ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢỜNG VĂN MINH
NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG
VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢỜNG VĂN MINH
NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG
VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04
Người hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN BÍCH THẢO
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận
văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lƣờng Văn Minh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
BLTTDS
TTDS
VAMC
: Bộ luật dân sự
: Bộ luật tố tụng dân sự
: Tố tụng dân sự
: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản của
các tổ chức tín dụng Việt Nam
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
…………………………………………………………………………………………………….. 1
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG
VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ………………………. 8
1.1. Lý luận về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự ……………………… 8
1.1.1 Khái niệm người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ……………………. 8
1.1.2. Đặc điểm người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ……………………. 9
1.1.3. Ý nghĩa của quy định về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự 11
1.2. Khái quát về tranh chấp hợp đồng tín dụng và đƣơng sự trong vụ án tranh chấp
hợp đồng tín dụng
……………………………………………………………………………………….. 14
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng …………….. 14
1.2.2. Đặc điểm của đương sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng
…………. 17
1.3. Khái niệm và đặc điểm ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án dân sự về
tranh chấp hợp đồng tín dụng
……………………………………………………………………….. 19
KẾT LUẬN CHƢƠNG I …………………………………………………………………………….. 22
CHƢƠNG 2. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NGƢỜI ĐẠI
DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN
DỤNG ………………………………………………………………………………………………………. 23
2.1. Những quy định chung về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
. 23
2.1.1. Điều kiện trở thành người đại diện trong tố tụng dân sự ………………………… 23
2.1.2. Người đại diện theo pháp luật
……………………………………………………………… 24
2.1.3. Người đại diện theo ủy quyền ……………………………………………………………… 31
2.2. Những quy định cụ thể về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án tranh chấp
hợp đồng tín dụng
……………………………………………………………………………………….. 43
KẾT LUẬN CHƢƠNG II ……………………………………………………………………………. 51
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ……………………………………………… 52
3.1 Những vấn đề phát sinh trong thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về
ngƣời đại diện của đƣơng sự trong các vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng ….. 52
3.1.1 Người đại diện theo pháp luật của bị đơn bỏ trốn hoặc vì lý do khác không
thể làm người đại diện theo pháp luật của bị đơn trong quá trình tố tụng …………. 52
3.1.2 Xác định đương sự và người đại diện của đương sự trong trường hợp tổ chức
tín dụng bán nợ
…………………………………………………………………………………………… 57
3.1.3 Thay đổi người đại diện theo ủy quyền ………………………………………………….. 66
3.1.4 Việc đương sự ủy quyền cho nhiều người đại diện tham gia tố tụng gây khó
khăn cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án ………………………………………………….. 69
3.1.5 Xác định sai tư cách tham gia tố tụng của chi nhánh ngân hàng dẫn đến xác định
sai tư cách người đại diện trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng …………………… 72
3.1.6 Viện kiểm sát kháng nghị không đúng do hiểu sai quy định pháp luật về
trường hợp không được làm người đại diện …………………………………………………… 74
3.2 Nguyên nhân của những hạn chế, sai sót khi áp dụng các quy định pháp luật về
ngƣời đại diện của đƣơng sự trong thực tiễn giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng
tín dụng
……………………………………………………………………………………………………… 79
3.3 Một số kiến nghị nhằm khắc phục những vƣớng mắc, hạn chế trong việc áp
dụng các quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng
tín dụng
……………………………………………………………………………………………………… 84
3.3.1 Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự ……………………………………………………………………………………. 84
3.3.2 Kiến nghị khác
……………………………………………………………………………………. 89
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
…………………………………………………………………………….. 91
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………………….. 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………….. 94
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là một trong những quyền
cơ bản của công dân và đã đƣợc ghi nhận nhƣ là một trong những nguyên tắc hiến
định “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14 Hiến pháp 2013). Bên
cạnh đó, Điều 16 của Hiến pháp 2013 quy định “Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội”. Đó cũng là một trong những nguyên tắc quan trọng của tố tụng
dân sự, theo đó, mọi cá nhân, tổ chức đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố
tụng dân sự. Đƣơng sự khi tham gia tố tụng dân sự có quyền tự bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho mình, đƣợc ủy quyền hoặc nhờ ngƣời khác có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Tòa án phải
đảm bảo cho các đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền bảo vệ của họ.
Trong TTDS, đƣơng sự thƣờng tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng
hợp, các đƣơng sự không thể tự mình tham gia tố tụng, vì vậy, để bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, họ phải tham gia tố tụng thông qua ngƣời đại diện.
Có thể nói, chế định ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự là một chế
định quan trọng của pháp luật tố tụng dân sự giúp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự và tạo thuận lợi cho tòa án trong giải quyết các vụ việc dân sự.
Hiện nay, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, sự chủ động
và tích cực trong hội nhập quốc tế, các quan hệ kinh tế diễn ra ngày càng phong
phú đa dạng, trong đó sự phát triển của các quan hệ tín dụng có ý nghĩa to lớn đối
với các hoạt động kinh tế. Các hoạt động tín dụng mà điển hình là hoạt động vay
2
vốn đã thúc đẩy quá trình sản xuất, lƣu thông và phát triển kinh tế. Cùng với sự
tăng trƣởng tín dụng mạnh mẽ, trong những năm gần đây, số lƣợng các vụ án tranh
chấp hợp đồng tín dụng đƣợc giải quyết tại Tòa án có chiều hƣớng gia tăng, phức
tạp, một số quy định pháp luật chƣa rõ ràng gây khó khăn trong quá trình áp dụng
thống nhất pháp luật để giải quyết tại Tòa án, trong đó có vấn đề ngƣời đại diện của
đƣơng sự. Trên thực tế, khi có tranh chấp xảy ra, các chủ thể trong quan hệ hợp
đồng tín dụng thƣờng sử dụng ngƣời đại diện của mình để tham gia giải quyết tranh
chấp, đặc biệt là bên tổ chức tín dụng thƣờng thông qua ngƣời đại diện để tham gia
tố tụng trƣớc Tòa án.
Sự tham gia của ngƣời đại diện có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong những trƣờng hợp nêu trên. Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) đã có các quy định tƣơng đối đầy đủ về ngƣời
đại diện của đƣơng sự trong TTDS, từ đó tạo cơ sở pháp lý tốt cho việc tham gia tố
tụng của ngƣời đại diện. Qua thực tiễn thực hiện, ngƣời đại diện đã và đang khẳng
định đƣợc vị thế và vai trò của mình trong TTDS. Tuy nhiên, một số quy định của
pháp luật TTDS về ngƣời đại diện của đƣơng sự còn chƣa rõ ràng, chƣa phù hợp
…. Bên cạnh đó, quá trình thực hiện các quy định pháp luật về ngƣời đại diện của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự nói chung và trong các vụ án tranh chấp hợp đồng
tín dụng nói riêng cũng gặp phải nhiều khó khăn, vƣớng mắc.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án dân sự
về tranh chấp hợp đồng tín dụng có ý nghĩa làm sáng tỏ những vƣớng mắc từ các
quy định pháp luật và trong quá trình thực hiện, qua đó đề xuất những kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Người đại
diện của đương sự trong vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng tín dụng ở Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về ngƣời đại
diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự.
3
Ví dụ, Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Trần Thị Quỳnh Châu (2019)
Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, Học viện khoa học xã hội; Luận
văn thạc sĩ luật học “Đại diện theo pháp luật của đượng sự trong tố tụng dân sự
Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Thu Hoài, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2016; Luận văn thạc sĩ luật học Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam của tác giả Tƣởng Duy
Tiến, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018; Luận văn thạc sĩ luật học
“Người đại diện hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Cao Thị
Bích Ngọc, năm 2019, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Về sách tham khảo,
chuyên khảo đã xuất bản có đề cập tới vấn đề ngƣời đại diện của đƣơng sự trong
TTDS, có thể kể ra các công trình nhƣ “Bình luận khoa học một số vấn đề của
pháp luật TTDS và thực tiễn áp dụng” của TS Lê Thu Hà (2006); sách “Pháp luật
TTDS và thực tiễn xét xử” của tác giả Tƣởng Duy Lƣợng (2009), Sách “Cơ chế
pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong giải quyết vụ án dân sự
tại Tòa án nhân dân” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ biên) năm 2017…
Trên báo và tạp chí đã có một số bài viết nhƣ: “Một vài suy nghĩ về đại diện
trong TTDS” của tác giả Tƣởng Duy Lƣợng trên tạp chí khoa học pháp lý (số 1/
2007); bài viết “Đại diện theo ủy quyền, từ pháp luật nội dung đến TTDS” của tác
giả Nguyễn Minh Hằng đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 05/2005; bài viết
“Một số vấn đề về người đại diện theo pháp luật của đương sự trong TTDS” của
tác giả Nguyễn Thị Hạnh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 3/2011, bài viết
“Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – nhìn từ góc độ Luật so
sánh” của tác giả Ngô Huy Cƣơng đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số
04/2009; bài viết “Người đại diện của đương sự trong Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số
9/2016…..
Các công trình nghiên cứu về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân
sự ở các luận án, luận văn, sách chuyên khảo, bài viết khoa học ở các tạp chí trên
4
đây đã tìm hiểu các vấn đề cơ bản về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân
sự nhƣ khái niệm, đặc điểm, địa vị pháp lý của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong
tố tụng dân sự; thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về ngƣời đại
diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự; kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ngƣời đại
diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự. Có thể nói, các vấn đề thuộc phạm vi
nghiên cứu của các công trình trên đây đã cơ bản bao quát đƣợc hầu hết vấn đề lý
luận, thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp
luật về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự theo BLTTDS 2004 (sửa
đổi, bổ sung năm 2011) và BLTTDS 2015. Trên cơ sở các nội dung đã đƣợc nghiên
cứu trong các công trình trên, luận văn này sẽ tiếp tục kế thừa những kết quả đã
đƣợc nghiên cứu về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên,
luận văn tập trung chủ yếu nghiên cứu, tìm hiểu về ngƣời đại diện của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự theo quy định hiện hành đó là BLTTDS 2015 và nghiên cứu
chuyên sâu về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án dân sự về tranh chấp hợp
đồng tín dụng – một trong những loại tranh chấp phổ biến đƣợc Tòa án giải quyết
hiện nay và có nhiều vấn đề thực tiễn phát sinh liên quan đến ngƣời đại diện của
đƣơng sự.
Về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án, cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. Có thể kể đến nhƣ: Luận văn thạc
sĩ luật học “Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng có thế chấp tài sản qua thực
tiễn xét xử tại Vĩnh Phúc” của tác giả Hoàng Văn Bích, năm 2014, Khoa Luật, Đại
Học Quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học “Thực tiễn giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” của tác giả Hồ Thị
Khuyên, năm 2016, Khoa Luật, Đại Học Quốc gia Hà Nội ; Luận văn thạc sĩ luật
học “Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng qua thực tiễn xét xử của Tòa án
nhân dân tỉnh Phú Thọ” của tác giả Trần Tuấn Anh, năm 2016, Học viện khoa học
xã hội….Các công trình này đã nghiên cứu về những vấn đề lý luận chung về hợp
đồng tín dụng, tranh chấp hợp đồng tín dụng, thực trạng pháp luật về hợp đồng tín
5
dụng, giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, thực tiễn áp dụng pháp luật về giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án một địa phƣơng cụ thể, từ đó các
công trình này đƣa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng tại Tòa án. Luận văn này sẽ tiếp tục kế thừa những kết quả nghiên
cứu về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ở các công trình trên đây. Tuy
nhiên, luận văn tập trung nghiên cứu, tìm hiểu chuyên sâu về một nội dung cụ thể
trong các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng, hiện nay trong thực tiễn áp dụng
pháp luật còn nhiều vƣớng mắc, hạn chế đó là vấn đề ngƣời đại diện của đƣơng sự
trong các vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là nhằm làm rõ những vƣớng mắc, bất cập, hạn chế
khi áp dụng các quy định pháp luật về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng
dân sự vào thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng tín dụng
tại tòa án, từ đó đƣa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại tòa án.
Để có thể đạt đƣợc mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ
sau đây:
Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận về ngƣời đại diện của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự, về hợp đồng tín dụng và tranh chấp hợp đồng tín dụng, làm rõ
những đặc điểm của đƣơng sự trong vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng tín dụng, từ
đó phân tích làm rõ những đặc điểm của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án
dân sự tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Thứ hai, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về
ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Thứ ba, phân tích thực tiễn thực hiện quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự
trong vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng tín dụng, qua đó, nêu ra đƣợc một số
6
hạn chế, bất cập, nguyên nhân của chúng và đƣa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về vấn đề này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản về ngƣời đại
diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự nói chung và ngƣời đại diện của đƣơng sự
trong vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng, các quy định pháp
luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong
vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Về nội dung: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và
thực tiễn pháp luật về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng
tín dụng.
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật Việt
Nam về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng,
cũng nhƣ thực tiễn thực hiện các quy định này tại các Tòa án nhân dân ở Việt Nam.
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về ngƣời đại diện của đƣơng sự
trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 và các quy định pháp luật hiện hành khác có liên quan.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc sử dụng trong luận văn bao gồm:
phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; phƣơng pháp phân tích quy phạm, phân tích vụ
việc thực tiễn, thống kê, so sánh…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần làm rõ những hạn chế, bất cập
khi áp dụng các quy định pháp luật về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng
dân sự vào thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng tín dụng –
7
một trong những loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay đƣợc Tòa án giải quyết. Từ
đó, luận văn nêu kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nói trên, góp
phần nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại tòa án.
Những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa tham khảo để các cơ quan chức
năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp
luật về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự và áp dụng đúng đắn các
quy định pháp luật về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự vào thực
tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại tòa án. Bên cạnh đó, luận văn là tài
liệu tham khảo đối với cán bộ, sinh viên và những ngƣời làm công tác pháp luật
trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án dân sự về
tranh chấp hợp đồng tín dụng
Chƣơng 2: Các quy định pháp luật hiện hành về ngƣời đại diện của đƣơng sự
trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về ngƣời đại diện của
đƣơng sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng và một số kiến nghị
8
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1. Lý luận về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.1.1 Khái niệm người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự
Về mặt ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt ngƣời đại diện là ngƣời đƣợc
cử thay mặt cho cá nhân, tập thể làm việc gì [52, tr.279]. Trong cuốn Từ điển Từ
Hán Việt năm 2001 đại diện đƣợc hiểu là “thay mặt”[5, tr.134]. Có thể thấy, dƣới
góc độ chung nhất thì ngƣời đại diện là ngƣời thay mặt cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân thực hiện một công việc nhất định.
Nhìn từ góc độ pháp lí, theo cuốn Từ điển Luật học năm 2006, ngƣời đại
diện đƣợc hiểu là “Người nhân danh và vì lợi ích của một người khác xác lập, thực
hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện” [51, tr.575]. Nhƣ vậy,
ngƣời đại diện là ngƣời thay mặt cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia tố tụng dân sự
và có các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo quy định.
Các đƣơng sự trong tố tụng dân sự thƣờng tự mình thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng của họ. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, ngƣời khác có thể
thay mặt đƣơng sự tham gia tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của
đƣơng sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự, những ngƣời tham gia
tố tụng này đƣợc gọi là ngƣời đại diện của đƣơng sự. Khi tham gia tố tụng tại Tòa
án, các đƣơng sự có thể tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS đƣợc pháp luật
quy định, hoặc có thể thông qua ngƣời khác thay mặt mình tham gia tố tụng là
ngƣời đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Ngoài ra, có những trƣờng hợp
trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, các đƣơng sự bị rơi vào tình trạng
không thể tự mình tham gia tố tụng tại Tòa án nhƣ ngƣời bị hạn chế hoặc bị mất
năng lực hành vi dân sự mà không có ai thay mặt họ để tiếp tục tham gia tố tụng,
hoặc có ngƣời đại diện nhƣng ngƣời đó lại thuộc trƣờng hợp pháp luật quy định
không đƣợc làm ngƣời đại diện. Khi đó, Tòa án có quyền chỉ định ngƣời thay mặt
đƣơng sự tham gia tố tụng. Việc chỉ định này để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
9
pháp chính đáng của đƣơng sự. Ngƣời thay mặt cho đƣơng sự trƣớc Tòa án để thực
hiện quyền và nghĩa vụ TTDS của đƣơng sự là ngƣời đại diện của đƣơng sự trong
TTDS.
Nhƣ vậy, qua phân tích trên đây, có thể hiểu người đại diện của đương sự
trong TTDS là người thay mặt đương sự tham gia tố tụng trước Tòa án và thực
hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Căn cứ vào cơ sở pháp lí để những ngƣời đại diện tham gia TTDS, ngƣời đại
diện của đƣơng sự đƣợc chia thành ba loại: ngƣời đại diện theo pháp luật, ngƣời đại
diện theo ủy quyền và ngƣời đại diện do Tòa án chỉ định.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự là ngƣời
theo quy định của pháp luật đƣợc thay mặt đƣơng sự tham gia tố tụng trƣớc Tòa án
và thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS của đƣơng sự để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho đƣơng sự.
Ngƣời đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự trong tố tụng dân sự là ngƣời
đƣợc đƣơng sự hoặc ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự ủy quyền để thay
mặt đƣơng sự tham gia tố tụng trƣớc Tòa án và thực hiện các quyền, nghĩa vụ
TTDS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự.
Ngƣời đại diện do Tòa án chỉ định là ngƣời tham gia tố tụng thay mặt đƣơng
sự thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS của đƣơng sự theo sự chỉ định của Tòa án
trong trƣờng hợp đƣơng sự là ngƣời không thể tự mình tham gia tố tụng mà không
có ngƣời đại diện theo pháp luật hoặc ngƣời đại diện thuộc trƣờng hợp pháp luật
quy định không đƣợc làm ngƣời đại diện cho đƣơng sự.
1.1.2. Đặc điểm người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, người đại diện của đương sự nhân danh đương sự thực hiện các
quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự
Bản chất của quan hệ đại diện là việc ngƣời đại diện thay mặt đƣơng sự thực
hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự nên quyền và nghĩa vụ của ngƣời
đại diện cũng phụ thuộc vào nội dung quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự.
10
Ngƣời đại diện của đƣơng sự có thể có một phần hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ
của đƣơng sự trong tố tụng dân sự.
Ngƣời đại diện không đƣơng nhiên có tƣ cách tố tụng để tham gia vào quá
trình giải quyết một vụ việc dân sự cụ thể. Tƣ cách đó do pháp luật quy định trong
một số trƣờng hợp cụ thể hoặc do đƣơng sự trao cho họ thông qua cơ chế ủy quyền.
Ngƣời đại diện của đƣơng sự đồng thời tham gia hai quan hệ pháp luật, một là quan
hệ đại diện, hai là quan hệ tố tụng. Quan hệ đại diện là tiền đề để ngƣời đại diện
tham gia tố tụng, nếu không có quan hệ đại diện thì một ngƣời không thể có tƣ cách
tố tụng của đƣơng sự thay đƣơng sự tham gia tố tụng.
Nhƣ vậy, ngƣời đại diện thay mặt đƣơng sự (ngƣời đƣợc đại diện) thực hiện
các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự. Ngƣời đại diện thực hiện các quyền
và nghĩa vụ tố tụng đó dƣới danh nghĩa của đƣơng sự, vì quyền lợi của đƣơng sự.
Điều này phân biệt ngƣời đại diện với ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự. Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự tham gia tố tụng
song song cùng với đƣơng sự. Khi tham gia tố tụng, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự có vị trí pháp lý độc lập với đƣơng sự, không bị ràng buộc
bởi việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự nhƣ ngƣời đại diện
mà chủ yếu tham gia tố tụng bằng việc hỗ trợ, giúp đỡ đƣơng sự về mặt pháp lý và
bằng việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của người đại diện của đương sự phụ thuộc vào
nội dung quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự
Ngƣời đại diện của đƣơng sự thay mặt đƣơng sự thực hiện các quyền, nghĩa
vụ tố tụng của đƣơng sự, vì vậy, quyền và nghĩa vụ của ngƣời đại diện phụ thuộc
vào nội dung quyền, nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự. Quyền, nghĩa vụ tố tụng của
những đƣơng sự ở vị trí tố tụng khác nhau thì khác nhau, do đó ngƣời đại diện của
từng loại đƣơng sự khác nhau thì thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác
nhau. Ngoài ra, quan hệ đại diện có nhiều dạng khác nhau, trong mỗi dạng quan hệ
đại diện, ngƣời đại diện có phạm vi đại diện khác nhau cho ngƣời đại diện, theo đó,
11
ngƣời đại diện sẽ đƣợc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự ở
mức độ khác nhau.
Thứ ba, mục đích tham gia tố tụng dân sự của người đại diện của đương sự
là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, vì lợi ích của đương sự.
Trong quan hệ đại diện theo ủy quyền, ngƣời đại diện có thể đƣợc hƣởng tiền thù
lao nếu có thỏa thuận, còn trong quan hệ đại diện theo pháp luật, việc thay mặt
đƣơng sự tham gia tố tụng là nghĩa vụ của ngƣời đại diện và ngƣời đại diện không
đƣợc hƣởng các lợi ích vật chất từ quan hệ này.
Thứ tư, người đại diện của đương sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân có đủ
năng lực pháp luật TTDS và năng lực hành vi TTDS và không thuộc những trường
hợp pháp luật cấm không được làm người đại diện trong TTDS.
Ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS có chức năng thay mặt cho đƣơng
sự tham gia quan hệ pháp luật TTDS, trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng của đƣơng sự, vì vậy ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS cần thỏa mãn
các điều kiện nhất định:
+ Cá nhân, pháp nhân có năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và năng lực
hành vi TTDS). Theo đó, cá nhân phải là ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên và không bị
mất năng lực hành vi dân sự. Còn đối với pháp nhân, pháp nhân đó phải có năng
lực pháp luật, năng lực hành vi TTDS phù hợp với công việc đại diện.
+ Cá nhân, pháp nhân không thuộc các trƣờng hợp không đƣợc làm ngƣời
đại diện hợp pháp.
Đây là các trƣờng hợp mà những ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự có
thể có xung đột lợi ích với ngƣời đƣợc đại diện hoặc sự tham gia tố tụng của các
chủ thể này có thể tác động đến những ngƣời tiến hành tố tụng, ảnh hƣởng đến quá
trình giải quyết khách quan vụ án nên họ không đƣợc tham gia với tƣ cách ngƣời
đại diện trong TTDS.
1.1.3. Ý nghĩa của quy định về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, người đại diện của đương sự trong TTDS góp phần bảo vệ quyền
12
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Mục đích của TTDS là bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà nƣớc. Muốn bảo vệ đƣợc
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đƣơng sự phải tham gia tố tụng trƣớc Tòa án,
hay nói cách khác là phải thực hiện đƣợc các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình.
Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp, đƣơng sự không thể tự mình tham gia tố tụng vì
họ là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời mất năng lực hành vi dân sự, ngƣời bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự mà không có ngƣời đại diện hoặc ngƣời đại diện theo pháp
luật của họ thuộc trƣờng hợp không đƣợc làm ngƣời đại diện… đây là những trƣờng
hợp đƣơng sự không đáp ứng điều kiện có đầy đủ năng lực hành vi TTDS theo quy
định pháp luật nên không thể tham gia tố tụng. Nếu không thể tham gia tố tụng thì
quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ không đƣợc đảm bảo. Vì vậy, cần phải có
ngƣời đại diện của đƣơng sự để thông qua đó đƣơng sự bảo vệ đƣợc quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Ngoài ra, trong một số trƣờng hợp, mặc dù đƣơng sự là
ngƣời có năng lực hành vi TTDS đầy đủ, có thể tự mình tham gia tố tụng trƣớc Tòa
án, nhƣng do trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế hoặc vì một lý do khách quan
nào đó mà không tham gia tố tụng đƣợc, đƣơng sự có thể ủy quyền cho ngƣời đại
diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích cho mình một cách tốt hơn, thuận
tiện hơn. Vì vậy, chế định ngƣời đại diện của đƣơng sự giúp cho việc tham gia
TTDS của đƣơng sự đƣợc thuận tiện hơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
họ.
Thứ hai, người đại diện của đương sự còn góp phần làm cho việc giải quyết
vụ việc dân sự của Tòa án được thuận lợi vì họ giúp cơ quan tiến hành tố tụng kết
nối đƣợc với đƣơng sự một cách hiệu quả, nhất là trong những trƣờng hợp đƣơng
sự không thể tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng. Ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự thay mặt đƣơng sự là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời mất
năng lực hành vi dân sự, ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có
ngƣời đại diện nên Tòa án phải chỉ định ngƣời đại diện, nếu không thông qua ngƣời
đại diện thì đƣơng sự trong những trƣờng hợp này sẽ không thể tự bảo vệ quyền, lợi
13
ích hợp pháp của mình trƣớc Tòa án, bên cạnh đó cũng gây khó khăn cho quá trình
giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. Sự tham gia tố tụng của ngƣời đại diện sẽ
giúp cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự đƣợc nhanh chóng, thuận lợi. Vì khi
tham gia quá trình tố tụng ngƣời đại diện sẽ đƣợc thực hiện các quyền, nghĩa vụ
trong tố tụng của đƣơng sự mà mình đại diện. Trong những quyền, nghĩa vụ tố tụng
đó, có những quyền có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự
nhƣ quyền chứng minh cho yêu cầu của mình, quyền cung cấp chứng cứ…, nhờ vậy
Tòa án có cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự đƣợc nhanh chóng, thuận lợi hơn. Bên
cạnh đó, sự tham gia của ngƣời đại diện, nhất là ngƣời đại diện là luật sƣ đƣợc
đƣơng sự ủy quyền tham gia tố tụng hoặc là ngƣời hiểu biết pháp luật cũng giúp
cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự đƣợc thuận lợi hơn.
Sự tham gia tố tụng của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS làm cho
quá trình giải quyết vụ việc dân sự đƣợc nhanh chóng, thuận lợi, giúp ngăn chặn
kịp thời các hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời khác. Chế
định ngƣời đại diện của đƣơng sự trong pháp luật TTDS chính là cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc tham gia tố tụng của ngƣời đại diện để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho đƣơng sự trƣớc Tòa án. Chế định ngƣời đại diện của đƣơng sự trong
TTDS cũng là một trong những phƣơng thức giúp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của ngƣời dân đƣợc tốt hơn. Nội dung cơ bản của chế định này bao gồm: quy định
về điều kiện trở thành ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự, quy định
về căn cứ xác lập đại diện, quy định về thời hạn đại diện và phạm vi đại diện, quy
định về chấm dứt đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự.
Hiện nay, ở Việt Nam, tranh chấp hợp đồng tín dụng là loại tranh chấp rất
phổ biến tại tòa án. Số lƣợng vụ án dân sự, kinh doanh thƣơng mại về tranh chấp
hợp đồng tín dụng đƣợc các tòa án Việt Nam thụ lý, giải quyết ngày càng gia tăng
theo các năm. Tòa án gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc trong việc giải quyết các
tranh chấp này, trong đó có vƣớng mắc về xác định tƣ cách đƣơng sự và ngƣời đại
diện của đƣơng sự. Do đó, ở những phần tiếp theo, luận văn sẽ nghiên cứu sâu về
14
ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng.
1.2. Khái quát về tranh chấp hợp đồng tín dụng và đƣơng sự trong vụ án
tranh chấp hợp đồng tín dụng
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng là thỏa thuận bằng văn bản giữa một bên là tổ chức tín
dụng (bên cho vay) với bên kia là cá nhân, tổ chức thỏa mãn điều kiện luật định
(bên đi vay), theo đó, bên cho vay cấp cho bên đi vay một khoản tiền để sử dụng
vào mục đích và trong một thời hạn theo thỏa thuận, hết thời hạn đó bên đi vay phải
trả cả gốc và lãi theo thỏa thuận. Hợp đồng tín dụng phản ánh thỏa thuận giữa tổ
chức tín dụng và bên vay trong việc xác lập quan hệ cho vay, trong đó có các
quyền, nghĩa vụ pháp lý cụ thể làm cơ sở cho các bên cùng thực hiện. Hợp đồng tín
dụng mang bản chất của quan hệ dân sự, do vậy khi ký kết, các bên tham gia hợp
đồng tín dụng cũng phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản của quan hệ dân sự nhƣ tự
do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận, bình đẳng, thiện chí, trung thực, tự chịu trách
nhiệm nhƣng không đƣợc vi phạm điều cấm của luật và trái đạo đức xã hội. Với
cách hiểu nhƣ trên thì hợp đồng tín dụng bao gồm hai yếu tố: Về phƣơng diện hình
thức, sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với khách hàng (bên đi
vay) phải đƣợc thể hiện bằng văn bản. Về phƣơng diện nội dung, bên cho vay thỏa
thuận để bên vay đƣợc sử dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với
điều kiện có hoàn trả, dựa trên sự tín nhiệm.
Tranh chấp hợp đồng tín dụng là những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh từ
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín dụng. Các dạng
tranh chấp hợp đồng tín dụng phổ biến nhất là tranh chấp về việc thực hiện nghĩa
vụ hoàn trả vốn, lãi của bên vay cho tổ chức tín dụng; tranh chấp về các loại lãi
suất, phí, tiền phạt; tranh chấp về xử lý tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ
trả nợ trong hợp đồng tín dụng. Đây là những vấn đề cơ bản nhất, đóng vai trò nòng
cốt trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng của các bên.
Tranh chấp hợp đồng tín dụng có những đặc điểm sau đây:
15
Thứ nhất: Tranh chấp hợp đồng tín dụng thƣờng có giá trị lớn hoặc rất lớn.
Khi kí kết hợp đồng tín dụng, bên đi vay thƣờng có nhu cầu lớn về vốn mà không
thể tự mình xoay xở đƣợc. Nhu cầu đó có thể là để bổ sung vốn kinh doanh đối với
tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia đình. Do đó, số tiền
này không phải là nhỏ và không dễ dàng vay đƣợc từ các tổ chức, cá nhân ngoài xã
hội mà không phải là tổ chức tín dụng
Thứ hai: Tranh chấp hợp đồng tín dụng luôn có sự tham gia của một bên là
tổ chức tín dụng và trong phần lớn các tranh chấp hợp đồng tín dụng, tổ chức tín
dụng tham gia tố tụng với tƣ cách là nguyên đơn. Trong mối quan hệ hợp đồng tín
dụng, các nghĩa vụ chính của bên đi vay thƣờng phát sinh sau thời điểm giải ngân.
Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất việc giải ngân cho khách hàng thì tổ chức tín
dụng về cơ bản đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình. Do đó, nếu có tranh chấp xảy
ra thì thƣờng là do bên vay vi phạm nghĩa vụ của mình, rất hiếm gặp trƣờng hợp
bên đi vay khởi kiện tổ chức tín dụng.
Thứ ba: Đa phần các tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng là các tranh
chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn, lãi của bên vay cho tổ
chức tín dụng, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong
hợp đồng tín dụng. Bởi vì những nghĩa vụ này chính là những nghĩa vụ chủ yếu
nhất trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng của các bên và việc thực hiện này
có tác động trực tiếp đến quyền lợi của tổ chức tín dụng.
Thứ tư: Tranh chấp hợp đồng tín dụng thƣờng gắn liền với hợp đồng bảo
đảm tiền vay thông qua hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Các tổ chức tín dụng khi tham gia vào hợp đồng tín dụng đều có mục đích lợi
nhuận. Để giảm thiểu rủi ro trong trƣờng hợp bên vay không trả đƣợc nợ, thông
thƣờng tổ chức tín dụng chỉ đồng ý cho bên đi vay đƣợc vay vốn khi họ có cầm cố,
thế chấp bằng tài sản hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này
đóng vai trò là phƣơng án dự phòng của tổ chức tín dụng khi rủi ro xảy ra. Khi đó,
16
để đảm bảo cho nghĩa vụ đƣợc thanh toán trong hợp đồng tín dụng thì các bên kí
kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay.
Phần lớn các tranh chấp hợp đồng tín dụng đều liên quan đến hợp đồng bảo
đảm và tài sản bảo đảm, khiến cho tranh chấp hợp đồng tín dụng trở nên phức tạp
hơn rất nhiều so với tranh chấp hợp đồng thông thƣờng, vì nó liên quan đến nhiều
chủ thể, nhiều tài sản bảo đảm khác nhau. Tranh chấp hợp đồng tín dụng luôn luôn
gắn liền với tranh chấp hợp đồng bảo đảm, là cơ sở phát sinh tranh chấp về hợp
đồng bảo đảm. Thậm chí, trong hầu hết các tranh chấp hợp đồng tín dụng hiện nay,
các bên thƣờng tranh cãi về các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo đảm chứ không
tranh cãi về các điều khoản cho vay trong hợp đồng tín dụng.
Tranh chấp hợp đồng tín dụng có thể đƣợc phân loại theo nội dung tranh chấp
nhƣ tranh chấp về vi phạm nghĩa vụ hoàn trả gốc và lãi của bên vay, tranh chấp về
các loại lãi suất, phí, tiền phạt, tranh chấp về xử lý tài sản bảo đảm cho việc thực
hiện nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng tín dụng. Tranh chấp về xử lý tài sản bảo đảm
là dạng tranh chấp hợp đồng tín dụng rất phổ biến và phức tạp nhất hiện nay. Đây
là trƣờng hợp bên vay đã vi phạm nghĩa vụ hoàn trả nợ, và tổ chức tín dụng khởi
kiện đòi nợ đồng thời yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm cho khoản vay.
Theo tính chất của tranh chấp, tranh chấp hợp đồng tín dụng có thể đƣợc chia
làm hai loại: tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh doanh thƣơng mại.
Tranh chấp hợp đồng tín dụng thƣờng là tranh chấp kinh doanh thƣơng mại vì
nó phát sinh trong hoạt động kinh doanh thƣơng mại giữa các bên (tổ chức tín dụng
và khách hàng vay) đều có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp hợp đồng tín dụng thuộc loại tranh chấp kinh doanh thƣơng mại thƣờng
có giá trị rất lớn, liên quan đến nhiều tài sản bảo đảm, nhiều chủ thể và phức tạp
hơn so với tranh chấp dân sự.
Tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp dân sự trong trƣờng hợp hợp
đồng tín dụng đƣợc ký kết giữa tổ chức tín dụng với các hộ gia đình, cá nhân nhằm
mục đích cho vay tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt, sản xuất của cá nhân
17
hoặc hộ gia đình, không nhằm mục đích sinh lợi. Trong trƣờng hợp đó, chỉ một bên
tổ chức tín dụng có mục tiêu lợi nhuận.
1.2.2. Đặc điểm của đương sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng
Đƣơng sự có vai trò đặc biệt quan trọng và không thể thiếu trong TTDS nói
chung và trong vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng.
Đƣơng sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng gồm nguyên đơn, bị
đơn, ngƣời có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng
đang đƣợc xem xét, giải quyết. Các đƣơng sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín
dụng có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức.
Trước hết, đương sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng cũng mang
những đặc điểm chung của đương sự trong TTDS. Họ tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Họ có thể tham gia tố tụng độc lập hoặc
thông qua ngƣời đại diện trong TTDS. Họ bình đẳng với nhau về các quyền và
nghĩa vụ tố tụng. Mặc dù các đƣơng sự với tƣ cách tố tụng khác nhau có một số
quyền và nghĩa vụ khác nhau nhƣng với những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật
quy định cho họ đó, họ có điều kiện thuận lợi nhƣ nhau khi tham gia tố tụng để bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Họ đều có quyền tự định đoạt trong
TTDS. Điều đó nghĩa là việc các đƣơng sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ
là cơ sở làm phát sịnh, thay đổi hay chấm dứt quá trình giải quyết các vụ việc dân
sự. Chỉ đƣơng sự mới có quyền tự định đoạt này, trong khi các chủ thể khác có
nghĩa vụ phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạt của đƣơng sự.
Từ những đặc điểm của tranh chấp hợp đồng tín dụng đã phân tích ở trên, có
thể rút ra những đặc điểm sau đây của đƣơng sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng
tín dụng.
Thứ nhất, đương sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng là chủ thể của
quan hệ hợp đồng tín dụng, và trong quan hệ đó, họ có quyền, lợi ích bị tranh chấp,
bị xâm phạm. Quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng thực
chất là giải quyết các quan hệ pháp luật về hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm
18
(nếu có) phát sinh giữa các chủ thể. Đƣơng sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín
dụng chủ yếu tham gia tố tụng để giải quyết việc xung đột quyền, lợi ích trong hợp
đồng tín dụng giữa bên cho vay và bên vay.
Thứ hai, một bên đương sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng luôn
luôn là tổ chức tín dụng và đương sự này có kinh nghiệm thường xuyên tham gia tố
tụng tại Tòa án. Thực tế đƣơng sự là tổ chức tín dụng trong vụ án tranh chấp hợp
đồng tín dụng thƣờng tham gia với tƣ cách là nguyên đơn trong vụ án. Do tổ chức
tín dụng phải tham gia tố tụng trong nhiều vụ án dân sự (không hiếm khi các vụ án
này diễn ra đồng thời), nên nhu cầu có ngƣời đại diện hợp pháp thay mặt tổ chức
tín dụng tham gia tố tụng là rất lớn, và hầu hết là ngƣời đại diện theo ủy quyền.
Thứ ba, hầu hết các đương sự là cá nhân trong vụ án tranh chấp hợp đồng
tín dụng có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ. Theo quy định của pháp luật,
hợp đồng tín dụng phải tuân thủ chặt chẽ về nội dung, hình thức, năng lực chủ thể
của các bên tham gia quan hệ tín dụng, mục đích sử dụng vốn vay, giới hạn vốn
vay, lãi suất vay, bảo đảm tiền vay, phƣơng thức giải quyết tranh chấp… và phải
đƣợc giao kết dƣới hình thức văn bản. Do đó, trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín
dụng, các đƣơng sự là cá nhân nhìn chung có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy
và có thể ủy quyền cho ngƣời khác thay mặt mình tham gia tố tụng.
Thứ tư, vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng thường có nhiều người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan – tức là những ngƣời tuy không khởi kiện, không bị kiện,
nhƣng việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ, nên họ đƣợc tự mình đề nghị, hoặc các đƣơng sự khác đề nghị và
đƣợc Tòa án chấp nhận đƣa họ vào tham gia tố tụng. Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan thƣờng gặp nhất trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng là các bên thứ
ba đã dùng tài sản của mình nhƣ quyền sử dụng đất, nhà ở, tài sản gắn liền với
đất… làm tài sản bảo đảm cho khoản vay tại tổ chức tín dụng. Ngoài ra, ngƣời có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn là những ngƣời đang giữ tài sản bảo đảm, ngƣời
đang sinh sống tại nơi có đất, tài sản gắn liền với đất mà quyền sử dụng đất và/hoặc
19
tài sản đó đã đƣợc thế chấp cho khoản vay tại tổ chức tín dụng. Ngƣời có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan còn có thể là các chủ nợ khác cùng nhận bảo đảm bằng tài sản
bảo đảm cho khoản vay tại tổ chức tín dụng là nguyên đơn trong vụ án, bên mua,
bên nhận chuyển nhƣợng tài sản bảo đảm, ngƣời không ký kết hợp đồng bảo đảm
nhƣng là đồng chủ sở hữu đối với tài sản bảo đảm hoặc có quyền, lợi ích nào đó
trên tài sản bảo đảm v.v… Sự có mặt của những ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan khiến cho vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng trở nên rất phức tạp, rắc rối,
thời gian giải quyết vụ án kéo dài.
Những đặc điểm của tranh chấp hợp đồng tín dụng và đặc điểm của đƣơng
sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng có ảnh hƣởng lớn đến đặc điểm ngƣời
đại diện của đƣơng sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng.
1.3. Khái niệm và đặc điểm ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án
dân sự về tranh chấp hợp đồng tín dụng
1.3.1 Khái niệm ngƣời đại diện của đƣơng sự trong vụ án dân sự về
tranh chấp hợp đồng tín dụng
Trong tố tụng dân sự, đƣơng sự thƣờng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự. Tuy nhiên, đối với các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng, đƣơng sự
thƣờng xuyên sử dụng ngƣời đại diện để tham gia tố tụng trƣớc Tòa án, đặc biệt là
bên đƣơng sự là tổ chức tín dụng. Điều này, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau nhƣ tính chất phức tạp trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng,
thời gian tố tụng có thể kéo dài, các bên đƣơng sự muốn ngƣời am hiểu quy định
pháp luật, am hiểu quy trình tố tụng tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình một cách tốt nhất hoặc đơn giản là bên đƣơng sự là tổ chức tín dụng
cùng một lúc phải giải quyết tranh chấp nhiều hợp đồng tín dụng….Vì vậy, việc sử
dụng ngƣời đại diện thay mặt cho đƣơng sự tham gia tố tụng để giải quyết các vụ
án tranh chấp hợp đồng tín dụng có nhiều ƣu điểm và thuận lợi cho đƣơng sự và cả
cơ quan tiến hành tố tụng.