn nhất thế giới hợp tác với nhau. Trong khi đó, việc
Nga và Trung Quốc có những động thái “thân mật” 1 cũng trở thành nguy cơ
thực sự đối với Mỹ trong việc duy trì vị trí lãnh đạo toàn cầu. Do vậy, để bảo
vệ những lợi ích của cả Nga và Mỹ trước những thách thức từ bên ngoài, hai
nước cần thiết phải hợp tác với nhau trên nhiều phương diện.
2.2. Về kinh tế – tài chính
Nền kinh tế thế giới đang gặp phải những khó khăn sau cuộc khủng
hoảng tài chính, do vậy, hai nước nhận thấy sự cần thiết phải hợp tác với nhau

1 Nga và Trung Quốc đã ký “Quan hệ đối tác chiến lược hướng tới thế kỷ XXI” (1996), “Tuyên bố
Nga – Trung về thế giới đa cực và thiết lập trật tự thế giới mới” (1997), và “Hiệp ước láng giềng
hữu nghị và hợp tác” (2001). Theo Hoàng Anh Tuấn (2005), “Quan hệ đối tác chiến lược Nga –
Trung Quốc: thực chất và triển vọng”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế (3/2005), (60), tr.37

17

để đẩy nhanh quá trình hồi phục và thúc đấy tăng trưởng. Với Nga, Mỹ là đối
tác hàng đầu trong công cuộc hiện đại hóa nền kinh tế, với tiềm năng dồi dào
về vốn, thế mạnh về khoa học kỹ thuật, công nghệ, kỹ năng quản lý, cũng như
tiếng nói của Mỹ trong các tổ chức kinh tế – tài chính toàn cầu. Ngay sau
Chiến tranh lạnh, Tổng thống Nga B. Enxin đã theo đuổi chính sách thân Mỹ
và khẳng định: “Chúng ta (nước Nga) phải tăng cường đáng kể véctơ kinh tế
trong chính sách đối ngoại” [7;93]. Trong chính sách đối ngoại của các đời
Tổng thống Nga sau đó, quan hệ kinh tế với Mỹ chưa khi nào được xem nhẹ.
Nga cần sự đầu tư của Mỹ để cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng trong nước, học
hỏi công nghệ tiên tiến, đồng thời hỗ trợ Nga trong các ngành công nghiệp
mũi nhọn. Ngoài ra, Nga cũng cần Mỹ trong việc liên kết với các tổ chức, thể
chế kinh tế toàn cầu nhằm hướng tới mục tiêu hiện đại hóa nền kinh tế; thúc
đẩy lợi ích của Nga trong các liên kết kinh tế khu vực nhằm tạo điều kiện tối
đa cho các doanh nghiệp Nga tại những khu vực đó.

Về phần mình, Mỹ tìm thấy những lợi ích nhất định trong hợp tác năng
lượng với Nga. Là một cường quốc kinh tế, năng lượng với Mỹ đóng vai trò
vô cùng quan trọng2, trong khi đó Nga lại là cường quốc số 2 thế giới về xuất
khẩu dầu và số 1 về khí đốt. Mỹ luôn mong muốn thúc đẩy hoạt động của các
tập đoàn năng lượng của Mỹ tại Nga nhằm đảm bảo một chính sách năng
lượng độc lập trong khi Nga cần ở Mỹ kỹ năng quản lý và những tiến bộ về
công nghệ từ các tập đoàn đó để giúp Nga phát triển hơn nữa lĩnh vực thế
mạnh này, đồng thời hỗ trợ Nga trong việc khai thác những nguồn năng lượng
đang gặp khó khăn do trở ngại về mặt địa lý [40;10]. Ngoài ra, các doanh

2 Mặc dù đứng thứ 11 về trữ lượng dầu mỏ, thứ 6 về trữ lượng gas, Mỹ vẫn phải nhập tới 2/3 trong
tổng mức tiêu thụ 24,4 triệu thùng dầu/ngày, chiếm 25% tổng lượng tiêu thụ dầu mỏ toàn thế giới,
thông tin chi tiết được đề cập trong bài “Ngoại giao năng lượng: Trụ cột mới trong chính sách đối
ngoại của Nga”, Tạp chí online Sở Ngoại vụ Đà Nẵng,
(http://www.fad.danang.gov.vn/default.aspx?id_NgonNgu=VN&id_ThucDon_Sub=200&TinChinh
=0&id_TinTuc=2846&TrangThai=BanTin)

18

nghiệp Mỹ còn mong muốn bỏ vốn nhiều hơn vào các ngành thế mạnh khác
của Nga bởi nền kinh tế này đang có những chính sách ưu đãi thu hút đầu tư
nước ngoài nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài. Hơn nữa,
Mỹ cũng cần đến Nga trong việc phối hợp điều chỉnh và cải tổ các thể chế
kinh hiện nay như IMF, gia tăng vai trò của các tổ chức như G8, G20,….
2.3. Về vai trò và vị thế quốc tế
Có thể nói, nền tảng quan hệ Nga – Mỹ còn bắt nguồn từ nhận thức của
mỗi bên về vai trò, sức mạnh và vị thế của bên còn lại trong môi trường quốc
tế hiện nay. Trong tính toán của Mỹ, Nga là một nước lớn và sự phát triển của
Nga trong thời gian gần đây thu hút sự chú ý đặc biệt không chỉ của Mỹ mà
của cả cộng đồng quốc tế. Chủ tịch Hội đồng Quan hệ đối ngoại Mỹ, ông
Richard Haass cho rằng: đường hướng phát triển của nước Nga sẽ là nhân tố
chủ chốt quyết định tính chất của thế kỷ XXI cũng như nó đã từng vậy trong
thế kỷ XX. Nhận định này được đưa ra dựa trên những thế mạnh của nước
Nga, đó là: tốc độ tăng trưởng kinh tế kỷ lục trong thời gian gần đây, vị thế
Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, nắm trong tay kho vũ
khí hạt nhân thuộc hàng lớn nhất thế giới, sở hữu trữ lượng dầu mỏ khổng lồ
và các khoáng sản quý…Ví dụ, chỉ riêng trong lĩnh vực dầu mỏ, mọi động
thái của Nga trong chính sách năng lượng cũng có thể tác động khiến cho giá
dầu thế giới tăng lên hay giảm xuống [8;101]. Dưới góc độ an ninh quốc gia,
Nga có chiều sâu chiến lược lớn nhất thế giới. Trong chiến tranh thông
thường và trong chiến tranh hủy diệt có sử dụng vũ khí hạt nhân, cả trong
phòng thủ và tấn công, Nga có lợi thế hơn các cường quốc khác [9;95]. Thực
tế cho thấy, trải qua nhiều thăng trầm, Liên bang Nga giờ đây dường như đã
hội tụ đầy đủ các yếu tố làm nên sức mạnh của một cường quốc thời kỳ “hậu
Xô viết” [8;100]. Về phía Nga, Tổng thống Nga D. Medvedev đã từng khẳng
định: vấn đề tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi, hòa bình, ổn định và an
ninh, tập trung các ưu tiên cho phát triển kinh tế, chấn hưng nước Nga, đưa
19

nước Nga trở lại vị thế cường quốc thế giới hùng mạnh, có vai trò, vị thế quốc
tế xứng đáng với tiềm năng, tiềm lực và truyền thống của nước Nga trong trật
tự thế giới đa cực đang hình thành [8;103]. Để làm được điều đó, ngay từ đầu
Nga đã xác định hợp tác với Mỹ như một hướng ưu tiên quan trọng trong
chính sách đối ngoại của quốc gia này. Mặc dù đang còn phải đối mặt với
nhiều khó khăn cả trong và ngoài nước nhưng có thể khẳng định rằng trong
tương lai gần, khó có cường quốc nào có đủ sức mạnh tổng hợp để thách thức
vị trí siêu cường của Mỹ. Mỹ không chỉ là nền kinh tế lớn nhất thế giới mà
còn có ưu thế vượt trội trên nhiều lĩnh vực. Hơn nữa, Mỹ còn có thế mạnh về
thị trường vốn, cùng với đó là môi trường kinh doanh cởi mở, hấp dẫn các
nhà đầu tư. Về quân sự, Mỹ vẫn là nước duy nhất trên thế giới có khả năng
triển khai quân trên phạm vi toàn cầu với chi phí quốc phòng hằng năm chiếm
hơn 50% tổng chi phí của thế giới [15;312]. Hơn thế nữa, Mỹ còn có tiếng nói
chủ chốt trong nhiều tổ chức liên kết kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự ở cấp
độ các khu vực và trên toàn thế giới. Hệ thống đồng minh của Mỹ trải dài qua
các châu lục và sự hiện diện của Mỹ có thể nói là phủ rộng toàn cầu. Với sức
mạnh và vị thế của một siêu cường thế giới, Mỹ chắc chắn vẫn đóng vai trò
quan trọng mà Nga không thể xem nhẹ, đúng như Tổng thống Medvedev đã
từng tuyên bố khi lên nhậm chức vào năm 2008: “Chúng tôi sẽ phát triển một
cách mạnh mẽ nhất có thể mối quan hệ thân thiện với Mỹ” [23;21].
3. Nhân tố lãnh đạo
3.1. Về phía Mỹ
Việc Tổng thống Mỹ B. Obama – một nhà lãnh đạo ôn hòa đắc cử vào
nhà Trắng có thể coi là nhân tố quan trọng dẫn tới sự hòa dịu trong quan hệ
Nga – Mỹ. Do phải đương đầu với những thách thức rất lớn khi thừa hưởng
một di sản nặng nề của vị Tổng thống tiền nhiệm, ông Obama đã quyết định
tiến hành một loạt những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại, trong đó có
định hướng lại quan hệ với Nga. Ngay trong chiến dịch vận động tranh cử,
20

Tổng thống Obama đã hứa hẹn sẽ có nhiều “thay đổi” khi ông lên nắm quyền,
và nhấn mạnh: “Sức mạnh của chúng ta tăng lên thông qua việc sử dụng nó
một cách thông minh” [52]. Theo đó, Mỹ thay đổi cách tiếp cận mới, thực
dụng hơn để tối ưu hóa nguồn lực có hạn, khôi phục thế giảm sút, tăng cường
hợp tác quốc tế để đối phó hiệu quả hơn với các “điểm nóng” và các nguy cơ
an ninh phi truyền thống, khắc phục di sản của nền ngoại giao nặng nề về
hành động quân sự và đơn phương [27;107]. Học thuyết “quyền lực thông
minh” của Obama cho phép Mỹ kết hợp cùng một lúc cả đầu tư, viện trợ phát
triển, ngoại giao mềm dẻo và răn đe quốc phòng, điều này có phần khác so
với chủ nghĩa đơn phương của G. Bush là nghiêng về dùng “sức mạnh cứng”,
nhất là biện pháp quân sự và trừng phạt kinh tế [22;103]. Phương châm của
nền ngoại giao Obama là thêm đối tác, bớt đối thủ, đồng thời thể hiện mong
muốn của Mỹ muốn làm bạn với tất cả các nước [19;111]. Đây chính là điểm
mấu chốt dẫn đến thái độ mềm dẻo của Mỹ đối với Nga so với giai đoạn trước
năm 2009, từ đó đưa đến quyết định “tái khởi động” quan hệ Nga – Mỹ của
chính quyền Tổng thống Obama.
3.2. Về phía Nga

So với Mỹ, chiến lược đối ngoại của Nga khi Tổng thống D. Medvedev
lên nắm quyền không có sự thay đổi quá lớn. Là người thân cận với cựu Tổng
thống V. Putin, nên đường hướng đối ngoại mới do Tổng thống D. Medvedev
đưa ra là sự tiếp nối về cơ bản so với đường lối đối ngoại của người tiền
nhiệm. Ngay từ khi lên nắm quyền, Tổng thống Medvedev đã nhiều lần khẳng
định sự kế thừa trong chính sách đối ngoại được khởi xướng dưới thời Tổng
thống Putin. Ngày 12/7/2008, Tổng thống Medvedev đã công bố văn kiện
“Học thuyết chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga”. Đây là văn kiện bổ
sung và phát triển “Học thuyết đối ngoại của Liên Bang Nga” được thông qua
năm 2000, sau khi Tổng thống Putin chính thức bước vào điện Kremlin. Năm
2010, Nga công bố 3 văn kiện quan trọng liên quan đến chiến lược đối ngoại,
21

bao gồm: Học thuyết quân sự mới, Chiến lược an ninh quốc gia mới và
Chương trình sử dụng một cách hiệu quả chính sách ngoại giao trong phát
triển lâu dài của nước Nga. Tất cả những văn kiện này đều khẳng định: “Mục
tiêu đối với chiến lược mới trong chính sách đối ngoại của Nga sẽ không có
thù và bạn, chỉ có quyền lợi” [17;20]. Từ đó cho thấy, chính sách đối ngoại
của Tổng thống Medvedev và Thủ tướng Putin mang tính “thực dụng” hơn,
trong đó Nga xác định quan hệ với Mỹ là một trong hai đối tác quan trọng
nhất. Trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của D. Medvedev, Putin vẫn là nhân tố
chính trị then chốt và nhiều người cho rằng mọi quyết định của Tổng thống
Medvedev đều có “bóng dáng” của Thủ tướng Putin. Thủ tướng Putin đã
đồng ý làm ấm lại quan hệ song phương với Mỹ mặc dù trên thực tế, chưa khi
nào ông sử dụng cụm từ “tái khởi động” [55]. Như vậy, sự đồng thuận của
cặp đôi Medvedev – Putin trong việc cải thiện và nâng tầm quan hệ với Mỹ đã
góp phần tạo nền tảng để hai nước có những bước tiến xa hơn sau đó.
Tiểu kết: Xu thế tăng cường đối thoại hợp tác trong thời đại toàn cầu
hóa, tình trạng phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, cùng với đó là vai trò
của kinh tế tri thức và tính phức tạp của các vấn đề toàn cầu đã đưa Nga – Mỹ
xích lại gần nhau sau những căng thẳng năm 2008. Tuy nhiên, điều quan
trọng đó là, lãnh đạo hai nước – hai vị tân tổng thống B. Obama và D.
Medvedev – đã nhận thức được sự cần thiết phải làm cho mối quan hệ đó trở
nên hiệu quả hơn, xuất phát từ sự thay đổi trong tương quan so sánh lực lượng
của mỗi nước trên bản đồ chính trị thế giới thời gian gần đây, đặc biệt là từ
những lợi ích chiến lược của hai nước. Tất cả những cơ sở này đã tạo bước đà
đưa đến quyết định của hai nhà lãnh đạo Nga, Mỹ về một chương trình “tái
khởi động” trải rộng trên nhiều lĩnh vực, với những mục tiêu và biện pháp cụ
thể.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *