10544_Nhận thức và thái độ của sinh viên Đại học Quốc gia TP.HCM đối với rối loạn sức khỏe tâm thần

luanvantotnghiep.com

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Ngô Thị Mỹ Duyên

NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN ĐẠI
HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐỐI
VỚI RỐI LOẠN SỨC KHỎE TÂM THẦN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Ngô Thị Mỹ Duyên

NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN ĐẠI
HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐỐI
VỚI RỐI LOẠN SỨC KHỎE TÂM THẦN

Chuyên ngành
: Tâm Lý Học
Mã số

: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THÚY DUNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đề tài “Nhận thức và thái độ của sinh viên Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đối với rối loạn sức khỏe tâm thần” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi.

Các thông tin, dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, các nội dung
trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc và các kết quả nghiên cứu được trình bày trong
luận văn này chưa được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 09 năm 2013
Người cam đoan

Ngô Thị Mỹ Duyên

2

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn,
giúp đỡ rất tận tình của các Thầy Cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình. Tôi xin được bày tỏ
lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới:
TS. Nguyễn Thị Thúy Dung, người hướng dẫn khoa học dù rất bận rộn nhưng vẫn
dành thời gian giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận
văn.
Các Thầy Cô giảng dạy và tư vấn khoa học của lớp cao học khóa 22, ngàng Tâm lý
học trường Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh đã giảng dạy và cung cấp cho tôi những kiến
thức làm nền tảng cho luận văn này.

Các anh chị em, bạn bè lớp Cao học trường Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh luôn
động viên và hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Các bạn sinh viên trường Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh đã rất nhiệt tình giúp
tôi có được những số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu.

Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình đã luôn quan tâm, động viên tôi trong suốt quá trình
học tập và thực hiện đề tài.

Ngô Thị Mỹ Duyên

3

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ………………………………………………………………………………………….. 1
LỜI CẢM ƠN ……………………………………………………………………………………………….. 2
MỤC LỤC …………………………………………………………………………………………………….. 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
………………………………………………………………. 5
MỞ ĐẦU
……………………………………………………………………………………………………….. 6
1. Lý do chọn đề tài
……………………………………………………………………………………………….
6
2. Mục đích nghiên cứu …………………………………………………………………………………………
7
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ……………………………………………………………………
7
4. Giả thuyết nghiên cứu ……………………………………………………………………………………….
8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
…………………………………………………………………………………………
8
6. Phạm vi nghiên cứu …………………………………………………………………………………………..
8
7. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………………………………………..
9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA SINH
VIÊN ĐỐI VỚI RỐI LOẠN SỨC KHỎE TÂM THẦN ………………………………… 12
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
…………………………………………………………
12
1.1.1. Ngoài nước ………………………………………………………………………………………………
12
1.1.2. Trong nước ………………………………………………………………………………………………
13
1.2. Cơ sở lý luận của đề tài …………………………………………………………………………………
14
1.2.1. Nhận thức và thái độ của sinh viên ……………………………………………………………..
14
1.2.2. Một số vấn đề về rối loạn sức khỏe tâm thần
………………………………………………..
29
1.2.3. Nhận thức và thái độ của sinh viên đối với rối loạn sức khỏe tâm thần ……………
34
1.2.4. Một số tiêu chí đánh giá nhận thức và thái độ của sinh viên đối với rối loạn sức
khỏe tâm thần ……………………………………………………………………………………………………
35
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA
SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI
RỐI LOẠN SỨC KHỎE TÂM THẦN
………………………………………………………….. 39
2.1. Khái quát quá trình nghiên cứu …………………………………………………………………….
39
2.1.1. Mô tả mẫu nghiên cứu
……………………………………………………………………………….
39
2.1.2. Công cụ nghiên cứu
…………………………………………………………………………………..
40
2.2. Kết quả nghiên cứu
……………………………………………………………………………………….
41
2.2.1. Khái quát chung sự nhận biết của sinh viên về Rối loạn sức khỏe tâm thần. …….
41
2.2.2. Nhận thức của sinh viên về rối loạn sức khỏe tâm thần
………………………………….
42
2.2.3. Thái độ của sinh viên đối với rối loạn sức khỏe tâm thần ………………………………
65

4

2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức và thái độ của sinh viên đối với rối loạn sức
khỏe tâm thần ……………………………………………………………………………………………………
76
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………………………………………….. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………………………. 84
PHỤ LỤC ……………………………………………………………………………………………………. 88

5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Viết tắt
Viết đầy đủ
1
ĐH BK
Đại học Bách Khoa
2
ĐH CNTT
Đại học Công nghệ thông tin
3
ĐH KHTN
Đại học Khoa học tự nhiên
4
ĐH KHXH&NV
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn
5
ĐTB
Điểm trung bình
6
HPA
Health Promotion Agency
7
RL
Rối loạn
8
RLSKTT
Rối loạn sức khỏe tâm thần
9
SD
Độ lệch chuẩn
10
Tp.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
11
XH
Xếp hạng
12
WHO
Tổ chức Y tế thế giới

6

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì sức khỏe tâm thần là một trạng thái không chỉ
không có rối loạn hay dị tật tâm thần mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái,
cân bằng về cảm xúc, hòa hợp giữa các mối quan hệ gia đình, xã hội. Trong trạng thái đó cá
nhân nhận ra được các năng lực của chính mình, có thể đương đầu với các stress bình
thường của cuộc sống, có thể làm việc năng suất và hiệu quả và có thể đóng góp cho cộng
đồng, xã hội mà mình đang sống[34, tr.23]. Điều này cho thấy tổn thương hay các rối loạn
sức khỏe tâm thần là điều rất dễ gặp phải trong cuộc sống. Tại Việt Nam, qua điều tra dịch
tễ lâm sàng 10 bệnh tâm thần ở 7 địa điểm tại các vùng địa lý, kinh tế xã hội khác nhau
trong cả nước, với số dân điều tra là 82.908 người, trong thời gian 1 năm (2008-2009) cho
kết quả tỷ lệ mắc chung 10 bệnh tâm thần là 14,2% dân số [34].
Đặc biệt là sinh viên, áp lực từ việc học, những lo toan cho cuộc sống, áp lực thi cử,
khiến họ dễ bị rối loạn sức khỏe tâm thần. Khi có rối loạn sức khỏe tâm thần, chất lượng
cuộc sống của sinh viên có nguy cơ bị giảm xuống trầm trọng. Có thể khiến sinh viên mất
sự cân bằng về thể chất, cảm xúc, mất niềm tin vào bản thân và không có khả năng đương
đầu cũng như giải quyết những vấn đề xảy ra trong cuộc sống, khiến họ không thể hoàn
thành tốt việc học của mình cũng như xây dựng các mối quan hệ xã hội. Nghiêm trọng hơn
là từ các rối loạn sức khỏe tâm thần nhẹ có thể dẫn đến những rối loạn nặng hơn như stress,
lo âu, trầm cảm, kể cả những hành vi tự sát cá nhân và tập thể.
Một số biểu hiện rối loạn sức khỏe tâm thần thường thấy ở sinh viên như tình trạng
thường xuyên nhức đầu do thiếu ngủ, lo lắng thái quá, không kiểm soát được cảm xúc của
bản thân nên dễ rơi vào tình trạng buồn bã, dễ kích động, tâm trạng bất an, lo lắng khi gặp
bất cứ vấn đề gì trong cuộc sống, tình trạng căng thẳng kéo dài vì những áp lực từ việc học
hành, từ bạn bè, từ gia đình…
Nhưng trên thực tế, nhiều sinh viên khi có những biểu hiện nói trên lại không cho rằng
đó chính là những biểu hiện của rối loạn sức khỏe tâm thần. Nhận thức sai lầm về các vấn
đề của sức khỏe tâm thần khiến sinh viên không thể nhìn nhận đúng tình trạng sức khỏe tâm
thần của bản thân và coi thường các biểu hiện của sự rối loạn sức khỏe tâm thần. Việc cho
rằng những tổn thương về sức khỏe tâm thần là dành cho những người bị trầm cảm, bị

7

điên…đã khiến cho không ít sinh viên không tìm đến sự giúp đỡ chính thức của các nhà
tham vấn, trị liệu cũng như có cái nhìn “miệt thị” đối với những người có những rối loạn về
sức khỏe tâm thần. Chính vì vậy, có một thực tế là khi các bạn trẻ tìm đến với các hỗ trợ
chuyên môn về sức khỏe tâm thần thì đã quá nặng, có những biểu hiện của tự sát [13].
Những thái độ như vậy sẽ góp phần vào việc cản trở sinh viên đi tìm những hỗ trợ chuyên
môn và gây những tác động tiêu cực khác lên tâm lý.
Năm 1948, Liên đoàn sức khỏe tâm thần ra đời ở Anh với sứ mệnh nâng cao ý thức hỗ
trợ phòng và chữa các bệnh tâm thần. Liên đoàn đặt ra ba nhiệm vụ: có thái độ đúng với sức
khỏe tâm thần, nâng cao sức khỏe tâm thần và phòng ngừa các rối loạn sức khỏe tâm thần
và chăm sóc, chữa trị các rối loạn tâm thần và phục hồi sức khỏe tâm thần [8]. Hội khoa
Tâm lý giáo dục Việt Nam hoàn toàn tán thành với những điều quy định trên và sẽ có
chương trình hoạt động. Nhưng cho đến nay ở Việt Nam vẫn còn rất ít những nghiên cứu về
sức khỏe tâm thần, rối loạn sức khỏe tâm thần. Đặc biệt đối với đối tượng là sinh viên thì
vẫn chưa có nghiên cứu nào xác định tầm hiểu biết và thái độ của sinh viên đối với các rối
loạn sức khỏe tâm thần, ảnh hưởng của nó đối với việc tìm đến những hỗ trợ chuyên môn
như thế nào. Nghiên cứu về nhận thức và thái độ của sinh viên đối với rối loạn sức khỏe tâm
thần là một việc làm cần thiết để có sự hỗ trợ chuyên môn đối với các rối loạn sức khỏe tâm
thần của sinh viên. Đó là những lý do thôi thúc tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Nhận thức
và thái độ của sinh viên Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đối với rối loạn sức khỏe
tâm thần”

2. Mục đích nghiên cứu
Xác định nhận thức và thái độ của sinh viên Đại học Quốc gia Tp.HCM đối với rối
loạn sức khỏe tâm thần. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm định hướng cho sinh viên có
nhận thức và thái độ đúng đối với rối loạn sức khỏe tâm thần hướng đến việc giảm nguy cơ
gặp phải RLSKTT ở sinh viên.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
– Nhận thức và thái độ của sinh viên Đại học Quốc gia Tp.HCM đối với rối loạn sức
khỏe tâm thần.
3.2. Khách thể nghiên cứu

8

– 400 sinh viên thuộc các trường thành viên của Đại học Quốc gia Tp.HCM
4. Giả thuyết nghiên cứu
– Phần lớn sinh viên Đại học Quốc gia Tp.HCM chưa có nhận thức và thái độ đúng
đối với rối loạn sức khỏe tâm thần.
– Nhận thức và thái độ của sinh viên Đại học Quốc gia Tp.HCM đối với rối loạn sức
khỏe tâm thần là có sự khác biệt theo trường, năm học, giới tính.
– Có những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến nhận thức và thái độ của
sinh viên Đại học Quốc gia Tp.HCM đối với rối loạn sức khỏe tâm thần, sự tác động của
môi trường bên ngoài là một trong những yếu tố đó.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài, như: nhận thức, thái độ, sinh
viên, sức khỏe tâm thần, rối loạn sức khỏe tâm thần.
5.2. Khảo sát thực trạng nhận thức và thái độ của sinh viên Đại học Quốc gia Tp.HCM
đối với rối loạn sức khỏe tâm thần.
5.3. Đề xuất một số kiến nghị nhằm định hướng cho sinh viên có nhận thức và thái độ
đúng đối với rối loạn sức khỏe tâm thần.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Nội dung
– Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu nhận thức của sinh viên đối với các vấn đề sau của rối
loạn sức khỏe tâm thần như sau: Các dạng RLSKTT; Nhận định chung về RLSKTT; Biểu
hiện của RLSKTT; Ảnh hưởng của RLSKTT đến đời sống; Nguyên nhân gây RLSKTT;
Phòng ngừa và chữa trị RLSKTT.
– Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thái độ của sinh viên đối với rối loạn sức khỏe tâm
thần ở những mặt sau: Thái độ của sinh viên đối với những người có RLSKTT; Thái độ của
sinh viên đối với việc gia đình có người gặp RLSKTT; Thái độ của sinh viên đối với bản
thân khi gặp phải vấn đề RLSKTT; Thái độ của sinh viên đối với việc phòng ngừa và chữa
trị RLSKTT
– Tìm hiểu thêm các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức và thái độ của sinh viên đối với
rối loạn sức khỏe tâm thần.
6.2. Khách thể

9

Đề tài được giới hạn trong phạm vi những sinh viên của các trường thành viên thuộc
Đại học Quốc gia Tp.HCM:
– 100 sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn
– 100 sinh viên trường Đại học Bách Khoa
– 100 sinh viên trường Đại học Khoa học Tự Nhiên
– 100 sinh viên trường Đại học Công nghệ thông tin
6.3. Thời gian
Đề tài dự kiến thực hiện trong thời gian 6 tháng: từ tháng 3 năm 2013 đến tháng 9 năm
2013.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
7.1.1. Quan điểm toàn diện
Vận dụng quan điểm toàn diện vào đề tài ta sẽ thấy nhận thức và thái độ của sinh
viên Đại học Quốc gia Tp.HCM đối với rối loạn sức khỏe tâm thần được xem xét một cách
toàn diện trên các mặt sau:
– Rối loạn; Sức khỏe tâm thần; Rối loạn sức khỏe tâm thần
– Nhận thức: các dạng RLSKTT, biểu hiện, ảnh hưởng, nguyên nhân và cách phòng
ngừa và chữa trị RLSKTT
– Thái độ khi gặp các rối loạn sức khỏe tâm thần, thái độ đối với những người có rối
loạn sức khỏe tâm thần, thái độ đối với bản thân khi gặp phải vấn đề RLSKTT, thái độ đối
với việc phòng ngừa và chữa trị RLSKTT
7.1.2. Quan điểm thực tiễn
Hiện nay, trong thành phố lớn và hiện đại như Tp.HCM tỉ lệ gặp phải các rối loạn sức
khỏe tâm thần ngày càng cao và là một vấn đề đang được quan tâm. Việc sinh viên chưa có
những hiểu biết đầy đủ cũng như chưa có thái độ đúng đắn đối với vấn đề này sẽ tạo ra
những nguy cơ cao dẫn đến việc bị rối loạn sức khỏe tâm thần. Do vậy, việc tìm hiểu về
nhận thức và thái độ của sinh viên Đại học Quốc gia Tp.HCM đối với rối loạn sức khỏe tâm
thần để có được những hỗ trợ cần thiết cho sinh viên nhằm giảm nguy cơ gặp phải RLSKTT
là đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đang đặt ra.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

10

7.2.1.1. Mục đích
– Tìm ra những cơ sở nghiên cứu nhằm xây dựng khung lý thuyết và công cụ nghiên
cứu cho đề tài.
– Hệ thống hóa những tài liệu nói trên để xây dựng khung lý thuyết và nội dung nghiên
cứu của đề tài

7.1.2. Cách thức

– Tham khảo các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, sách, tạp chí chuyên
ngành, các thông tin … có liên quan đến đề tài.
7.2.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
a. Mục đích điều tra
Chúng tôi xây dựng một bảng hỏi dành cho các bạn sinh viên nhằm tìm hiểu nhận
thức, thái độ của sinh viên đối với rối loạn sức khỏe tâm thần, cũng như tìm hiểu thêm về
các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức và thái độ của sinh viên đối với RLSKTT
b. Cách thức
Sử dụng bảng hỏi tiến hành khảo sát trên sinh viên thuộc các trường thành viên của
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh để thu thập dữ liệu cho đề tài.
7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
a. Mục đích
Thu được những ý kiến cụ thể của một số sinh viên. Những ý kiến này sẽ là những
dữ liệu quan trọng mang tính định tính, nhằm làm rõ hơn và mô tả cụ thể hơn các kết quả
thu được từ bảng hỏi.
b. Cách thực hiện
Sau khi thu số liệu và xử lý thống kê toán học, người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn
một số bạn sinh viên ở mỗi trường thành viên của Đại học quốc gia Tp.HCM theo bảng hỏi
phỏng vấn đã soạn sẵn.
7.2.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
a. Mục đích
Thu thập ý kiến của các chuyên gia về vấn đề nghiên cứu nhằm có được sự đánh giá
về các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng nhận thức và thái độ của sinh viên đối với các vấn
đề về sức khỏe tâm thần. Từ đó định hướng cho việc đề xuất những kiến nghị để nâng cao
nhận thức và thái độ của sinh viên.

11

b. Cách thức
– Sau khi thu số liệu và xử lý thống kê toán học, người nghiên cứu tiến hành thu thập
các ý kiến của chuyên gia về kết quả thu được.
7.2.2.4. Phương pháp tọa đàm
a. Mục đích
– Thu thập thông tin, ý kiến đánh giá và quan điểm từ nhiều nguồn đối với vấn đề
nghiên cứu để có cái nhìn toàn diện hơn.
b. Cách thức
– Trong quá trình nghiên cứu, tiến hành tổ chức những buổi tọa đàm về vấn đề nghiên
cứu. Đối tượng tham dự là sinh viên của trường Đại học quốc gia Tp.HCM
7.2.3. Phương pháp toán thống kê
a. Mục đích
Nhằm thống kê các số liệu thu được đối với các vấn đề: nhận thức, thái độ của sinh
viên đối với các vấn đề về sức khỏe tâm thần, nguyên nhận của nhận thức và thái độ của
sinh viên đối với vấn đề này.
b. Cách thức
Người nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 16.0 để nhập và xử lý thống
kê như: tính tần số, tỷ lệ phần trăm, kiểm nghiệm T – Test, kiểm nghiệm Chi – quare, Factor
Analyzis làm cơ sở để bình luận số liệu thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.

12

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA
SINH VIÊN ĐỐI VỚI RỐI LOẠN SỨC KHỎE TÂM THẦN
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ngoài nước
Sức khỏe tâm thần là một trong những vấn đề ngày càng được quan tâm trên toàn thế
giới vì sự ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế của mỗi quốc gia, đến chất lượng cuộc sống của
con người. Theo WHO, những ảnh hưởng về kinh tế do rối loạn sức khỏe tâm thần là rộng
khắp, lâu dài và rất lớn. Nó gây nên chi phí lớn cho cá nhân, gia đình và cộng đồng. Theo
báo cáo y tế thế giới (2001), những rối loạn tâm thần và hành vi chiếm khoảng 12% gánh
nặng bệnh tật toàn cầu [34]. Chính vì vậy, sức khỏe tâm thần cũng như rối loạn tâm thần
ngày càng được quan tâm nghiên cứu.
Về sức khỏe tâm thần đã có những nghiên cứu sâu rộng về nhận thức và thái độ của
người dân đối với vấn đế này. Như nghiên cứu vào năm 2007 của một tổ chức ở Ireland về
“Nhận thức và thái độ của người dân Ireland đối với vấn đề Sức khỏe tâm thần”[42].
Nghiên cứu được tiến hành trên 1000 người dân nhằm thông báo cho sự phát triển nhận thức
về vấn đề sức khỏe tâm thần của người dân Ireland hướng đến việc nâng cao nhận thức và
hiểu biết về sức khỏe tâm thần của người dân. Những người thực hiện nghiên cứu này cũng
có mong muốn phát triển khả năng ứng phó của người dân Ireland đối với những rối loạn
sức khỏe tâm thần. Ngoài ra có thể kể đến nghiên cứu của tổ chức Y tế ở Ireland về “Thái
độ và nhận thức của người dân Bắc Ireland đối với vấn đề Sức khỏe tâm thần” [41]. Những
người thực hiện nghiên cứu này cho rằng đây là nghiên cứu cần thiết để giúp thông tin cho
cộng đồng các vấn đề sức khỏe tâm thần, đồng thời đây là một cách tiếp cận toàn dân đề
hiểu và giải quyết các nguy cơ gặp phải rối loạn sức khỏe tâm thần cũng như các yếu tố bảo
vệ giúp người dân phòng ngừa và chữa trị khi gặp phải rối loạn sức khỏe tâm thần.
Các nghiên cứu nhằm đưa ra những chiến lược phòng ngừa RLSKTT cũng khá phổ
biến trên thế giới. Trong đó phải kể đến “Hướng dẫn về phòng chống RLSKTT (2011) của
hiệp hội tâm thần Châu Âu”, hướng dẫn này đã nói rằng “Một cơ sở khoa học cho thấy bằng
chứng chúng ta có thể ngăn ngừa nhiều rối loạn tâm thần, tình cảm và hành vi trước khi họ
bắt đầu gặp phải những rối loạn này” [45]. Về vấn đề chữa trị có bài viết của bác sĩ tâm thần

13

Allen Frances (2013) nói về vấn đề sự tin cậy đối với các chẩn đoán tâm thần và cho rằng
các chẩn đoán vẫn còn dựa hoàn toàn vào đánh giá chủ quan [45].
Như vậy có thể thấy là đã có những nghiên cứu về nhận thức và thái độ của người dân
đối với vấn đề sức khỏe tâm thần và mục đích của những nghiên cứu này cũng chủ yếu là
nhằm đưa ra những chiến lược phát triển khả năng ứng phó và phòng ngừa rối loạn sức khỏe
tâm thần. Còn những nghiên cứu về nhận thức và thái độ đối với vấn đề Rối loạn sức khỏe
tâm thần thì dường như rất ít và chỉ có những nghiên cứu nhằm đo các rối loạn tồn tại ở mỗi
người dân. Chẳng hạn như nghiên cứu của tác giả Bayram, Bilgel.N mô tả cắt ngang trên
1.617 sinh viên trầm cảm, lo âu và stress với mức độ nặng vừa phải hoặc cao hơn đã được
tìm thấy ở 27%, 47% và 27% người trả lời tương ứng [31].
1.1.2. Trong nước
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, tỷ lệ người có rối loạn về sức khỏe tâm thần
ngày càng tăng cao. Đứng trước thực tế đó, các nhà chuyên môn đã đẩy mạnh hơn việc
nghiên cứu và đánh giá mức độ bị rối loạn tâm thần ở các đối tượng người dân để trên cơ sở
đó có những cách hạn chế sự gia tăng tỷ lệ người có rối loạn sức khỏe tâm thần.
Cho đến nay những nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc phát hiện việc rối loạn tâm
lý ở người dân như nghiên cứu của Kim Bình Giang, Nguyễn Văn Tuấn và cộng sự trong
việc phát hiện rối loạn tâm lý ở nông thôn Việt Nam. Liên quan đến việc xác định các yếu tố
liên quan có tác động đến sức khỏe tâm thần có nghiên cứu của Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh và
Michael Dunne trên sinh viên khoa Y tế công cộng và Điều dưỡng tại đại học Y Dược Tp.
HCM. Gần đây có nghiên cứu của tác giả Lê Minh Thuận: “ Một số rối nhiễu tâm lý của
sinh viên Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh” phân tích khá rõ nét về thực trạng rối nhiễu
tâm lý ở khách thể nói trên [31]. Ngoài ra, còn có rất nhiều nghiên cứu đề cập cụ thể đến các
dạng RLSKTT như đề tài của tác giả Hoàng Thế Hải và Lê Đình Đức tìm hiểu về nguyên
nhân và biện pháp can thiệp các rối nhiễu tâm lý ở học sinh trung học cơ sở.
Đề cập cụ thể đến sức khỏe tâm thần và rối loạn sức khỏe tâm thần cũng như việc áp
dụng các liệu pháp tâm lý trong chữa trị RLSKTT có thể kể đến nghiên cứu và bài viết sau:
Đề cập đến nhận thức và thái độ đối với vấn đề sức khỏe tâm thần có bài viết của Đặng
Hoàng Minh và Cao Minh đăng trong Kỷ yếu về Tâm lý truờng học lần thứ nhất nói về
nhận thức của cha me đối với vấn đề sức khỏe tâm thần của con cái. Về cách phòng ngừa và

14

chữa trị có bài viết của tác giả Lê Thị Minh Tâm đề cập đến việc áp dụng cách tiếp cận trị
liệu nhận thức hành vi trong việc giúp sinh viên ứng phó với rối nhiễu lo âu [27].
Như vậy, hiện nay đã có những nghiên cứu và bài viết có liên quan đến vấn đề sức
khỏe tâm thần và rối loạn sức khỏe tâm thần nhưng chưa đề cập tổng quát và toàn diện đến
vấn đề này. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc đo lường mức độ rối loạn sức khỏe
tâm thần ở các khách thể khác nhau.. Trong các nghiên cứu trên cũng có đề cập đến nguyên
nhân của việc bị rối loạn sức khỏe tâm thần ở các đối tượng khác nhau trong cộng đồng. Họ
có đề cập đến nhận thức và thái độ của người dân đối với rối loạn sức khỏe tâm thần là một
trong những nguyên nhân khiến cho các đối tượng này không có được sự phòng tránh cần
thiết và sự can thiệp chuyên môn kịp thời khi gặp phải các vấn đề về rối loạn sức khỏe tâm
thần nhưng chưa đề cập cụ thể đến nhận thức và thái độ đối với vấn đề RLSKTT. Đối với
khách thể là sinh viên thì cũng chưa có nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề nhận thức và thái
độ của nhóm khách thể này đối với vấn đề rối loạn sức khỏe tâm thần. Do vậy, những
nghiên cứu nêu trên sẽ là nền tảng để người nghiên cứu có thể xác định được những vấn đề
trọng tâm của đề tài nghiên cứu.
1.2. Cơ sở lý luận của đề tài
Phần cơ sở lý luận của đề tài, chúng tôi đề cập là làm rõ ba nội dung chính sau: Nhận
thức và thái độ của sinh viên; Một số vấn đề liên quan đến RLSKTT; Một số tiêu chí đáng
giá nhận thức và thái độ của sinh viên đối với RLSKTT.
1.2.1. Nhận thức và thái độ của sinh viên
1.2.1.1. Nhận thức
a. Khái niệm
Có rất nhiều định nghĩa về nhận thức, ở đây xin nêu ra một số định nghĩa thường được
sử dụng nhiều nhất ở Việt Nam.
Theo từ điển Tiếng Việt, Nhận thức là kết quả của quá trình phản ánh và tái hiện hiện
thực trong tư duy, kết quả con người nhận biết, hiểu biết thế giới khách quan. [20] Theo định nghĩa này có thể thấy nhận thức vừa là một quá trình phản ánh có mở đầu,
diễn tiến và kết thúc của tư duy con người với hiện thức khách quan vừa là kết quả của sự
phản ánh đó. Khi đã nhận thức được một hiện thực nào đó hay nói cách khác là có nhận
thức về bất kỳ một vấn đề nào đó trong cuộc sống, con người lại dùng chính nhận thức đó
để tiếp tục tiến hành những quá trình nhận thức mới. Sự nhận biết là nhận thức sơ khai đầu

15

tiên, giúp con người thu được những kết quả nhận thức ban đầu từ thế giới khách quan, là cơ
sở để con người tiến hành sự phản ánh cao hơn nhằm thu được sự hiểu biết sâu rộng về sự
vật hiện tượng của thế giới.
Theo từ điển triết học, nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và
sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn. [14]. Như vậy,
để cải tạo thực tiễn hướng đến việc phục vụ cho cuộc sống, con người không ngừng tìm
hiểu, tác động vào thế giới khách quan để có được những nhận thức nhất định về hiện thực
khách quan. Với những nhận thức có được về hiện thực khách quan con người tự nguyện
tìm hiểu và tác động vào thế giới khách quan với thái độ tích cực và những sáng kiến mới
nhằm biến đổi thực tiễn, phục vụ cho cuộc sống ngày càng phát triển của con người.
Theo từ điển tâm lý năm 2011 do tác giả Nguyễn Khắc Viện chủ biên, nhận thức
(tiếng Pháp: Connaisance) là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong
tư duy, nhận biết là hiểu biết thế giới khách quan. Quá trình ấy đi từ cảm giác đến tri giác,
từ tri giác đến tri thức, diễn ra ở các mức độ [35]:
+ Kinh nghiệm hàng ngày về các đồ vật và người khác, mang tính tự phát, thường hỗn
hợp với tình cảm, thành kiến, thiếu hệ thống.
+ Khoa học, các khái niệm được kiến tạo một cách chặt chẽ, có hệ thống với ý thức về
phương pháp và những bước đi của tư duy để chứng nghiệm đúng – sai.
Trong quá trình nhận thức này, những cái sai sẽ dần dần được loại bỏ để con người có
được nhận thức đúng đắn về hiện thực khách quan.
Theo từ điển Tâm lý học do tác giả Vũ Dũng chủ biên (2008) thì nhận thức là hiểu
được một điều gì đó, tiếp thu được những kiến thức về điều nào đó, hiểu biết những quy luật
về những hiện tượng, quá trình nào đó [4]…
Những quan điểm nêu trên đều có những điểm tương đồng khi định nghĩa về nhận
thức. Cụ thể đều xem nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực khách quan thông qua
sự nhận biết và các bước của tư duy. Sản phẩm của quá trình nhận thức có thể là nhận thức
đúng đắn và sai lầm nhưng thông qua sự tích cực và tự giác con người sẽ dần dần loại bỏ cái
sai và có nhận thức đúng đắn để cải thiện hiện thưc khách quan làm cho nó ngày càng phục
vụ cuộc sống con người ngày một tốt hơn.
Tác giả Phạm Minh Hạc xem nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm
lý con người, hai mặt còn lại là tình cảm và hành động. Trong khi hoạt động để tồn tại trong
thế giới tự nhiên và môi trường xã hội, con người phải nhận thức, phản ánh hiện thực xung

16

quanh và cả hiện thực của bản thân mình, để trên cơ sở đó con người tỏ thái độ, tình cảm và
hành động. Trong việc nhận thức thế giới, con người có thể đạt tới những mức độ nhận thức
khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Kết quả nhận thức có thể cho ra sản
phẩm là nhận thức đúng hoặc nhận thức sai, nhận thức từng bộ phận hay nhận thức cái tổng
thể, nhận thức một phần hay nhận thức trọn vẹn sự vật hiện tượng, nhận thức thuộc tính bên
ngoài hay đi sâu vào bản chất bên trong, dẫn đường tìm ra quy luật và chân lý [35].
Như vậy, theo định nghĩa này cần xác định ba yếu tố:
+ Thứ nhất, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Nếu con người có
nhận thức tốt là quá trình phản ánh hiện thực khách quan đúng đắn, đầy đủ.
+ Thứ hai, nhận thức có mối quan hệ với tình cảm, thái độ. Tức là khi con người nhận
thức tốt sẽ chỉ đạo, định hướng, điều khiển tình cảm, và giúp con người tỏ thái độ phù hợp.
+ Thứ ba, nhận thức có mối quan hệ với hành động. Nghĩa là nhận thức tốt sẽ làm
động lực thúc đẩy con người hành động và đạt kết quả tốt.
Với mục đích nghiên cứu không nhằm tìm hiểu chuyên sâu về bản chất của nhận thức
mà chỉ lựa chọn và chấp nhận một số quan điểm để làm cơ sở lý luận theo hướng nghiên
cứu của đề tài, người nghiên cứu xin lựa chọn định nghĩa của tác giả Phạm Minh Hạc để
làm cơ sở nghiên cứu vì sự phù hợp của nó với đối tượng nghiên cứu của đề tài và chúng tôi
đặc biệt quan tâm và lưu ý đến yếu tố thứ nhất và thứ hai nêu trên vì nó là cơ sở cho hướng
nghiên cứu của đề tài và cho thấy được mối quan hệ giữa nhận thức và thái độ của nhóm
khách thể đối với đối tượng nghiên cứu.
b. Các mức độ của nhận thức
Nhận thức là một quá trình tâm lý hết sức đa dạng, phức tạp và được thể hiện ở nhiều
mức độ khác nhau. Hiện nay, trong tâm lý học việc phân chia các mức độ của quá trình
nhận thức cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Nhưng quan niệm phổ biến và được dùng
rộng rãi nhất là các quan niệm sau:
* Quan niệm thứ nhất: Nhận thức được chia làm hai mức độ là nhận thức cảm tính
và nhận thức lý tính
+ Nhận thức cảm tính: quá trình nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp của hoạt động
nhận thức, tuy đơn giản nhưng nó mang lại những tài liệu đầu tiên cho nhận thức của con
người. Nhận thức cảm tính bao gồm quá trình cảm giác và tri giác [32].

17

(1) Cảm giác: là một quá trính nhận thức phản ánh một cách riêng rẻ từng thuộc tính,
bề ngoài của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của con người
(màu sắc, hình dáng, khối lượng…)
Quá trình cảm giác bao gồm 3 khâu như sau:
– Khâu 1: kích thích xuất hiện và tác động vào một cơ quan thụ cảm
– Khâu 2: Xuất hiện xung thần kinh được truyền theo các dây thần kinh tới não
– Khâu 3: Vùng thần kinh cảm giác tương ứng ở vỏ não hoạt động tạo ra cảm giác
Ngoài ra, con người còn có những cảm giác từ các kích thích xuất hiện bên trong cơ
thể, phản ánh chính các trạng thái cơ thể đang tồn tại (cảm giác đói, cảm giác khát…)
(2) Tri giác: là sự phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của sự vật,
hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan. Hình ảnh của sự vật có được là dựa
trên cơ sở của các thông tin do cảm giác đem lại, dựa trên việc tổ chức, sắp xếp các thuộc
tính bên ngoài thành một thể thống nhất theo đúng cấu trúc của sự vật, hiện tượng khách
quan [32].
Như vậy, cảm giác được coi như là một nguồn cung cấp thông tin đầu vào, còn tri
giác là tổ hợp, diễn giải, gán ý cho các thông tin đó.
+ Nhận thức lý tính: là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bên trong, bản
chất của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Nhận thức lý tính gồm có quá trình tư
duy và tưởng tượng.
(1) Tư duy: là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng khách quan mà trước đó ta chưa
biết.
Xét trên phương diện lịch sử hình thành và mức độ phát triển của tư duy thì có các
loại tư duy sau
– Tư duy trực quan hành động: đây là loại tư duy xuất hiện sớm nhất về phương diện
phát sinh chủng loại cũng như về phương diện phát sinh cá thể. Là loại tư duy mà việc giải
quyết các nhiệm vụ được thực hiện nhờ sự cải tổ thực tế các tình huống và nhờ các hành
động vận động có thể quan sát được.
– Tư duy trực quan hình ảnh: loại tư duy này chỉ có ở con người, đặc biệt là ở trẻ nhỏ.
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện bằng sự cải tổ tình huống chỉ
dựa trên bình diện hình ảnh

18

– Tư duy trừu tượng: là loại tư duy ra đời muộn nhất và chỉ có ở con người. Đây là
loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được dựa trên việc sử dụng các khái niệm, các kết
cấu lôgic, được tồn tại và vận hành nhờ ngôn ngữ.
Ba loại tư duy này có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau và chi phối
lẫn nhau, trong đó tư duy trực quan hành động và tư duy trực quan hình ảnh là cơ sở cho tư
duy trừu tượng.
(2) Tưởng tượng: là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có trong
kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu
tượng đã có.
Về nội dung phản ảnh, tưởng tượng phản ánh cái mới, những cái chưa từng có trong
kinh nghiệm cá nhân hoặc xã hội.
Về phương thức phản ánh, tưởng tượng tạo ra cái mới từ các biểu tượng đã có nhờ
phương thức chắp ghép, liên hợp, nhấn mạnh, mô phỏng…
Về sản phẩm phản ánh của tượng tượng là những biểu tượng mơi được xây dựng từ
các biểu tượng đã có (biểu tượng của trí nhớ). Biểu tượng của của tưởng tượng mang tính
khái quát, biểu tượng của biểu tượng.
Tưởng tượng là một quá trình nhận thức lí tính được bắt đầu và thực hiện chủ yếu
bằng hình ảnh nhưng vẫn mang tính khái quát và gián tiếp.
Tưởng tượng có quan hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính, nó sử dụng những biểu
tượng của trí nhớ do nhận thức cảm tính mang lại. Tưởng tượng cũng có quan hệ chặt chẽ
với ngôn ngữ và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn.
* Quan niệm thứ hai: Bloom chia lĩnh vực nhận thức thành 6 mức độ hoạt động tri
thức, theo một tiến trình liên tục từ dễ đến khó [35]:
(1). Biết: chủ yếu là sự ghi nhớ và tái hiện được các sự kiện, khái niệm cơ bản và các
câu trả lời, cũng bao gồm việc có thể xác định, miêu tả, gọi tên, phân loại, nhận biết một sự
vật hiện tượng, khái niệm hoặc mô phỏng, bắt chước một thao tác.
(2). Hiểu: hiểu nghĩa, có thể tóm tắt nội dung hoặc diễn giải khái niệm, có thể biến đổi
tương đương, hoặc chứng minh sự hiểu biết về các sự kiện và ý tưởng bằng cách so sánh,
đối chiếu, có thể nêu ví dụ minh họa.
(3). Vận dụng: có thể sử dụng thông tin hay khái niệm trong tình huống mới, biết thiết
lập, thực hiện, tạo dựng, mô phỏng thao tác và các quy tắc theo một cách khác, có thể giải

19

quyết vấn đề bằng cách áp dụng kiến thức đã thu được, dự đoán các sự kiện tiếp theo dựa
trên dữ kiện đã có.
(4). Phân tích: biết phân chia thông tin, khái niệm thành những bộ phận, nhận ra mối
quan hệ giữa những bộ phận ấy, biết xem xét động cơ hoặc nguyên nhân của sự vật, hiện
tượng, biết suy luận và tìm bằng chứng cho những nội dung khái quát
(5). Tổng hợp: biết chắp ghép các thành phần với nhau, khái quát hóa để tạo nên nội
dung mới, biết tái cấu trúc để tạo thành tổng thể mới, biết kết hợp các thông tin với nhau
theo những cách khác nhau hoặc đề xuất các giải pháp thay thế.
(6). Đánh giá: có thể nhận xét, nhận định, phê bình ý nghĩa hoặc giá trị của sự vật, hiện
tượng dựa trên dự xem xét lược sử trình tự vấn đề, có thể lượng định các các dữ kiện để
khẳng định hoặc bác bỏ một luận điểm.
Cách phân chia này của Bloom được biết đến rộng rãi vì tính ứng của nó đặc biệt là
trong lĩnh vực dạy học.
* Quan niệm thứ ba: chia các mức độ nhận thức thành 3 mức độ như sau: nhận biết,
thông hiểu, vận dụng [29].
+ Nhận biết: tức là có thể nhận lại, thậm chí nhắc lại các tài liệu, các tri thức theo
trình tự nhất định đã được tiếp nhận. Ở mức độ này con người hiểu được hình thức của tài
liệu chứ chưa hiểu được nội dung tài liệu hoặc hiểu một cách hời hợt. Mức nhận biết giúp
con người phân biệt được sự vật, hiện tượng trên cơ sở những dấu hiệu bề ngoài.
+ Mức độ thông hiểu: Ở mức độ này tức là nắm được nội dung tài liệu, có thể trình
bày được nội dung của tài liệu nhưng chưa vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể.
+ Mức độ vận dụng: là khả năng vận dụng tài liệu đã tiếp thu vào hoàn cảnh điều
kiện cụ thể. Để đạt được mức độ này mỗi người cần phải: Say mê với công việc mình đang
làm, có trình độ và kiến thức văn hóa nhất định; có lòng thương yêu đối với con người.
Do đối tượng nghiên cứu của đề tài là một lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ so với sinh
viên nên trong ba quan niệm nêu trên, người nghiên cứu đánh giá mức độ nhận thức của
sinh viên đối với vấn đề nghiên cứu dựa theo quan niệm thứ ba. Việc lựa chọn quan điểm
ngoài việc phù hợp với nhận thức của sinh viên đối với một vấn đề khá mới mẻ này còn tạo
ra những thuận lợi cho người nghiên cứu trong việc xây dựng nội dung của phiếu điều tra và
trong quá trình phân tích các số liệu thu được từ phiếu điều tra.
c. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức
Nhận thức của mỗi người bị tác động bởi nhiều yếu tố, từ các yếu tố bẩm sinh đến

20

môi trường sống, lứa tuổi…Trong đó, có những yếu tố có sự tác động nhiều nhất như:
(1) Bẩm sinh di truyền: cấu tạo của não bộ, đặc điểm hệ thần kinh, giác quan… sẽ ảnh
hưởng đến khả năng nhận thức của con người, cụ thể đó là tốc độ xử lí và tiếp nhận các
kiến thức nhanh hay chậm.
(2) Giới tính: Trong quá trình phát triển của mỗi người chúng ta, thông qua việc dạy
dỗ, cách cư xử của cha mẹ và những người lớn xung quanh chúng ta ý thức được “giới tính”
của bản thân. Với bản sắc riêng của giới tính nam hoặc nữ sẽ có những ảnh hưởng nhất định
và tạo nên những khác biệt trong suy nghĩ giữa nam giới và nữ giới.
(3) Lứa tuổi: Ở những giai đoạn lứa tuổi khác nhau cùng với sự trưởng thành hơn cả
về mặt thể lý và tâm lý sẽ có những ảnh hưởng nhất định và tạo nên những khác biệt trong
nhận thức của mỗi người ở mỗi giai đoạn lứa tuổi.
(4) Môi trường sống: Với những môi trường sống khác nhau, chịu ảnh hưởng từ những
gì diễn ra xung quanh bản thân trong mỗi môi trường sống đó như từ các mối quan hệ bạn
bè, mối quan hệ với những người xung quanh, với gia đình, chịu ảnh hưởng từ lối sống của
mọi người xung quanh, lối sống của gia đình…tất cả những yếu tố này sẽ tác động và ảnh
hưởng không nhỏ đến việc định hướng giá trị sống của mỗi cá nhân. Định hướng giá trị
khác nhau ở mỗi cá nhân sẽ cho thấy quá trình nhận thức khác nhau ở mỗi cá nhân.
1.2.1.2. Thái độ

a. Khái niệm
Thái độ là một trong những phạm trù được sử dụng rộng rãi không chỉ trong khoa
học tâm lý mà cả trong các ngành khoa học khác. Chính vì vậy, có rất nhiều quan điểm về
thái độ, ở đây người nghiên cứu chỉ đưa ra một số quan điểm tiêu biểu về phạm trù này.
Theo từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên (2010), thái độ được định nghĩa là
[20]:
+ Tổng thể nói chung của ý nghĩ, tình cảm đối được thể hiện ra bên ngoài qua nét
mặt, cử chỉ, lời nói, hành động trước một đối tượng, một sự việc nào đó.
+ Cách nghĩ, cách nhìn và cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn đề,
một tình hình cụ thể.
Lênin định nghĩa thái độ là một bộ phận của lĩnh vực tình cảm phản ánh quan hệ của
cá nhân đối với hiện thực. Nó được quyết định bởi thế giới quan của cá nhân cho nên cũng
phản ánh tồn tại xã hội, chịu ảnh hưởng của ý thức giai cấp, của tâm lý xã hội, của dư luận

21

và tập đoàn xã hội. Nó thường không phải là những đáp ứng được biểu lộ một cách rõ ràng
hay trực tiếp mà là những ý nghĩ đang chuyển hóa hành động.
Theo tâm lý học xã hội: Thái độ là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân để phản ứng với
một tình huống hay một phức thể tình huống, thái độ vốn có xu hướng rõ rệt hình thành quy
luật nhất quán phương thức xử thế của mỗi cá nhân[29].
Theo từ điển Tâm Lý học, Vũ Dũng chủ biên (2008), thái độ là trạng thái sẵn sàng về
mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, có tác dụng điều chỉnh
hoặc có ảnh hưởng một cách linh hoạt đến phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và
tình huống mà nó (phản ứng) có mối liên hệ . Nhìn chung người ta cho rằng thái độ có 3
thành tố: nhận thức, cảm xúc và hành vi kết hợp lại để truyền tải một phản ứng tích cực, tiêu
cực hay trung lập. Một thiên hướng tương đối ổn định để phản ứng theo một cách thức cụ
thể đối với một khách thể có liên quan. Thái độ là một sản phẩm phức tạp của các quá trình
học tập, lĩnh hội, trải nghiệm, cảm xúc bao gồm cả những hứng thú, ác cảm, thành kiến, mê
tín, quan điểm khoa học và tôn giáo cũng như chính trị [4].
Theo từ điển Tâm lý học, Nguyễn Khắc Viện chủ biên năm 2001, thái độ (Tiếng
Pháp: Attitude) được quan niệm như sau: Trước một đối tượng hay một ý tưởng, con người
bộc lộ những phản ứng tức thì, chẳng hạn tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay
chống đối, như đã sẵn có những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó. Từ
những thái độ sẵn có, tri giác về các đối tượng cũng như tri thức bị chi phối. Thái độ liên
quan với động cơ và dục vọng bản năng. Thái độ có sự thay đổi trong quá trình hoạt động và
tùy vào hoàn cảnh.
Ngoài ra, các tác giả Bùi Ngọc Oánh, Triệu Xuân Quýnh, Nguyễn Hữu Nghĩa đã
định nghĩa thái độ “là một thành tố quan trọng cấu tạo nên ý thức. Thái độ là những rung
cảm, những cảm nghĩ có khả năng dẫn đến những hành động, hành vi tương ứng với đối
tượng nhận thức. Thái độ của con người phản ánh các mối quan hệ xã hội mà người đó gia
nhập vào”. Các tác giả cũng cho rằng: “để thực hiện những hoạt động nhằm cải tạo hiện
thực khách quan, phục vụ cho những nhu cầu sống còn của mình, con người không phải chỉ
cần phản ánh những thuộc tính khách quan của các đối tượng bằng các hoạt động nhận thức,
mà còn cần phản ánh mối quan hệ của các đối tượng ấy với nhu cầu của mình. Mối quan hệ
này quy định thái độ của con người đối với đối tượng của quá trình phản ánh. Tùy thuộc vào
đối tượng có ý nghĩa như thế nào đối với nhu cầu của ta (thỏa mãn hay không thỏa mãn) mà
ta có thái độ tương ứng (tích cực hay tiêu cực) với đối tượng ấy” [35].

22

Với những định nghĩa nêu trên về thái độ, có thể nhận thấy, dù được giải thích theo
những cách thức khác nhau nhưng những định nghĩa trên vẫn có những nét tương đồng. Các
định nghĩa đều cho rằng:
+ Thứ nhất, thái độ là một dạng phản ứng bên trong (suy nghĩ, tình cảm, cảm nghĩ,
cách nhìn,…) và bên ngoài (hành động, hành vi, sự thích ứng…) của cơ thể.
+ Thứ hai, thái độ nảy sinh khi có mối liên quan giữa một đối tượng (một sự vật, hiện
tượng, một con người, một nhóm người) với sự thỏa mãn chu cầu của chủ thể.
+ Thứ ba, thái độ có tính xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể của thái độ và
các thành phần khác trong xã hội (trong hoàn cảnh, tình huống xã hội, trong sự trao đổi các
giá trị, chuẩn mực xã hội,…).
Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của đề tài hướng đến việc xem xét các phản ứng
của chủ thể nghiên cứu nên để thuận lợi cho việc lập thang thái độ cũng như việc đánh giá
thái độ của sinh viên đối với vấn đề nghiên cứu, người nghiên cứu lựa chọn định nghĩa của
từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên (2008) làm cơ sở để xây dựng thang đáng giá cũng
như đánh giá.
b. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành thái độ
Những yếu tố được xem là có vai trò quyết định đến sự hình thành thái độ là sự thỏa
mãn nhu cầu, thông tin, giao tiếp nhóm và nhân cách
(1). Sự thỏa mãn nhu cầu
Việc hình thành thái độ của chủ thể đối với một đối tượng bất kỳ trong thực tiễn
không xuất phát từ chính bản thân đối tượng mà được hình thành khi có mối liên quan giữa
một đối tượng với sự thỏa mãn nhu cầu của cá nhân đó. Con người hình thành thái độ tích
cực với những đối tượng có lợi, đáp ứng được nhu cầu của bản thân, hình thành thái độ tiêu
cực với đối tượng có hại trong quá trình thỏa mãn nhu cầu của bản thân.
Quá trình thỏa mãn nhu cầu là quá trình chủ thể nỗ lực, tích cực tìm kiếm các phương
pháp phù hợp để thỏa mãn các nhu cầu, sau đó cảm xúc sẽ xuất hiện và chủ thể bày tỏ thái
độ một cách cụ thể.
(2). Thông tin
Mọi thông tin tác động đến con người (thông tin trên báo, tạp chí, truyền hình….)
đều có những ảnh hưởng nhất định đến việc hình thành thái độ. Hệ thống thông tin được các
chủ thể tiếp cận dưới nhiều hình thức, góc độ khác nhau. Khi tiếp nhận thông tin mới, con
người có sự đối chiếu với những thông tin đã lĩnh hội được trước đó và đối chiếu với những

23

thái độ đã củng cố thành hệ thống thái độ đã hình thành trước đó về cùng một đối tượng.
Điều này giúp chủ thể của thái độ nhận rõ thêm về bản chất của vấn đề và dễ dàng bày tỏ
thái độ một cách rõ ràng và phù hợp.
(3). Giao tiếp nhóm
Trong xã hội hiện đại, mỗi cá nhân luôn luôn tồn tại trong một nhóm xã hội nhất định
và thái độ của mỗi thành viên đều phản ánh cái giá trị, chuẩn mực, niềm tin của nhóm mà họ
tham gia. Mỗi nhóm có mục đích hoạt động, chuẩn mực, tôn chỉ khác nhau nên thái độ của
các nhóm cũng khác nhau đối với các vấn đề của xã hội.
Giá trị mà cả nhóm theo đuổi sẽ ảnh hưởng đến việc hình thành thái độ của các thành
viên trong nhóm. Chuẩn mực của nhóm không chỉ xác định hành vi nào là đúng – sai, hành
vi nào là tốt – xấu mà còn xác định xem thái độ nào là tốt hay xấu. Dưới sức ép của những
chuẩn mực nhóm, cá nhân sẽ hình thành và phát triển những thái độ phù hợp, những thái độ
không phù hợp với chuẩn mực của nhóm sẽ dần dần bị loại bỏ.
(4). Nhân cách
Nhờ đặc điểm của nhân cách mà dưới sức ép của những chuẩn mực của các nhóm xã
hội mà mình tham gia, cá nhân vẫn có sự chủ động trong việc tiếp nhận các thái độ trong
nhóm cũng như cách thức biểu lộ thái độ. Trong quá trình hình thành, phát triển và hoàn
thiện nhân cách, cá nhân tự củng cố hệ thống thái độ, hình thành thái độ mới và loại bỏ
những thái độ không phù hợp với định hướng phát triển nhân cách của mình.
Quá trình hình thành thái độ của một cá nhân chịu sự chi phối của 4 yếu tố nêu trên.
Chính vì vậy để thay đổi thái độ của một cá nhân đối với bất kỳ một vấn đề nào, chúng ta
cần phải có sự tác động phù hợp vào các yếu tố đó.
* Mối quan hệ giữa nhận thức và thái độ
Như đã nói ở trên “để thực hiện những hoạt động nhằm cải tạo hiện thực khách quan,
phục vụ cho những nhu cầu sống còn của mình, con người không phải chỉ cần phản ánh
những thuộc tính khách quan của các đối tượng bằng các hoạt động nhận thức, mà còn cần
phản ánh mối quan hệ của các đối tượng ấy với nhu cầu của mình. Mối quan hệ này quy
định thái độ của con người đối với đối tượng của quá trình phản ánh…”
Như vậy, nhận thức và thái độ cùng là kết quả của sự phản ánh tâm lý, trong đó:
+ Nhận thức là kết quả của phản ánh, còn thái độ là kết quả của phản ánh cảm xúc

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *