Tiểu luận triết học
1
Phần I
LỜI MỞ ĐẦU
Từ lịch sử xa xưa, trải qua bao thời gian đến nay dù ở thời đại nào, xã
hội nào thì hình thái kinh tế xã hội cũng luôn luôn tồn tại và phát triển hoặc tụt
lùi theo sự phát triển của xã hội đó. Khi ta nhìn vào vấn đề hình thái kinh tế –
xã hội của một nước nào đó ta sẽ thấy xã hội đó lớn mạnh và phát triển hoặc
ngược lại. Nói đến hình thái kinh tế xã hội là ta phải nói đến một chính thể toàn
vẹn cơ cấu phức tạp chứ không thể nói đến những thứ riêng lẻ được, nó phải
đan xen nhau, có quan hệ không thể tách rời nhau được và chính mặt toàn vẹn
này thì ta mới có được một hình thái kinh tế – xã hội cần có và phải có hình thái
kinh tế – xã hội vạch rõ kết cấu cơ bản, phổ biến của mọi xã hội, qui luật vận
động và phát triển tất yếu của xã hội đó, vậy ta phải đi nghiên cứu sâu về
những vấn đề tác động trực tiếp là yếu tố chính để xây dựng lên hình thái kinh
tế – xã hội. Nghiên cứu về lực lượng sản xuất vì đó là nền tảng vật chất – kĩ
thuật của mỗi hình thái kinh tế – xã hội, về quan hệ sản xuất quan hệ giữa người
với người trong quá trình sản xuất, kiến trúc thượng tầng, quan hệ gia đình, xã
hội. Đây chính là những điểm mấu chốt quan trọng nhất mà ở thời kì nào từ
trước kia đến bây giờ cũng phải quan tâm và coi đó là mục tiêu chính để phát
triển những mặt đó không cái nào có thể tách rời cái nào được. Không thể
không quan tâm đến lực lượng sản xuất mà chỉ quan tâm đến quan hệ sản xuất
được, cũng như kiến trúc thượng tầng và các mối quan hệ dân tộc, gia đình, xã
hội. Những mặt cơ bản này phải luôn tồn tại song song và phải có mối quan hệ,
cũng là quan trọng, nếu một trong những mặt đó mất đi thì xã hội sẽ phát triển
theo cách khác chứ không như bây giờ. Hình thái kinh tế – xã hội là nên tảng
cốt lõi của mọi xã hội, dù xã hội đó là xã hội lạc hậu, nghèo đói hay văn minh
Tiểu luận triết học
2
giàu có thì các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất kiến trúc thượng
tầng… vẫn luôn tồn tại và phát triển với mức phát triển khác nhau nhưng mục
đích chính của những nước đó là thúc đẩy phát triển mọi mặt trong xã hội để xã
hội đó phát triển hơn nữa. Muốn vậy thì mỗi xã hội phải có đầy đủ các mặt đã
nêu ở trên với sự quan hệ chặt chẽ và đoàn kết cùng xây dựng các quan hệ, cơ
sở vật chất, yếu tố xã hội đi từ lực lượng sản xuất vì đó là nền tảng của mỗi
hình thái kinh tế – xã hội. Quan hệ sản xuất luôn gắn liền với lực lượng sản xuất
vậy phải tìm ra những điểm tích cực và điểm yếu của 2 mặt này để khắc phục
và đi sâu hơn từ đó mới hợp thành kiến trúc thượng tầng để hình thành nên
những quan điểm pháp lí, đạo đức, triết học… Đi sâu vào nghiên cứu và phát
triển các thế mạnh của đất nước của xã hội, tìm phương hướng giải quyết các
mâu thuẫn trong các mặt đó để mỗi hình thái kinh tế – xã hội ngày càng phát
triển đi lên.
Tiểu luận triết học
3
Tiểu luận triết học
4
Phần II
NỘI DUNG
I. HỌC THUYẾT VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI
1) Hình thái kinh tế – xã hội
+ Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên
quan hệ sản xuất ấy. Với từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định thì ở
những giai đoạn đó sẽ tồn tại các mặt đối lập, các quan hệ sản xuất, lực lượng
sản xuất, lực lượng lao động sinh hoạt khác nhau với phong tục tập quán của
các nước trên thế giới cũng khác nhau. Trình độ phát triển khác nhau, mỗi
nước có một nền sản xuất, nền kinh tế khác nhau. Nhưng cuối cùng thì đó sẽ là
một kiến trúc thượng tầng được hình thành trong hình thái kinh tế – xã hội đó
nó cũng có những kết cấu và chức năng cùng các yếu tố cấu thành hình thái
kinh tế – xã hội.
+ Xã hội không phải là tổng hợp của những hiện tượng sự kiện rời rạc,
những cá nhân riêng lẻ mà xã hội là một chính thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp,
trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhất định và tác động đến các mặt
khác tạo nên sự vận động của xã hội. Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh
bằng tổng thể các mặt của hình thái kinh tế – xã hội.
Tiểu luận triết học
5
+ Tổng thể hình thái kinh tế xã hội bao gồm nhiều mặt, mỗi mặt lại có
những thế mạnh riêng lẻ và phải dựa vào những thế mạnh đó để nghiên cứu,
tìm tòi và phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
2). Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch
sử tự nhiên.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi hình thành đến nay đã trải
qua các giai đoạn phát triển cao thấp khác nhau, tương ứng với mỗi giai đoạn
đó là một hình thái kinh tế – xã hội cụ thể, sự vận động và thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử là do các qui luật khách quan chi phối
đặc biệt là bị chi phối bởi qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Do đó C.Mác viết “Tôi coi sự phát
triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
a. Lực lượng sản xuất
Trong đời sống hàng ngày những điều tất yếu mà xã hội nào cũng cần có
đó là sản xuất vật chất, sản xuất vật chất có vai trò rất lớn trong cuộc sống con
người, nó là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự
nhiên, cải biên các dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho đời
sống xã hội. Đó là quá trình hoạt động có mục đích, nhằm cải biến những vật
liệu tự nhiên làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người, sản xuất vật chất
thực hiện trong quá trình lao động, chính trong quá trình lao động mà mỗi
người phải liên kết với nhau để làm và mọi người làm là lực lượng sản xuất
sinh ra từ đây. Quan hệ sản xuất cũng sinh ra khi mọi người dựa vào nhau để
làm ra của cải vật chất. Các nhà triết học của xã hội duy tâm giải thích nguyên
nhân, động lực phát triển của xã hội từ ý thức tư tưởng của con người hay từ
một lực lượng siêu tự nhiên nào đó. Ngày nay nhiều nhà xã hội học tư sản giải
Tiểu luận triết học
6
thích sự phát triển của xã hội theo quan điểm kỹ thuật. Họ không nói đến các
quan hệ kinh tế – xã hội, nguồn gốc sản sinh và thay thế các chế độ xã hội khác
nhau tronglịch sử .
+ Ăng – ghen viết: Mác là người đầu tiên “ đã phát hiện ra quy luật phát
triển của lịch sử loài người”, nghĩa là tìm ra các sự thật giản đơn là trước hết
con người cần phải ăn uống , ở và mặc, trước khi có thể lo đến chuyện chính trị
khoa học, tôn giáo .
+ Con người phải sản xuất của cải vật chất, đó là yêu cầu khách quan
của sự sinh tồn xã hội . Xã hội không thể thoả mãn nhu cầu của mình bằng
những cái đã có sẵn trong tự nhiên, để duy trì và ngày càng nâng cao đời sống
của mình con người phải tiến hành sản xuất ra của cải vật chất. “ Nếu không
có sản xuất thì xã hội sẽ diệt vong. Vì thế, sản xuất sản xuất của cải vật chất là
một điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là một hành động lịch sử mà hiện nay
cũng như ngàn năm trước đây người ta vẫn phải tiến hành từng ngày, từng giờ
cốt để duy trì cuộc sống của con người.
+ Để sản xuất ra của cải vật chất thì phải cần đến lực lượng sản xuất vì
sản xuất vật chất không những là cơ sở cho sự sinh tồn của xã hội , mà còn là
cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác. Dù bất cứ
một hệ thống vật chất nào cũng đều có những kiểu quan hệ nhất định giữa
các yếu tố cấu thành nó. Trong đời sống xã hội , tất cả các quan hệ xã hội về
nhà nước, chính trị,pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật … đều hình thành và phát
triển trên cơ sở sản xuất. Trong quá trình sản xuất nhất định con người đồng
thời sản xuất và tái sản xuất ra những quan hệ xã hội của mình.
+ Muốn sản xuất ra của caỉ vật chất thì nó cũng có những nhân tố tất
yếu của sản xuất và đời sống : Xã hội là một hệ thống tự điều khiển bằng
Tiểu luận triết học
7
những quy luật đặc thù của mình, song điều đó không có nghĩa là xã hội phát
triển một cách biệt lập với tự nhiên. Bởi vì tự nhiên là môi trường sống của
con người hợp thành xã hội và xã hội trong đó có con người là sản phẩm phát
triển tự nhiên. Giữa xã hội và tự nhiên thường xuyên diễn ra sự trao đổi vật
chất. Sự trao đổi đó như Mác đã chỉ rõ – được thực hiện trong quá trình lao
động sản xuất. Điều kiện tự nhiên là yếu tố thường xuyên tất yếu của sự tồn tại
và phát triển của xã hội nhưng không giữ vai trò quyết định sự phát triển của xã
hội.
+ Vai trò của điều kiện tự nhiên trước hết được thể hiện ở chỗ: Từ trong
thế giới thực vật và động vật con người khai thác những tư liệu dinh dưỡng để
chế biến ra tư liệu tiêu dùng; tài nguyên khoáng sản tự nhiên, con người chế tạo
ra tư liệu sản xuất; từ nguồn năng lượng tự nhiên con người sử dụng vào quá
trình sản xuất như: sức gió, sức nước, sức hơi nước, điện, năng lượng của quá
trình hoá học và các quá trình bên trong nguyên tử… Ở trình độ khác nhau của
xã hội mức độ ảnh hưởng của tự nhiên đối với xã hội cũng khác nhau.
– Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến việc tổ chức phân công lao động và
phân bố lực lượng sản xuất, nhiều ngành nghề được hình thành từ những điều
kiện tự nhiên như công nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, các ngành khai thác…
tự nhiên phong phú là dạng cơ sở tự nhiên của việc phân công lao động trong
xã hội: tự nhiên tác động vào xã hội hoàn toàn mang tính chất tự phát, còn xã
hội tác động vào tự nhiên là sự tác động có ý thức của con người.
+ Sự tác động của con người vào tự nhiên như thế nào là tuỳ thuộc và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và vào chế độ xã hội. Lực lượng sản
xuất quyết định cách thức và trình độ chinh phục của con người.
Tiểu luận triết học
8
+Qúa trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao giờ cũng bắt đầu
từ dân số, muốn có lực lượng sản xuất thì tất nhiên phải có dân số, dân số đông
thì lực lượng sản xuất lớn mạnh. Nhưng dân số làm sao phải phù hợp với đất
nước, không quá đông, quá ít mà phải vừa đủ thì việc làm mới đáp ứng đủ với
lực lượng sản xuất … còn nếu thiếu việc làm thì lực lượng sản xuất sẽ thừa.
Vậy muốn lực lượng sản xuất đủ phù hợp với đất nước thì phải kìm hãm dân
số phát triển với những nước đông dân và khuyến khích sinh đẻ dân số với
những nước có dân số ít. Vì lực lượng sản xuất là nhân tố chính của hình thái
kinh tế xã hội .
+ Những lực lượng sản xuất được tạo ra bằng năng lực thực tiễn của con
người, song không phải con người làm ra theo ý muốn chủ quan. Bản thân
năng lực thực tiễn của con người cũng bị quy định bởi nhiều điều kiện khách
quan nhất định. Người ta làm ra lực lượng sản xuất của mình dựa trên những
lực lượng sản xuất đã đạt được trong mọi hình thái kinh tế- xã hội đã có sẵn
do thế hệ trước tạo ra. Lực lượng sản xuất biểu hiện quan hệ giữa người với
giới tự nhiên. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của loài người, lực lượng sản xuất bao gồm:
– Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động .
– Người lao động với kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, biết sử
dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
+ Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có bộ
phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất , được con người sử dụng mới
là đối tượng lao động trực tiếp. Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên
những đối tượng lao động có sẵn, mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao
Tiểu luận triết học
9
động. Sự phát triển của sản xuất có liên quan với việc đưa những đối tượng
ngày càng mới hơn vào quá trình sản xuất.
+ Tư liệu lao động là vật thể hay là phức hợp vật thể mà con người đặt
giữa mình với đối tượng lao động, chúng dẫn truyền tích cực sự tác động của
con người vào đối tượng lao động.
+ Trình độ phát triển của tư liệu lao động chủ yếu là công cụ lao động là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở xác định trình
độ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để khác nhau giữa thời đại kinh tế.
Đối với mỗi thế hệ mới, những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành
điểm xuất phát của sự phát triển tương lai.
Vì vậy những tư liệu đó là kế tục của lịch sử chính những tính chất và
trình độ kỹ thuật của lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính
chất và trình độ quan hệ sản xuất, do đó xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết
định quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế- xã hội như một quá
trình lịch sử – tự nhiên .
+ Ngày nay cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã tạo ra bước
nhảy vọt lớn trong lực lượng sản xuất. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Khoa học trở thành điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong
kỹ thuật sản xuất, tạo ra những ngành sản xuất mới, kết hợp khoa học kỹ thuật
thành một thể thống nhất, đưa đến những phương pháp công nghệ mới đem lại
hiệu quả cao trong sản xuất. Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp mà thành phần người cấu thành lực lượng sản xuất cũng thay đổi. Người
lao động trong lực lượng sản xuất không chỉ bao gồm lao động chân tay, mà
bao gồm cả kỹ thuật viên, kỹ sư và cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp quá trình
sản xuất.
Tiểu luận triết học
10
– Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động, phát triển của
các hình thái kinh tế xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Lực
lượng sản xuất, một mặt là phương thức sản xuất, là yếu tố đảm bảo tính kế
thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quy định khuynh hướng phát triển
từ thấp đến cao.
Tiểu luận triết học
11
b) Quan hệ sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người và người trong quá trình
sản xuất được gọi là quan hệ sản xuất.
+ Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời
sống vật chất của xã hội , tính vật chất của quan hệ sản xuất được biểu hiện ở
chỗ chúng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Quan hệ sản xuất
là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội
khác, không có những mối quan hệ đó thì không thành xã hội và không có quy
luật xã hội . Mỗi hình thái kinh tế lại có một kiểu quan hệ sản xuất của nó
tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất là bộ xương của cơ thể xã hội nó bao gồm các mối
quan hệ của quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh
tế – xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của mỗi
hình thái kinh tế- xã hội nhất định.
+ Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đây:
– Các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
– Các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất.
– Các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
+Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ vơí nhau, trong đó quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả các quan hệ khác. Bản
chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư
liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Tiểu luận triết học
12
+ Trong các hình thái kinh tế – xã hội mà loài người đã từng trải qua,
lịch sử đã được chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu cơ bản đối
với tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng.
+ Đương nhiên, để cho sở hữu về tư liệu sản xuất không trở thành ” vô
chủ” có chính sách và cơ chế rõ ràng để xác định chủ thể sở hữu và sử dụng
đối với những tư liệu sản xuất nhất định.
+ Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại
trong một phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị
trong mỗi hình thái kinh tế- xã hội quyết định tính chất và bộ mặt hình thái kinh
tế- xã hội ấy. Vì vậy, khi nghiên cứu, xem xét tính chất của một hình thái xã
hội nào thì không thể chỉ nhìn ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà
còn phải xét đến tính chất của các quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất chính là
mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát
triển của lịch sử.
Những quan hệ sản xuất lỗi thời được xoá bỏ và được thay thế bằng
những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và hình thái kinh tế – xã hội mới cao
hơn ra đời. Như vậy sự xuất hiện, sự phát triển của hình thái kinh tế – xã hội ,
sự chuyển biến từ hình thái đó lên hình thái cao hơn được giải thích trước hết
bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hướng tự tìm đường
cho mình trong sự phát triển và thay thế các hình thái kinh tế – xã hội.
c) Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất .
Tiểu luận triết học
13
+ Trải qua quá trình lịch sử thì lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác
động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch
sử loài người, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật vạch rõ tính chất phụ thuộc khách
quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt
mình quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất .
+ Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm được Ăng-ghen sử dụng
để phân tích lực lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau.
Khi nền sản xuất được thực hiện với những công cụ ở trình độ thủ công,
lực lượng sản xuất chủ yếu là mang tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình
độ cơ khí hoá, lực lượng sản xuất đòi hỏi phải được vận động trong sự hợp tác
xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên môn hoá. Tính chất tự cấp tự túc, cô lập của
nền sản xuất nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi tính chất xã hội hoá.
Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử loài người
thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người
thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự
nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình.
Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở :
– Trình độ của công cụ lao động.
– Trình độ tổ chức lao động xã hội .
– Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
– Kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người.
Tiểu luận triết học
14
– Trình độ phân công lao động.
Quan hệ sản xuất được hình thành biến đổi, phát triển được quyết định
bởi lực lượng sản xuất.
– Trong quá trình sản xuất cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ
lao động thì kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của
con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất,
cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh
hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là
nội dung của phương thức sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức sh của
nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình
thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi trước, sau đó hình
thức mới biến đổi theo.
-Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng
hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Sự phù hợp đó là động lực làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh
mẽ. Nhưng lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh, còn quan hệ sản xuất
có xu hướng tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất đã phát triển lên một
trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, sẽ trở thành
chướng ngại đối với sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mẫu thuẫn gay gắt giữa
hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến
việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới
phù hợp với tính chất và trình độ mới của lực lượng sản xuất, mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển.
– Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển của xã hội loài
Tiểu luận triết học
15
người.Sự tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh
tế- xã hội thấp lên hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn.
+ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất :
– Sự hình thành, biến đổi , phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất là hình
thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại
đối với lực lượng sản xuất, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
– Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất trở thành động lục cơ bản thúc đẩy, mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản
xuất thì trở thành ” xiềng xích trói buộc” kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Song nó chỉ là tạm thời, theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng nó sẽ
bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
của lượng sản xuất .
– Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực
lượng sản xuất ( thúc đẩy hoặc kìm hãm ) vì nó quy định mục đích của sản
xuất, quy định tổ chức hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội; quy định
phương thức phân phối và phần của cải ít nhiều mà người lao động được
hưởng . Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống chỉnh thể hữu cơ gồm cả
ba mặt : quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong
chỉnh thể đó quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy con người hành
động nhằm phát triển sản xuất.
Tiểu luận triết học
16
+ Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Quy luật
này đưa loài người trải qua các phương thức sản xuất: công xã nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và phương thức cộng sản tương
lai.
+ Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất là quy luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay
thế kế tiếp nhau từ thấp lên cao của các phương thức sản xuất.
– Sự khủng hoảng và sụp đổ của nhiều nước XHCN hiện nay có nhiều
nguyên nhân trong đó có nguyên nhân cơ bản là không nhận thức và vận dụng
đúng các quy luật xã hội, trong đó có những quy luật cơ bản ở trên.
– Từ lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nó có quan hệ chặt chẽ gắn
bó với nhau, luôn tồn tại song song và không thể tách rời nhau được. Từ đây
nó sẽ hình thành nên tổng thể của nền sản xuất và đời sống cộng đồng sẽ hình
thành nên kiến trúc thượng tầng của xã hội.
d) Kiến trúc thượng tầng trong hình thái kinh tế xã hội
+ Xã hội dưới bất kỳ hình thái nào đều là sản phẩm của quan hệ giữa
người với người. Quan hệ xã hội của con người rất đa dạng phong phú, vận
động biến đổi không ngừng. Công lao to lớn là Mác và Ăng -ghen là từ những
quan hệ xã hội hết sức phức tạp đó phân biệt, những quan hệ vật chất của xã
hội với những quan hệ tinh thần tư tưởng của xã hội, nêu bật cơ sở hạ tầng do
quan hệ sản xuất hợp thành giữa vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng bao
gồm những quan điểm tư tưởng và những thiết chế tương ứng với nó.
Tiểu luận triết học
17
+ Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân tố quyết định
quá trình lịch sử , xét đến cùng là nền sản xuất đời sống hiện thực. Nhưng
nhân tố kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định, các nhân tố khác
nhau của kiến trúc thượng tầng đều có ảnh hưởng đến quá trình lịch sử. Nếu
không tính đến sự tác động lẫn nhau của các nhân tố đo thì không thấy hàng
loạt những sự ngẫu nhiên mà tính tất yếu kinh tế xuyên qua để tự vạch đường
đi của mình. Từ những nhân tố trên hình thành nên cơ sở hạ tầng.
+ Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng phản ánh chức
năng xã hội của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện
tượng xã hội.
– Cơ sở hạ tầng của một xã hội bao gồm những quan hệ sản xuất thống
trị, những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước và những quan hệ mầm
mống của xã hội sau. Những đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng là
do quan hệ sản xuất thống trị quy định. Trong cơ sở hạ tầng có nhiều thành
phần kinh tế, nhiều kiểu quan hệ sản xuất thì kiểu quan hệ sản xuất thống trị
bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo.
– Trong xã hội thì có giai cấp đối kháng, tính chất giai cấp của cơ sở hạ
tầng là do kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai
cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong cơ sở hạ tầng, là toàn bộ
các quan hệ để hình thành nên kiến trúc thượng tầng .
+ Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội,
những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành
nên một cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi yếu tố của yếu tố của kiến trúc thượng
tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng, nhưng không tồn tại tách
Tiểu luận triết học
18
rời nhau mà liên hệ tác động qua lại, lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ
tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm hệ tư
tưởng và thể chế của giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội
trước để lại, quan điểm tư tưởng và tổ chức của các tầng lớp trung gian. Tính
chất tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của kiến trúc
thượng tầng trong một hình thái xã hội nhất định.
+ Trong xã hội kiến trúc thượng tầng mang tính chất đối kháng. Bộ
phận có quyền lực lớn nhất của kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng
giai cấp nhà nước, công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về
mặt chính trị pháp lý. Giai cấp thống trị về mặt kinh tế nắm và giữ chính
quyền nhà nước thì hệ tư tưởng cùng thể chế của giai cấp ấy cũng giữ địa vị
thống trị, nó là đặc trưng của toàn bộ kiến trúc thượng tầng. Mỗi hình thái kinh
tế – xã hội đều có mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng.
+ Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở mỗi hình thái kinh tế xã hội
đều có cơ sở của nó, do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính
lịch sử cụ thể giữa chúng có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ
tầng giữ vai trò quyết định Þ cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ cơ sở hạ tầng
nào thì sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị nền
kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Cơ sở hạ tầng
đối với kiến trúc thượng tầng có nhữngbiến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng
sớm hay muộn sẽ dẫn đến biến đổi kiến trúc thượng. Sự biến đổi đó diễn ra ở
từng hình thái kinh tế xã hội , cũng như khi chuyển từ hình thái kinh tế xã hội
Tiểu luận triết học
19
này sang hình thái kinh tế khác. Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc
thượng tầng do nó sinh ra cũng mất theo, khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì một
kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó cũng xuất hiện. Tính quyết định của
cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình
chuyển từ một hình thái kinh tế xã hội này sang một hình thái kinh tế xã hội
khác. Chính sự tác động đó đã biến kiến trúc thượng tầng sẽ tác động trở lại
với cơ sở hạ tầng.
+Sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng không phải
là một hệ thống liên hệ phụ thuộc có tính giản đơn như một cơ chế hoạt động
tự động, không phải bất cứ sự biến đổi nào trong kiến trúc thượng tầng cũng
được giải thích bằng những nguyên nhân kinh tế. Cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng, đồng thời kiến trúc thượng tầng luôn luôn là lực lượng
tác động mạnh mẽ trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội và tác động tích
cực trở lại cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
+ Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng đảm bảo sự
thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong nền kinh
tế. Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt
quan trọng có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng .
+ Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật cũng đều tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng những
hình thức khác nhau, song phải tuân theo những tác động của nhà nước.
+ Kiến trúc thượng tầng có tác dụng to lớn với cơ sở hạ tầng khi nó tác
động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng, trái lại nó sẽ cản trở
sự phát triển của cơ sở hạ tầng khi nó tác động ngược chiều với quy luật kinh
tế khách quan. Quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng
Tiểu luận triết học
20
tầng, phủ định tính tất yếu của kinh tế xã hội , rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và không thể nhận thức đúng đắn trong lịch sử. Chủ nghĩa duy vật lịch
sử nhấn mạnh rằng, chỉ có kiến trúc thượng tầng nảy sinh trong quá trình phát
triển cơ sở kinh tế mới, phản ánh nhu cầu của sự phát triển cơ sở kinh tế mới
có thể thúc đẩy kinh tế phát triển, xã hội tiến lên nếu ngược lại sẽ như trên.
e) Các quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình và các sinh hoạt xã hội khác.
+ Các mối quan hệ dân tộc, gia đình và sinh hoạt xã hội đều xuất phát từ
con người, có con người thì mới phát sinh ra các mối quan hệ , tập quán…
+ Con người thực chất của việc nghiên cứu bản chất là quá trình con
người tự lấy mình làm đối tượng của nhận thức. Qúa trình phải trả lời câu hỏi
con người là gì trong hệ thống tự nhiên, triết lý và sự tồn tại và ý nghĩa của đời
sống con người vai trò, vị trí và chức năng của họ trong hệ thống của tự nhiên.
+ Trong quan hệ xã hội không một ai nhầm lẫn con người với loài động
vật. Song không phải vì thế mà câu hỏi” con người là gì ?” bị giản đơn, vì câu
trả lời chỉ là chân thực khi con người có khả năng bước ra khỏi bản thân mình
để nhận thức mình với tư cách là hệ thống trong quá trình vận động sinh thành.
Con người có tư tưởng, tình cảm, khát vọng, mục tiêu lý tưởng, niềm tin và ý
chí nên nó sẽ có một quan hệ biện chứng mâu thuẫn.
+ Xã hội là một bộ phận ở cấp độ ý thức sinh hoạt đời thường, trong đó
xuất hiện những quan niệm và sự đánh giá đa dạng các hiện tượng xã hội,
những thị hiếu và tư tưởng thẩm mỹ, những phong tục và truyền thống, những
thiên hướng và hứng thú, những hình ảnh, mơ ước và lôgic của lương tri.
+ Trong xã hội nào bao giờ cũng có các dân tộc do vậy cần phải tạo
đoàn kết gắn bó giữa dân tộc này vơí dân tộc kia thì mới thúc đẩy sản xuất
Tiểu luận triết học
21
phát triển được. Trong mỗi dân tộc lại có các gia đình riêng lẻ, mỗi gia đình
này lại có một phong cách sống khác nhau, một gia đình tốt là có sự đoàn kết,
bố mẹ biết dạy con cái, con cái thì nghe lời bố mẹ. Còn ngược lại bố mẹ
không dạy con cái và con cái không nghe lời bố mẹ thì gia đình đó sẽ không
hoà thuận. Trong gia đình thì có sự ảnh hưởng của xã hội rất lớn. Một xã hội
văn minh lịch sự thì gia đình đó cũng sẽ tốt hơn khi tiếp xúc với mặt sáng của
xã hội đó, nhưng cũng sẽ rất tồi khi tiếp xúc quá nhiều với những cái xấu như
văn hoá đồ truỵ, xã hội đen…
+ Vậy mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng,
tác động nhau, trong đó xã hội giữ vai trò quyết định, mà nền tảng của mối
quan hệ này là quan hệ lợi ích. Mỗi cá nhân có ảnh hưởng tới xã hội tuỳ thuộc
ở trình độ phát triển nhân cách. Những cá nhân có nhân cách lớn, nhiều tài
năng, có trách nhiệm cao với xã hội, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với xã hộim thì
có tác dụng tích cực đến xã hội. Những cá nhân bị tha hoá, biến chất về nhân
cách thì gây hậu quả xấu đến xã hội , trở thành gánh nặng cho xã hội, có khi là
kẻ thù của xã hội.
+ Cá nhân là cá thể người riêng lẻ, là phần tử đơn nhất tạo thành cộng
đồng xã hội, là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách được hình thành và phát
triển trong quan hệ xã hội nên các mối quan hệ trong xã hội đều bắt nguồn từ
cá nhân. Cá nhân sẽ quyết định nên tổng thể của xã hội từ sinh hoạt gia đình,
dân tộc, quan hệ xã hội theo mỗi hướng khác nhau.
II- VẤN ĐỀ CẦN XÂY DỰNG HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1) Vấn đề xây dựng hình thái kinh tế – xã hội ở Việt Nam
+ Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội học, học thuyết Mác – Lê nin về hình
thái kinh tế – xã hội vạch ra nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển xã
Tiểu luận triết học
22
hội, tìm ra những nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện và biến đổi của
những hiện tượng xã hội, đặt cơ sở khoa học cho xã hội học, nâng xã hội học
lên thành một khoa học thật sự, chống lại quan điểm duy tâm về lịch sử , coi
xã hội học là sự kết hợp có tính chất máy móc của nhiều cá nhân và gia đình,
coi sự vận động phát triển của xã hội là do ý chí của những nhà cần quyền chi
phối. Coi kỹ thuật là cái chung quyết định tính chất chế độ xã hội là tiêu chuẩn
khách quan phân biệt các hình thái kinh tế kinh tế – xã hội.
– Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa , không có nghĩa là gạt bỏ tất cả quan hệ sử hữu cá thể, tư nhân
chỉ còn lại chế độ công hữu và tập thể, trái lại tất cả những gì thuộc về sở
hữu tư nhân góp phần vào sản xuất kinh doanh thì chấp nhận nó như một bộ
phận tự nhiên của quá trình kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội, khuyến khích
mọi hình thức kinh tế để phát triển sản xuất và nâng cao cuộc sống của nhân dân.
– Vậy nước ta chọn lựa con đường xã hội chủ nghĩa không qua giai đọan
phát triển tư bản với ý nghĩa là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đặc biệt là về
mặt chính trị của chế độ đó- tức không thể hình thành một hệ thống chính trị
của giai cấp tư sản, trong đó đa số sống phụ thuộc vào lợi ích và quyền lực
của thiểu số. Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ
trương một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh
tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, từng bước xã hội hoá xã hội chủ nghĩa. Trong thực tế nền sản
xuất đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trên cơ sở lực lượng sản xuất phát
triển. Qúa trình đó được thực hiện không phải bằng sự tước đoạt, gò ép theo
chủ nghĩa hình thức như trước đây mà được thể hiện từng bước thông qua hỗn
Tiểu luận triết học
23
hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà nước, các
hình thức hợp tác xã… để dần hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn, trong đó
các đơn vị quốc doanh là nòng cốt. Tức là chúng ta chỉ bỏ qua những gì mà xã
hội mới có thể thay thế vào những quan hệ xã hội cũ đem laị hiệu quả kinh tế
xã hội cao hơn. Chúng ta không chủ trương gạt bỏ cái cũ để có cái mới mà
thực hiện chuyển hoá cái cũ thành cái mơí.
+ Muốn làm được như trên ta phải định hướng xã hội chủ nghĩa kinh tế
như sản xuất hàng hoá nhỏ và hệ thống quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa thì
nhà nước phải sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế, hành chính và giáo dục
trong đó các biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã
hội hoá nền sản xuất với những hình thức và bước đi thích hợp theo hướng:
kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển ở những vị trí nòng cốt. Kinh tế
tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các
ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh. Kinh tế
tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng, các tập đoàn kinh doanh lớn
có sức chi phối trong nền kinh tế được hình thành.
+ Vì cơ cấu và quy luật phổ biến tác động trong mọi hình thái kinh tế –
xã hội được biểu hiện theo những kiểu riêng biệt trong mỗi hình thái kinh tế –
xã hội cụ thể ( cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa). Ở mỗi hình thái kinh tế – xã hội cụ thể những
quy luật phổ biên đó lại thể hiện theo những hình thức đặc thù thì ở những
nước khác nhau. Điều đó cho phép chúng ta có thể vận dụng những quy luật
phổ biến để nghiên cứu một hình thái kinh tế xã hội cụ thể.
2/ Các hình thức đổi mới
Tiểu luận triết học
24
+ Muốn xây dựng hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì phải
coi thực hiện công cuộc đổi mới là quá trình vừa làm việc vừa học tập vừa rút
kinh nghiệm bởi vì chưa bao giờ có sẵn một mô hình để căn cứ vào đó mà chủ
động vạch ra một chương trình đổi mới cụ thể, chi tiết trên từng lĩnh vực.
– Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong xây dựng và quản lý nhà nước. Ngày nay chỉ có phát huy sức mạnh
làm chủ của nhân dân mới có thể chống tiêu cực , chống suy thoái, chống tham
nhũng có hiệu quả nhằm củng cố Đảng làm trong sạch bộ máy nhà nước lành
mạnh hoá các quan hệ xã hội.
– Xây dựng nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, từng bước kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể sẽ chiếm ưu thế về
năng suất chất lượng hiệu quả qua đó giữ vị trí chi phối.
– Tiếp tục thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước chuyển đổi
căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại tạo ra năng suất lao động
xã hội cao .
– Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong
nước sản xuất có hiệu quả.
– Phát triển nền giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ mọi mặt,sử dụng
nhân lực một cách đầy đủ, hiệu quả với những chính sách đãi ngộ thoả đáng,
Tiểu luận triết học
25
tạo môi trường môi trường cho hoạt động tự do sáng tạo cho mọi sáng kiến cá
nhân, khai thác triệt để yếu tố con người vì con người.
+ Xâydựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng đã
khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin là kim chỉ nam cho hành động và nêu
cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Ta phải xây dựng hệ thống chính trị – xã hội chủ
nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của nó là Đảng
cộng sản lãnh đạo, đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội.
Toàn bộ quyền lực xã hội thuộc về nhân dân, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo, tính tích cực chủ động của của
mọi cá nhân mọi tầng lớp xã hội trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hoá,
phục vụ ngày càng tốt hơn đời sống của nhân dân.
+ Các tổ chức, thiết chế, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa cùng các mối quan hệ qua lại giưã chúng với nhau
do cùng một mục tiêu chung, lợi ích chung tạo nên sự hoạt động cùng chiều
phối hợp đoàn kết và hợp tác, tạo thành một lực lượng chung hướng tới mục
tiêu xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân
trong quản lý kinh tế- xã hội và mọi lĩnh vực hoạt động khác.
+ Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị xã hội không tồn tại
như một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích
và quyền lực của nhân dân lao động .
+ Khái quát lại , xây dựng hình thái kinh tế – xã hội chủ nghĩa ở nước ta
là xâydựng một hệ thống quan hệ xã hội theo yêu cầu phát triển không ngừng
của lực lượng sản xuất hiện đại. Xây dựng một hệ thống chính trị lfam chủ của
nhân dân lao động hoạt động theo nguyên tắc tất cả từ con người và vì con
người.