NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập
khẩu của các Ngân hàng thương
mại Việt Nam – Thực trạng và
giải pháp phát triển
GVHD : Pgs.Ts Nguyễn Thị Quy
SVTH : Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ……………………………………………………..1
Phần I:………………………………………………………………..8
1.
Những vấn đề chung về bảo lãnh ngân hàng……………………8
1.1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng…………………………………8
1.2. Đặc điểm của bão lãnh …………………………………………9
1.2.1. Tính chất độc lập ………………………………………………9
1.2.2. Bảo lãnh là một mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau
….11
1.2.3. Tính chất chứng
từ………………………………………………12
1.3. Điều kiện cần thiết để thực hiện bảo lãnh của các
NHTM……..13
2. Nghiệp vụ bảo lãnh XNK của các
NHTM…………………………10
2.1. Khái niệm……………………………………………………….10
2.2. Cơ sở ra đời, tồn tại và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh XNK
của các NHTM ……………………………………………………16
2.3. Vai trò của hoạt động bảo lãnh XNK của các NHTM………….13
2.4. Nguồn luật điều chỉnh nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của
các NHTM……………………………………………………………20
2.4.1. Các công ước quốc tế ……………………………………….20
2.4.2. Các văn bản của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành
……………………………………………………………..….20
2.4.3. Luật quốc gia…………………………………………………..22
2.5. Chủ thể của một giao dịch bảo lãnh…………………………….18
2.6. Các loại hình bảo lãnh XNK …………………………………24
2.6.1. Các nghiệp vụ bảo lãnh ngắn hạn……………………………..19
2.6.2. Các nghiệp vụ bảo lãnh XNK trung và dài hạn ……………..27
II.
Kinh nghiệm bảo lãnh ngân hàng của một số nước trên thế giới
…………………………………………………………………32
1.
Kinh nghiệm về bảo lãnh ngân hàng của các nước ASEAN
…………………………………………………………………32
2.
Kinh nghiệm bảo lãnh ở Trung Quốc…………………………33
3.
Các nước Liên hiệp châu âu …………………………………33
4.
Bài học kinh nghiệm với Việt Nam …………………………..34
Phần II
…………………………………………………………..36
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
3
Thực trạng phát triển hoạt động bảo lãnh XNK của các Ngân hàng
Thương Mại tại Việt Nam.
……………………………………….36
I.
Một vài nét về hoạt động XNK của Việt Nam trong thời gian
qua …………………………………………………………………36
1.
Nhìn nhận và đánh giá về tình hình XNK của Việt Nam trong
những năm gần đây…………………………………………………..36
2.
Tính tất yếu phải phát triển nghiệp vụ bảo lãnh XNK trong các
NHTM tại Việt
Nam…..……………………………………………..37
2.1. Yêu cầu từ phía các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu…………….37
2.2. Yêu cầu từ phía bản thân các NHTM Việt Nam ……………..40
II.
Thực trạng hoạt động bảo lãnh XNK của các NHTM tại Việt
Nam. …………………………………………………………………42
1.
Cơ sở pháp lý và các văn bản điều chỉnh ……………………42
1.1. Các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo lãnh XNK. …42
1.2. Tính pháp lý trong nghiệp vụ bảo lãnh XNK của các NHTM
…………………………………………………………………44
2.
Thực trạng hoạt động bảo lãnh XNK của các NHTM Việt Nam
…………………………………………………………………49
2.1
. Các loại hình bảo lãnh XNK của các NHTM thường được áp
dụng ở Việt Nam ……………………………………………………50
2.2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh
…………………………..53
2.2.1. Bối cảnh chung ……………………………………………..53
2.2.2. Về quy mô bảo lãnh
……………………………………….53
2.2.3. Kết cấu bảo lãnh ……………………………………………..58
2.2.4. Cơ cấu các loại hình bảo lãnh …………………………………59
2.2.5. Chất lượng bảo lãnh
……………………………………….60
2.2.6. Thu nhập từ hoạt động bảo lãnh
…………………………..65
III.
Đánh giá hoạt động bảo lãnh XNK của các NHTM Việt Nam.
…………………………………………………………………67
1.
Kết quả và những thành tựu đạt được…………………………67
2.
Những khó khăn và tồn tại…..…………………………………70
Phần III
………………………………………………………….77
GiảI pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh Xuất
nhập khẩu của các NHTM VIệt
Nam………………………………………77
I.
Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh XNK tại Việt Nam
…………………………………………………………………77
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
4
1.
Định hướng phát triển kinh tế xã hội nói chung và xuất nhập
khẩu nói riêng
……………………………………………………77
2.
Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu trong
thời gian tới.
……………………………………………………78
II. Giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh XNK
của các NHTM Việt Nam.
……………………………………….79
1.
Đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà
Nước…………………..80
2.
Đối với hệ thống ngân hàng thương
mại………………………82
2.1. Giải pháp trực
tiếp…….……………………………………….82
2.1.1. Xây dựng kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thích hợp
trong từng thời kỳ……………………………………………………73
2.1.2. Công tác tổ chức đào tạo cán bộ để nâng cao uy tín của ngân
hàng………………………………………………………………….74
2.1.3. Nâng cao chất lượng thẩm định các yêu cầu xin bảo lãnh và
quản lý các khoản bảo lãnh
……………………………………….85
2.1.4. Thực hiện phân tán rủi ro trong hoạt động bảo
lãnh………………………………………………………………..…77
2.1.5. Xác định thời hạn bảo lãnh trước khi nhận bảo lãnh………….78
2.1.6. Xác định hạn mức bảo lãnh thường xuyên……………………78
2.1.7. ứng dụng chính sách Marketing ngân hàng vào hoạt động bảo
lãnh …………………………………………………………….…..88
2.1.8. Mở rộng quan hệ hợp tác với ngân hàng khác để đẩy mạnh hoạt
động đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh
…………………………………93
2.2. Giải pháp hỗ trợ………………………………..………………..85
2.2.1. Về luật và quy tắc ứng dụng…………………………………..85
2.2.2. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát……………………….86
2.2.3. áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh…………86
2.3. Đối với các doanh nghiệp
XNK………………………………..97
KẾT LUẬN
…………………………………………………….98
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
5
LỜI MỞ ĐẦU
Trong vài thập niên trở lại đây, những danh từ như WTO (World
Trade Organization – Tổ chức Thương mại Thế giới), ASEAN (Association
of South Eeast Asian Nations – Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), AFTA(
ASEAN Free Trade Area – Khu vực Thương mại tự do ASEAN) . . . đã trở
nên quá quen thuộc với mọi người dân sống trên khắp thế giới. Các tổ chức
hiệp hội này ra đời là kết quả của quá trình thiết lập các mối quan hệ song
phương, đa phương về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; đặc biệt là
lĩnh vực thương mại. Nền kinh tế của các quốc gia riêng lẻ trở nên phụ
thuộc lẫn nhau, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nhau.
Khuynh hướng này đã và đang làm gia tăng mạnh mẽ nhu cầu về các dịch
vụ tài chính quốc tế trên khắp thế giới. Cùng với khuynh hướng này là qúa
trình tự do hoá tài chính, dỡ bỏ dần các hàng rào thương mại và xu thế hội
nhập trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế quốc tế đang lan nhanh.
Hoạt động xuất nhập khẩu, do đó, cũng phát triển rất nhanh, cũng
thay đổi dần những khuôn mẫu cho phù hợp với những chuyển biến thực tế
và ngày càng giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của một
quốc gia nói riêng và thương mại quốc tế nói chung. Trong trào lưu đó các
ngân hàng thương mại với lợi thế về vốn, về nghiệp vụ ngân hàng và các
mối quan hệ trong thanh toán quốc tế cũng đã không đứng ngoài cuộc.
Một trong số những nghiệp vụ hết sức đa dạng của các ngân hàng có thể kể
đến đó chính là nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu, nó đã góp phần không
nhỏ trong việc chống đỡ rủi ro, tháo gỡ khó khăn về tài chính, tạo uy tín
kinh doanh cho doanh nghiệp và thúc đẩy sự phát triển của ngoại thương
Vốn là lĩnh vực kinh doanh mang tính truyền thống của các ngân
hàng thương mại, sự ra đời, tồn tại và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh
này gắn liền với quá trình hình thành và lớn mạnh của nền thương mại
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
6
quốc tế nói chung, và của mỗi quốc gia nói riêng. Chính những tính chất,
đặc điểm trong giao thương quốc tế là yếu tố then chốt ấn định bản sắc và
đặc trưng của loại hình bảo lãnh xuất nhập khẩu, khiến lĩnh vực này có
tính độc lập tương đối trong hệ thống tín dụng dịch vụ ngân hàng. Ngược
lại, bảo lãnh xuất nhập khẩu cũng giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc
thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế
toàn cầu và trào lưu hội nhập kinh tế hết sức phát triển.
Việt Nam đang nằm trong giai đoạn chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần,chủ trương
đẩy mạnh khuyến khích xuất khẩu, tuy nhiên, khả năng tích luỹ vốn còn
thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, nên việc nghiên cứu và tìm hiểu về hoạt động
bảo lãnh xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương mại là hết sức cần
thiết cho việc tìm ra những nguồn vốn thích hợp, tìm ra chỗ dựa vững chắc
cho các doanh nghiệp, nhằm phát huy tối ưu cả nội lực lẫn ngoại lực.
Chính vì lý do đó em đã quyết định chọn đề tài: “Nghiệp vụ bảo lãnh xuất
nhập khẩu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam – Thực trạng và
giải pháp phát triển” để làm nội dung nghiên cứu cho khoá luận của mình.
Khoá luận gồm có 3 phần chính:
CHƯƠNG I : KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO LÃNH XUẤT NHẬP KHẨU
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH
XUẤT NHẬP KHẨU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP
VỤ BẢO LÃNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM.
sẽ đưa ra những cái nhìn tổng quan nhất về khái niệm bảo lãnh ngân hàng
nói chung và bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng, đánh giá những thành tựu
đã đạt được, phân tích khó khăn, nhược điểm còn tồn tại cũng như những
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
7
kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiêp vụ bảo lãnh xuất
nhập khẩu trong thời gian tới.
Nhân đây, em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh, các
chị tại Ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc đã tạo mọi điều kiện thuận lợi,
cung cấp cho em những nguồn tài liệu quý báu, đặc biệt, em xin được tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Thị Quy, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận này.
Do khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, khoá luận này chắc chắn không
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp, bổ sung của thầy cô và các bạn.
Hà Nội, tháng 12 năm 2003
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
8
PHẦN I
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO LÃNH XNK CỦA
CÁC NHTM VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG VÀ
BẢO LÃNH XNK
1. Những vấn đề chung về bảo lãnh ngân hàng
1.1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Từ thời kỳ trung cổ tại Hy Lạp, hoạt động bảo lãnh đã xuất hiện, mặc
dù còn rất sơ khai, bằng những giao dịch trong quan hệ cá nhân với cá nhân
rất đời thường. Cho đến nay, hoạt động bảo lãnh đã phát triển bao trùm lên
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, không chỉ trong phạm vi quốc
gia mà còn mở rộng ra cả phạm vi quốc tế.
Bảo lãnh trong mỗi lĩnh vực có những đặc trưng riêng nhưng tựu
chung lại “bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết
với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời
hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ” (Điều 366 – Bộ luật Dân sự Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam).
Bảo lãnh là cần thiết khi hai bên chưa tín nhiệm nhau. Uy tín và lời
hứa của bên này chưa có đủ độ tin cậy đối với bên kia. Sự xuất hiện của
một bên thứ ba có đủ độ tin cậy đối với cả hai bên đứng ra thực hiện bảo
lãnh sẽ đưa họ đến một điểm chung thống nhất.
Trong phạm vi toàn xã hội, hoạt động bảo lãnh rất phong phú và đa
dạng như bảo lãnh của một tổ chức quốc tế với một nước, bảo lãnh của nhà
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
9
nước đối với doanh nghiệp, . . . Xét riêng trong lĩnh vực ngân hàng, bảo
lãnh là một nghiệp vụ được định nghĩa như sau :
“Bảo lãnh ngân hàng là cam kết của ngân hàng bảo lãnh chịu
trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên
được bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả
thuận với bên nhận bảo lãnh đã được quy định tại chứng thư bảo lãnh
của ngân hàng.”
Hiện nay việc sử dụng bảo lãnh ngân hàng bùng nổ mạnh mẽ và
doanh số của nó đạt đến mức kỷ lục. Sự tăng trưởng này một phần là vì bảo
lãnh ngân hàng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho tất cả các dịch vụ, bao
gồm cả các dịch vụ không mang tính tài chính như hợp đồng thương mại,
hợp đồng xây dựng . . . và những dịch vụ mang tính tài chính như thoả ước
thấu chi, thoả ước tham gia liên doanh, tái bảo hiểm và những cam kết tài
chính khác.
Tuy nhiên, trong thực tiễn thực hành kinh doanh quốc tế, vấn đề
thuật ngữ “bảo lãnh ngân hàng” vẫn còn bỏ ngỏ. Những từ như “bond”,
“guarantee”, “suretyship” và cả “undertaking” được dùng lẫn cho nhau
với nghĩa bảo lãnh ngân hàng, và cho đến nay vẫn chưa có một thoả ước
thống nhất quốc tế nào khẳng định đâu là thuật ngữ chuẩn. Điều này cho
thấy tính chất lỏng lẻo trong việc sử dụng thuật ngữ để khẳng định bản chất
một cam kết bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động XNK.
Bảo lãnh nói chung và cơ bản được NHTM phát hành, do vậy người
ta thường gọi “bảo lãnh’’ là “Bank guarantee”. Tuy nhiên, luật và tập
quán của từng nước có những khác biệt.
1.2. Đặc điểm của bão lãnh
1.2.1. Tính chất độc lập
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
10
Bảo lãnh được coi là công cụ vạn năng sử dụng trong tất cả các giao
dịch vì nó có đặc điểm nổi bật, đó là tính độc lập về nghiệp vụ và quyền lợi
của các bên và mối quan hệ của các đối tác.
– Độc lập trong từng mối quan hệ
Các hợp đồng được hình thành trong mối quan hệ được chi phối bởi
mục đích và đối tượng nên hai bên trong từng hợp đồng có quyền và nghĩa
vụ riêng; mặc dù chúng vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của nhau. Hợp
đồng thứ nhất (giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh) là
gốc để hình thành hợp đồng thứ hai (giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và
người được bảo lãnh) và hợp đồng thứ ba (giữa ngân hàng phát hành bảo
lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh) nhưng các hợp đồng sau ra đời nhằm
phục vụ cho hợp đồng thứ nhất. Hợp đồng này sẽ không được thực hiện
đầy đủ nếu các hợp đồng còn lại không có hiệu lực. Mối quan hệ này là lô-
gích nhưng không có nghĩa là quyền và nghĩa vụ của các bên trong từng
hợp đồng lại ràng buộc hay phụ thuộc lẫn nhau
– Độc lập về quyền và nghĩa vụ
Sự phân biệt này chỉ mang nghĩa tương đối. Tính độc lập này được thể
hiện rất rõ qua những trích dẫn cam kết của ngân hàng trong các giao dịch
bảo lãnh. Người bảo lãnh thực hiện cam kết của mình căn cứ duy nhất vào
thực tế là người thụ hưởng có thoả mãn đầy đủ những quy định của bảo
lãnh hay không. Người hưởng được quyền đòi tiền dựa vào các điều kiện
của bảo lãnh mà không bị ngăn cản bởi bất cứ người nào khác
– Tính độc lập tương đối
Nghĩa vụ của ngân hàng phải thanh toán cho người hưởng khi nhận
được đòi tiền kèm các chứng từ theo đúng các điều khoản của bảo lãnh.
Vấn đề là ở chỗ các chứng từ gì và những điều khoản nào? Đây là điểm
mấu chốt trong việc quy định mức độ độc lập của giao dịch bảo lãnh. Nếu
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
11
hai bên trong hợp đồng cơ sở thoả thuận chứng từ xuất trình và điều kiện
đòi tiền được lập bằng chính người hưởng: tuyên bố vi phạm (Statement of
default), thì sự độc lập này gần như tuyệt đối vì nó không có yếu tố thứ ba
trong giao dịch. Ngược lại, nếu bảo lãnh quy định xuất trình chứng từ của
phía thứ ba như chứng thực của cơ quan độc lập về sự vi phạm của đối tác,
quyết định của trọng tài, thậm chí phán quyết của toà án, thì tính độc lập
của giao dịch bảo lãnh bị điều chỉnh.
Theo quan điểm của các ngân hàng thì tính độc lập của bảo lãnh
mang lại nhiều thuận lợi, do ngân hàng chỉ việc xem xét sự phù hợp của
các chứng từ với các điều khoản và điều kiện của bảo lãnh khi có yêu cầu
thanh toán.
1.2.2. Bảo lãnh là một mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau
Khi đồng ý bảo lãnh, ngân hàng phát hành thư bảo lãnh. Thư bảo
lãnh là một hợp đồng giữa hai bên thường là ngân hàng và người thụ
hưởng. Hợp đồng này độc lập trong mối quan hệ với hợp đồng cơ sở. Tuy
nhiên để hiểu cơ chế của công cụ này cần thiết phải hiểu rằng giao dịch bảo
lãnh liên quan đến mối quan hệ của ba hợp đồng. Nó không chỉ là mối quan
hệ giữa hai bên mà là một quan hệ tạo thành trong mối quan hệ nhiều bên
bao gồm:
Mối quan hệ cơ sở: là mối quan hệ giữa người uỷ nhiệm và người
thụ hưởng bảo lãnh, đây là gốc để hình thành những mối quan hệ khác. Mối
quan hệ này được thể hiện bằng Hợp đồng với các điều khoản về giao dịch
cơ sở. Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của mình, một bên hợp đồng phải có
được bảo lãnh từ ngân hàng cấp cho đối tác.
Mối quan hệ uỷ thác: tuỳ từng chủ thể trong giao dịch mà có các
mối quan hệ uỷ thác khác nhau.
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
12
– Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh với ngân hàng đại lý
của nó hoặc với ngân hàng do người thụ hưởng chỉ định trong việc thực
hiện thông báo bảo lãnh tới người thụ hưởng. Mối quan hệ bảo lãnh cũng
được xác lập với từng đối tượng chủ thể khác nhau.
– Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng
bảo lãnh, nếu như người thụ hưởng không thực hiện đúng các điều kiện
thanh toán thì ngân hàng được quyền từ chối. Ngược lại, ngân hàng phải
chuyển trả tiền theo chỉ thị của người thụ hưởng.
– Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành với ngân hàng xác nhận, ngân
hàng thanh toán (trong bảo lãnh đối ứng).
– Mối quan hệ giữa người thụ hưởng với ngân hàng xác nhận, ngân hàng
thanh toán.
Các mối quan hệ trên hình thành nên giao dịch bảo lãnh. Chúng độc lập với
nhau nhưng lại có mối liên quan mật thiết và tác động qua lại.
1.2.3. Tính chất chứng từ
– Giao dịch bằng chứng từ và trên cơ sở chứng từ
Giao dịch truyền thống của ngân hàng là bằng chứng từ và trên cơ sở
chứng từ. Điều này thể hiện rõ nhất trong phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ. Bảo lãnh cũng thể hiện tính chất này trong giao dịch, tuy mức độ
thấp hơn. Nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh và quyền của người hưởng
được xác định trên cơ sở các chứng từ xuất trình. Người hưởng sẽ không
được thanh toán nếu các yêu cầu về chứng từ không được thoả mãn. Ngược
lại, ngân hàng phải trả tiền cho người thụ hưởng dù biết rằng họ không thể
nhận được khoản hoàn trả từ phía người uỷ nhiệm một khi chứng từ xuất
trình phù hợp với bảo lãnh.
– Kiểm tra chứng từ
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
13
Đặc trưng này có mối quan hệ gắn bó và lô-gích với bản chất độc lập
và tính chất chứng từ của giao dịch bảo lãnh. Mối quan hệ giữa ngân hàng
bảo lãnh với người được bảo lãnh và người thụ hưởng chỉ liên quan đến
thực trạng chứng từ xuất trình có phù hợp bề mặt với yêu cầu của bảo lãnh
hay không.
1.3. Điều kiện cần thiết để thực hiện bảo lãnh của các NHTM
Để xử lý tốt các vấn đề thường gặp trong giao dịch và quá trình bảo
lãnh, các ngân hàng cần đáp ứng một số điều kiện sau:
– Nguồn tài chính vững chắc: Đây có thể coi là điều kiện đầu tiên
quan trọng nhất để đảm bảo cho các Ngân hàng có khả năng thực hiện được
nghiệp vụ bảo lãnh của mình. Bởi lẽ, nghiệp vụ bảo lãnh cũng giống như
rất nhiều các nghiệp vụ khác của Ngân hàng không tránh khỏi những rủi ro
trong thanh toán, các Ngân hàng phải luôn sẵn có những khoản dự phòng
trong trường hợp người được bảo lãnh không có khả năng thanh toán. Hơn
thế, một nguyên nhân nữa không kém phần quan trọng đó là chỉ có những
ngân hàng có tiềm lực tài chính vững chắc, dồi dào mới có đủ khả năng và
uy tín để đứng ra bảo lãnh, đặc biệt là trong giao thương quốc tế.
– Bộ phận kinh doanh ngân hàng giàu kinh nghiệm và đa năng.
Nếu không xây dựng được một đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp và cơ sở vật
chất đầy đủ tiện ích, ngân hàng sẽ chỉ đóng vai trò trung gian chuyển tiếp
cho một ngân hàng khác quy mô lớn hơn để xử lý. Và điều này khiến cho
khách hàng hao tốn nhiều thời gian hơn trong khâu thanh toán bù trừ, tốn
kém hơn trong chi phí xử lý giao dịch, và còn có thể làm sai lệnh thông tin
hoặc phát sinh những vấn đề vướng mắc. Các cấp quản lý của ngân hàng
phải có năng lực thật sự, hiểu biết cặn kẽ về công việc và quy trình tác
nghiệp, nắm vững luật lệ, tập quán thương mại trong nước và quốc tế, môi
trường kinh doanh, về đặc điểm khách hàng hiện có và khách hàng tiềm
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
14
năng, . . . Từ đó họ mới có khả năng ra quyết định hợp lý và đúng đắn, tối ưu
nhất.
– Quan hệ ngân hàng đại lý rộng lớn, vững chắc và không ngừng
được củng cố. Ngoài việc được cơ quan có thẩm quyền (Ngân hàng Trung
ương) cho phép cung cấp dịch vụ ngân hàng quốc tế, quy mô kinh doanh
của ngân hàng tối thiểu cũng phải đạt mức đủ để tạo uy tín kinh doanh
trong lĩnh vực ngân hàng, tạo điều kiện xác lập các mối quan hệ ngân hàng
đại lý rộng khắp và bền chặt.
– Bảo đảm mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ giữa ngân hàng với các
cơ quan tổ chức cung ứng dịch vụ như các tổ chức bảo hiểm và bảo lãnh
tín dụng xuất khẩu, quỹ hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu, cục xúc tiến
thương mại . . . Trên cơ sở đó, ngân hàng có thể tận dụng những ích lợi từ
những dịch vụ của các tổ chức này cung cấp nghiệp vụ, đồng thời có biện
pháp xác lập cấu trúc dịch vụ ngân hàng cung ứng phù hợp.
2. Nghiệp vụ bảo lãnh XNK của các NHTM nói chung
Hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng được sử dụng để hỗ trợ sự
phát triển kinh tế toàn cầu và tạo ra đòn bẩy để phát triển nội lực và ngoại
lực. Có thể chắc chắn rằng các thương vụ lớn với nước ngoài hiện nay
không thể nào không có một dạng nào đó của bảo lãnh đi kèm. Bảo lãnh
của ngân hàng thực sự đã trở thành công cụ thông dụng nhất nhằm đảm bảo
thực thi nghĩa vụ, đặc biệt là nghĩa vụ tài chính trong các giao dịch ở hầu
hết các quốc gia trên thế giới.
2.1. Khái niệm
Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM được hiểu là
“các hoạt động mang tính bảo lãnh của ngân hàng nhằm đáp ứng
những nhu cầu đặc thù về tài chính và uy tín trong kinh doanh của các
doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu trong quá trình giao dịch ngoại
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
15
thương” (Giáo trình Thanh toán quốc tế và Tài trợ xuất nhập khẩu – Học
viện Ngân hàng).
Quá trình giao dịch ngoại thương được hiểu là toàn bộ diễn biến của
một thương vụ xuất khẩu (đối với bên bán) và nhập khẩu (đối với bên
mua). Theo nghĩa hẹp, quá trình này bắt đầu từ lúc tìm kiếm đối tác, thiết
kế sản phẩm, chào hàng – đặt hàng, ký kết hợp đồng cho đến khi giao hàng
và hoàn thành hợp đồng.
Qui trình của một nghiệp vụ XNK thường là ngắn hạn nhưng cũng
có khi kéo dài như đối với các dự án, công trình hoặc thương vụ có giá trị
lớn. Đặc điểm này đã chi phối thời hạn của hoạt động bảo lãnh của các
ngân hàng, đòi hỏi nó trở nên rất đa dạng, có thể đáp ứng mọi nhu cầu của
các doanh nghiệp. Đối tượng trong một giao dịch bảo lãnh thông thường là
hàng hóa, dịch vụ hoặc các công trình dự án.
Mục đích bảo lãnh của các ngân hàng là nhằm giúp các doanh nghiệp
vượt qua các trở ngại đặc thù về tài chính và uy tín trong kinh doanh để có
thể nâng cao kết quả hoạt động, tăng sức cạnh tranh, hoàn thành thương vụ,
có ngoại lực để tiếp tục ổn định và phát triển.
Về bản chất, bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM cũng giống
như mọi loại hình tín dụng ngân hàng khác, nghĩa là cũng dựa trên“ uy
tín ” và “ niềm tin”. Thông thường, thuật ngữ “ tín dụng ngân hàng”
được định nghĩa là “ một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa
bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các
chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay
sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có
trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán” (Giáo trình Tín dụng ngân hàng – Học viện Ngân hàng).
Trong bảo lãnh xuất nhập khẩu, thuật ngữ này còn bao hàm cả dạng thức
bảo lãnh, trong đó ngân hàng nhân danh khách hàng sẽ đứng ra cam kết bảo
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
16
lãnh uy tín cho khách hàng ấy trước một bên thứ ba. Uy tín được ngân hàng
bảo lãnh có thể là uy tín thanh toán, uy tín giao hàng, uy tín thực hiện hợp
đồng…, tuỳ theo vị thế và yêu cầu của khách hàng cũng như nội dung
thương vụ.
Có thể nói, hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM ra đời là
một tất yếu khách quan, gắn liền với các quan hệ TMQT, phản ánh mối quan
hệ giữa hoạt động xuất nhập khẩu và kinh doanh của ngân hàng. Theo thời
gian, nghiệp vụ này ngày càng phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng, phục
vụ tích cực và có hiệu quả, trở thành lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất
trong toàn bộ các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cả về vai trò lẫn quy mô.
Từ phần này trở đi, trong khoá luận tốt nghiệp này, thuật ngữ
“bảo lãnh xuất nhập khẩu” sẽ được sử dụng để thay thế cho cụm từ “bảo
lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM”.
2.2. Cơ sở ra đời, tồn tại và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh XNK
của các NHTM
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất hiện nay là môi trường kinh
doanh có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các nhà xuất khẩu hàng hoá
không chỉ phải đối mặt với các nhà cung ứng trong nước mà còn phải tìm
mọi cách để chiến thắng các đối thủ ở nước ngoài nhằm giành được thị
phần trong TMQT. Trong khi đó, người mua càng ngày càng yêu cầu khắt
khe hơn về chất lượng, mẫu mã, giá cả . . . và rất nhiều các điều kiện khác.
Do vậy, một nhà xuất khẩu muốn chiến thắng thì phải luôn đưa ra được
những lời chào hàng hấp dẫn nhất, với nhiều điều kiện ưu đãi nhất. Và một
trong những yếu tố quan trọng có tính quyết định là những ưu đãi về thời
hạn thanh toán. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào nhà xuất khẩu
cũng có đủ vốn để thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Mặt khác, khi bán
hàng bao giờ họ cũng muốn thu hồi vốn nhanh để tiếp tục quay vòng, bởi
trong kinh doanh, nếu bị đọng vốn nhiều thì đồng nghĩa với việc kinh
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
17
doanh không có hiệu quả. Đối lập với mong muốn của nhà xuất khẩu, nhà
nhập khẩu không phải bao giờ cũng có sẵn tiền mà cơ hội kinh doanh thì
không thể bỏ qua. Do vậy, họ rất cần có một nguồn ngoại lực trợ giúp, đặc
biệt là các doanh nghiệp nhỏ, chưa tạo được uy tín và danh tiếng trong
TMQT.
Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu luôn tiềm ẩn rất
nhiều nguy cơ dẫn đến rủi ro và thất bại. Bởi ngoài các khó khăn thông
thường giống như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nội địa, các doanh
nghiệp XNK còn phải đương đầu với rất nhiều nguy cơ khác, xuất phát từ
các yếu tố đặc thù trong TMQT như: thời gian thực hiện hợp đồng và
khoảng cách địa lý; đồng tiền thanh toán và biến động tỷ giá; sự khác biệt
về ngôn ngữ, luật pháp, tập quán kinh doanh và các quy định điều tiết giữa
các chính phủ . . . quốc tế, người ta đã sử dụng các công cụ kiểm soát như
tín dụng chứng từ (Documentary Credits), bảo lãnh hối phiếu (aval) hay
chấp nhận của Ngân hàng (Bank’s acceptance). Tuy nhiên, những công cụ
trên được sử dụng đơn thuần là để đảm bảo cho rủi ro của việc không thanh
toán. Để đối phó với các rủi ro do việc không thực hiện hợp đồng đã xuất
hiện công cụ tín dụng thư dự phòng (Stand by letter of credit) và bảo lãnh
độc lập (Independent Guarantee) được phát hành bởi các Tổ chức tài chính
có uy tín như các Ngân hàng, tổ chức tín dụng…
Mặc dù có rất nhiều khó khăn, nhưng hoạt động xuất nhập khẩu luôn
luôn là lĩnh vực quan trọng trong chiến lược phát triển của bất cứ quốc gia
nào và nó cũng luôn giành được sự quan tâm từ nhiều phía, đặc biệt là từ
phía các doanh nghiệp. Vì trong khi thị trường nội địa đã bão hoà và mang
tính cạnh tranh rất cao thì thị trường quốc tế lại hết sức rộng lớn, với nhiều
cơ hội kinh doanh hứa hẹn một tỷ suất lợi nhuận cao. Do vậy, bất cứ một
doanh nghiệp nào cũng luôn mong muốn tìm kiếm cơ hội và mở rộng kinh
doanh ở những thị trường mới khắp thế giới ấy.
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
18
Xuất phát từ thực tiễn khách quan đó, hoạt động bảo lãnh XNK đã ra
đời và ngày càng khẳng định được vị thế quan trọng trong việc thúc đẩy
TMQT.
2.3. Vai trò của hoạt động bảo lãnh XNK của các NHTM
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
Bảo lãnh XNK, cùng với các dịch vụ ngân hàng quốc tế khác, ra đời
và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu rất đa dạng của các doanh nghiệp về
phát triển kinh doanh, chống đỡ rủi ro, nâng cao hiệu quả và tăng cường
khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực TMQT. Qua các hoạt động bảo lãnh,
các ngân hàng cung cấp hệ thống giải pháp phong phú, hữu hiệu, giải quyết
phần lớn những khó khăn về tài chính và uy tín kinh doanh ngoại thương
của doanh nghiệp.
Bên cạnh các hình thức cấp tín dụng trực tiếp như: chiết khấu bộ
chứng từ L/C trả chậm miễn truy đòi hay nhận bao thanh toán những khoản
phải thu của nhà xuất khẩu . . . các ngân hàng còn cấp tín dụng gián tiếp
bằng cách dùng uy tín của mình đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp. Có thể
nói, hình thức bảo lãnh này ngày càng đóng vai trò quan trọng khi tính chất
phức tạp của các hoạt động TMQT ngày càng gia tăng. Nhất là các doanh
nghiệp ở các nước đang phát triển, do mới gia nhập vào thị trường quốc tế,
chưa xây dựng được niềm tin đối với bạn hàng thì việc dựa vào uy tín của
ngân hàng là vô cùng cần thiết.
Đối với nền kinh tế
Lĩnh vực xuất nhập khẩu thường được xem là một lĩnh vực kinh tế
then chốt trong chiến lược phát triển quốc gia. Nguồn thu nhập to lớn từ
nước ngoài thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, việc làm và thu nhập quốc
dân gia tăng nhanh, công nghệ hiện đại phục vụ phát triển kinh tế đất nước
. . . Để hoạt động xuất nhập khẩu có thể phát huy được các vai trò trên, nhất
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
19
thiết phải có sự tham gia của các NHTM. Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập
khẩu và các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khác đóng vai trò là chất xúc tác,
giúp cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi, góp phần
tăng tính năng động cho nền kinh tế, ổn định thị trường. Hoạt động bảo
lãnh xuất nhập khẩu không chỉ theo sau mà còn là nhân tố đi trước, mở
đường cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển theo định hướng của Nhà
nước.
Đối với các NHTM
Có thể nói, nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khâủ nói riêng và hệ thống
nghiệp vụ ngân hàng quốc tế nói chung là những hình thức kinh doanh
mang lại hiệu quả cao và khá an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Thông qua các hình thức bảo lãnh xuất nhập khẩu, các NHTM thu
được lãi và phí. Những khoản thu này về số tuyệt đối thường rất lớn do quy
mô của hoạt động xuất nhập khẩu và số tiền bảo lãnh.
Nghiệp vụ này cũng khá an toàn do các NHTM đều nhận thức được
mức độ phức tạp của TMQT nên trong việc xử lý luôn luôn tỏ ra thận
trọng, ví dụ như : yêu cầu có đảm bảo cho những khoản xin bảo lãnh, căn
cứ vào mức độ và số tiền bảo lãnh . . . Ngoài ra, do các khách hàng xin bảo
lãnh đều có tài khoản tại ngân hàng nên nó có thể quản lý các nguồn thanh
toán, tránh được tình trạng xoay vốn của khách hàng trong thời gian vốn
tạm thời nhàn rỗi, dễ xảy ra rủi ro.
Một lợi ích khác hết sức quan trọng là thông qua bảo lãnh xuất nhập
khẩu, ngân hàng thiết lập được mối quan hệ với các doanh nghiệp và ngân
hàng nước ngoài, từ đó có thể phát triển được mạng lưới ngân hàng đại lý,
ngân hàng chi nhánh rộng khắp giúp ngân hàng mở rộng thị phần ở thị
trường quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp. Mặt khác, việc đáp
ứng nhu cầu của khách hàng xuất nhập khẩu về tài chính và uy tín trong
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
20
kinh doanh khiến cho ngân hàng nâng cao được vị thế cạnh tranh và khả
năng phát triển.
2.4. Nguồn luật điều chỉnh nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của
các NHTM.
Như đã nêu ở phần trên, tình trạng thiếu một tên gọi quốc tế chuẩn
thống nhất cho nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng cho thấy rằng vẫn còn chưa
có một chuẩn mực thực hành nghiệp vụ được công nhận trên bình diện toàn
cầu, dù rằng bảo lãnh ngân hàng vẫn được sử dụng rộng rãi trong thực tiễn.
2.4.1. Các công ước quốc tế
Năm 1995, Uỷ ban Pháp luật và thương mại quốc tế của Liên Hiệp
Quốc đã soạn thảo: “Công ước Liên hiệp quốc về bảo lãnh độc lập và Tín
dụng dự phòng” , nhưng cho đến nay nó vẫn chưa có hiệu lực thi hành.
Công ước là sự tổng hoà của các Bộ Luật quốc gia về giao dịch bảo lãnh
độc lập và tín dụng dự phòng. Nó quốc tế hoá giao dịch này, tạo ra một
phong thái, cách thức phù hợp với tập quán và thông lệ quốc tế.
Tuỳ vào thực tế của hệ thống pháp luật nước mình, từng quốc gia có
thể phê chuẩn Công ước nhằm tạo một hành lang Pháp lý trong giao dịch
quốc tế về bảo lãnh độc lập và tín dụng dự phòng. Lợi thế của công ước là
việc phê chuẩn Công ước là cả hai bên đều nắm hiểu và áp dụng thông thạo
một điều luật chung trong giao dịch, tránh được tình trạng một trong hai đối
tác lựa chọn luật của nước mình áp dụng cho giao dịch, tạo bất lợi cho phía
bên kia.
2.4.2. Các văn bản của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành
Sự phát triển mạnh mẽ của giao dịch cam kết bảo lãnh trong thập kỷ
60 đã bắt buộc các tổ chức thương mại, tài chính quốc tế nghĩ đến một hành
lang pháp lý cho công cụ bảo đảm được coi là đa năng, uyển chuyển này.
Trong số đó, phòng TMQT (The International Chamber of Commerce –
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
21
ICC), một tổ chức phi chính phủ về Thương mại – Ngân hàng – Bảo hiểm –
Vận tải lớn nhất thế giới đã có những đóng góp đáng kể vào công trình
trên.
Năm 1978, Phòng TMQT (ICC) đã ban hành ấn bản số 325 – “Các
quy tắc thống nhất về Bảo lãnh Hợp đồng” (The Uniform Rules for
Contract Guarantee – gọi tắt là URCG). Quy tắc này nhằm đảm bảo sự
thống nhất về thực hiện giao dịch Bảo lãnh dựa trên sự cân xứng về quyền
và nghĩa vụ của các bên liên quan nhưng cũng tuân thủ mục đích thương
mại của bảo lãnh, có nghĩa là đảm bảo số tiền thanh toán từ phía thứ ba
trong trường hợp người hưởng chứng minh rằng họ được quyền thanh toán
do sự vi phạm hợp đồng của phía đối tác.
Tuy nhiên, ấn bản này chưa thực sự cụ thể, chưa thật sự nêu rõ được
tính độc lập của bảo lãnh cũng như tính chứng từ của nó. Trong suốt thời
gian sử dụng, Các Quy tắc này đã gây ra nhiều tranh cãi, mặc dù ICC đã có
những văn bản bổ sung, giải thích nhưng nó cũng không được chấp nhận
một cách rộng rãi.
Đến tháng 12/1991, ICC đã hoàn tất ấn bản số 458 – Các quy tắc
thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu (The Uniform Rules for Demand
Guarantee – gọi tắt là URDG) và có hiệu lực vào tháng 4/1992. Đây thật
sự mới là một bước hoàn thiện những quy tắc về bảo lãnh. Các quy tắc này
tổng hợp những điểm tiến bộ của “Các Quy tắc thống nhất về Bảo lãnh
Hợp đồng”. URDG – ICC 458 không những điều tiết những mối quan hệ
giữa người bảo lãnh và người thụ hưởng mà còn điều tiết những mối quan
hệ phát sinh từ những bảo lãnh đối ứng (counter-guarantee). URDG là một
văn bản khá hoàn thiện, việc nghiên cứu và dẫn chiếu theo Các quy tắc này
sẽ tránh được những rủi ro do không nắm được Luật pháp của các bên đối
tác. Bên cạnh đó, do tính chất ấn bản sau không phủ định ấn bản trước đối
với các văn bản do ICC phát hành, do vậy “Các quy tắc thống nhất về Bảo
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
22
lãnh Hợp đồng – URCG 325) vẫn còn có hiệu lực. Các bên tham gia trong
một nghiệp vụ bảo lãnh, tuỳ chọn, có thể căn cứ theo URCG hay URDG.
Trong tương lai, ICC cũng xem xét việc bổ sung, sửa đổi lại URCG cho
phù hợp với xu hướng của những tập quán bảo lãnh chung hiện nay.
2.4.3. Luật quốc gia
Một vài quốc gia có ban hành những luật, những quy định cho
nghiệp vụ bảo lãnh, ví dụ như Uniform Commercial Code ở Mỹ, Luật Bảo
lãnh của Anh, Luật Hợp đồng TMQT (International Commercial Contracts
Act) của Đức, những quy định về Bảo lãnh ở Hà Lan, Ả Rập …
Những văn bản này cũng định nghĩa, mô tả nội dung bảo lãnh và
những quy định trách nhiệm của các bên trong một nghiệp vụ bảo lãnh,
điều kiện thanh toán. Về nguyên tắc, luật quốc gia của phía phát hành bảo
lãnh sẽ được áp dụng cho bảo lãnh đó, nếu hai bên không chọn được luật
của nước thứ ba. Nhưng đôi khi những quy định trong luật quốc gia lại trái
ngược với những văn bản của Phòng TMQT. Điều này có thể dẫn tới
những ngộ nhận, nhầm lẫn đáng tiếc và những tranh chấp có thể phát sinh
khi các bên không hiểu rõ và đầy đủ về tầm mức trách nhiệm của mình. Do
vậy, ở những nước có luật hay quy định về nghiệp vụ bảo lãnh thì khi phát
hành bảo lãnh tham chiếu theo các ấn bản của ICC, các ngân hàng thường
ghi điều khoản tham chiếu trong nội dung của các cam kết bảo lãnh để hạn
chế những rủi ro trên. Ví dụ như: “Bảo lãnh này được áp dụng theo Luật
của . . . quy tắc . . .”
2.5. Chủ thể của một giao dịch bảo lãnh
Một giao dịch bảo lãnh ngân hàng thông thường cũng như trong lĩnh
vực TMQT, bao gồm 3 chủ thể chính: ngân hàng bảo lãnh, người được bảo
lãnh, và người thụ hưởng bảo lãnh (còn được gọi là người nhận bảo lãnh,
và trong một số trường hợp còn có tên gọi là người yêu cầu bảo lãnh).
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
23
Ngân hàng bảo lãnh: là chủ thể đứng ra bảo đảm với người thụ
hưởng rằng người được bảo lãnh sẽ hoàn thành những nghĩa vụ đã thoả
thuận trong hợp đồng. Nếu các nghĩa vụ này không được hoàn thành, ngân
hàng bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán đền bù cho người thụ hưởng. Mức đền
bù dựa theo thoả thuận bảo lãnh ngân hàng đã cấp, có thể từ 1% – 100% giá
trị hợp đồng.
Người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh có thể là nhà xuất
khẩu hoặc nhà nhập khẩu, tuỳ theo nghiệp vụ được bảo lãnh.
Người được bảo lãnh: là người được ngân hàng cam kết trả thay
nếu vi phạm hợp đồng. Ở đây thường là nhà nhập khẩu
Người thụ hưởng bảo lãnh: là người được ngân hàng bảo lãnh
thanh toán khi có yêu cầu do người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng,
thường là nhà xuất khẩu.
Ngoài ra, do người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh ở các
quốc gia khác nhau, nên cũng như phương thức thanh toán tín dụng chứng
từ, nghiệp vụ bảo lãnh còn có sự tham gia của một số ngân hàng:
Ngân hàng thông báo: là ngân hàng của người thụ hưởng, có nhiệm
vụ thông báo bảo lãnh cho người thụ hưởng sau khi đã kiểm tra tính chân
thực của bảo lãnh (chữ ký hữu quyền hay testkey).
Ngân hàng xác nhận: là ngân hàng của nước người người thụ
hưởng, khi mà người thụ hưởng không tin tưởng tiềm lực tài chính của
ngân hàng phát hành thì có thể yêu cầu sự tham gia của một ngân hàng xác
nhận.
Ngân hàng thanh toán (Reimbursing bank): đây thực chất cũng là
ngân hàng phát hành bảo lãnh cho người người thụ hưởng nhưng theo chỉ
thị của một ngân hàng trung gian phục vụ người được bảo lãnh dựa trên
một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
24
chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà
do ngân hàng chỉ thị.
Trong giao dịch ngoại thương, đối tượng giao dịch bảo lãnh là
thương vụ mua bán giữa các bên xuất khẩu và nhập khẩu. Và quan hệ giữa
các bên được quy định bởi 3 hợp đồng riêng biệt, độc lập với nhau.
Hợp đồng giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh,
cụ thể là đơn xin phát hành bảo lãnh. Hợp đồng giữa người được bảo lãnh và
người thụ hưởng bảo lãnh. Thư bảo lãnh (letter of guarantee) hay còn gọi là
cam kết bảo lãnh, là hợp đồng giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người
thụ hưởng. Bên cạnh hợp đồng giữa các chủ thể chính của nghiệp vụ bảo lãnh,
còn có các hợp đồng giữa ngân hàng phát hành với ngân hàng thông báo, ngân
hàng phát hành với ngân hàng xác nhận hoặc với ngân hàng thanh toán.
Như vậy, một nghiệp vụ bảo lãnh không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa
ngân hàng bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh, mà còn bao hàm những
mối quan hệ khác nữa
2.6. Các loại hình bảo lãnh XNK
Có nhiều dạng thức dịch vụ bảo lãnh ngoại thương khác nhau có thể
sử dụng tương thích với tình hình diễn biến cụ thể của từng giao dịch.
2.6.1. Các nghiệp vụ bảo lãnh ngắn hạn
Đây là loại hình bảo lãnh có thời hạn dưới một năm. Bảo lãnh ngắn
hạn thường được sử dụng nhằm hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp,
giúp họ có điều kiện về tài chính để thanh toán các khoản nhập khẩu
nguyên liệu, vật tư hay để thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Đây là loại
hình bảo lãnh chiếm tỷ trọng lớn tại các NHTM.
a)
Bảo lãnh XNK trên cơ sở phương thức nhờ thu kèm chứng từ
Khi giao dịch ngoại thương áp dụng phương thức thanh toán nhờ thu,
nhà xuất khẩu giao hàng và uỷ nhiệm ngân hàng của mình thu hộ tiền hàng
NghiÖp vô b¶o l·nh xuÊt nhËp khÈu cña c¸c NHTM_Thùc tr¹ng, gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ë ViÖt Nam
Lª Thu Ph¬ng_A8 K38C
25
từ người mua nước ngoài trên cơ sở chỉ thị nhờ thu. Ngân hàng xử lý
nghiệp vụ nhờ thu chỉ trên cơ sở chứng từ và hoàn toàn độc lập với giao
dịch mua bán hàng hoá giữa nhà xuất khẩu với nhà nhập khẩu.
Trong phương thức thanh toán nhờ thu, nhà xuất khẩu thường phải
chờ đợi một thời gian đáng kể từ lúc giao hàng cho đến khi được thanh
toán, không những thế, để bán được hàng, nhà xuất khẩu đôi khi phải chấp
nhận việc cho phép người mua trả chậm tiền hàng. Chính vì thế, nhà xuất
khẩu có thể gặp những khó khăn về vốn kinh doanh khi sử dụng phương
thức thanh toán này.
Do vậy, để các giao dịch được diễn ra trôi chảy, cần thiết phải có sự
tham gia của các NHTM, đóng vai trò là nhà bảo lãnh. Trong khuôn khổ và
dựa trên cơ sở phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ, ngân hàng
có thể thực hiện bảo lãnh bằng các kỹ thuật : ứng trước giá trị nhờ thu, mua
hối phiếu, chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu, và tín dụng chấp phiếu.
b) Bảo lãnh trên cơ sở phương thức tín dụng chứng từ
Tín dụng chứng từ là một văn bản thoả thuận, trong đó một ngân hàng
(ngân hàng mở tín dụng), theo yêu cầu của một khách hàng (người yêu cầu mở
tín dụng) sẽ trả tiền cho người thứ ba đó (người hưởng lợi); hoặc sẽ trả, chấp
nhận, mua hối phiếu do người hưởng lợi phát hành; hoặc cho phép một ngân
hàng khác trả tiền, chấp nhận hay mua hối phiếu đó, khi xuất trình đầy đủ các
chứng từ đã quy định và mọi điều kiện đặt ra trong tín dụng thư đều được thực
hiện đầy đủ (Giáo trình Thanh toán quốc tế _Trường Đại học Ngoại Thương).
Trong khuôn khổ và dựa trên cơ sở phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ, các ngân hàng thực hiện bảo lãnh thông qua các kỹ thuật: phát
hành thư tín dụng, xác nhận thư tín dụng, chiết khấu bộ chứng từ theo thư
tín dụng, tài trợ bằng các loại thư tín dụng đặc biệt, (thư tín dụng giáp lưng,
thư tín dụng chuyển nhượng, thư tín dụng tuần hoàn).