BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHẠM CHÍ HẢI
PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN: THỰC
TRẠNG ÁP DỤNG TẠI TỈNH CÀ MAU
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHẠM CHÍ HẢI
PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN: THỰC
TRẠNG ÁP DỤNG TẠI TỈNH CÀ MAU
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Phạm Chí Hải mã số học viên: 60380107, là học viên lớp LOP
K25MBL Cà Mau; Khóa K25 – 2 chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường
Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với
đề tài “Pháp luật về bán đấu giá tài sản: Thực trạng áp dụng tại Cà Mau” (Sau
đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là
kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn
khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và
có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện
Phạm Chí Hải
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………..
1
Chương 1: Một số vấn đề chung về đấu giá tài sản ………………………………………..
5
1.1. Khái niệm về đấu giá tài sản
……………………………………………………………………………
5
1.2. Đấu giá tài sản là hoạt động có tích chất đặc thù
………………………………………………..
8
1.2.1. Việc mua bán tài sản có tính chất cạnh tranh ………………………………………………
8
1.2.2. Hoạt động mua bán thông qua trung gian
……………………………………………………
8
1.2.3. Đối tượng đấu giá là tài sản khó xác định được về giá trị hoặc giá trị sử dụng…
9
1.2.4. Là hoạt động mua bán công khai ……………………………………………………………..
10
1.2.5. Đa dạng về phương thức và hình thức đấu giá …………………………………………..
11
1.2.5.1. Về phương thức đấu giá tài sản: ………………………………………………………..
11
1.2.5.2. Về hình thức đấu giá:
……………………………………………………………………….
12
1.2.6. Ngành nghề kinh doanh dịch vụ có điều kiện
…………………………………………….
13
1.2.7. Đa dạng về chủ thể tham gia
……………………………………………………………………
13
1.2.7.1. Người có tài sản bán đấu giá: ……………………………………………………………
13
1.2.7.2. Tổ chức bán đấu giá:
………………………………………………………………………..
14
1.2.7.3. Đấu giá viên ……………………………………………………………………………………
15
1.2.7.4. Người tham gia đấu giá
…………………………………………………………………….
15
1.2.7.5. Cơ quan, đơn vị giám sát việc đấu giá
………………………………………………..
16
1.3. Các loại tài sản bán đấu giá …………………………………………………………………………..
17
1.4. Chế tài xử lý các hành vi vi phạm trong tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản ……….
17
1.5. Khái lược quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản……………………………………
19
1.5.1. Giai đoạn trước năm 1995 ………………………………………………………………………
19
1.5.2. Giai đoạn từ 1995 đến nay ………………………………………………………………………..
20
Tiểu kết chương 1 ………………………………………………………………………………………………
21
Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản tại Cà Mau
…………………………………………………………………………………………………………………..
22
2.1. Các chủ thể có thẩm quyền tổ chức bán đấu giá tài sản ở Cà Mau………………………
22
2.1.1. Tổ chức đấu giá chuyên nghiệp ……………………………………………………………….
22
2.1.2. Về đấu giá viên ……………………………………………………………………………………..
24
2.2. Về trình tự, thủ tục bán đấu giá ở Cà Mau
……………………………………………………….
24
2.2.1.Xác định giá khởi điểm
……………………………………………………………………………
24
2.2.2. Về công khai việc bán đấu giá tài sản
……………………………………………………….
27
2.2.2.1. Thực tiễn lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản
…………………………………….
27
2.2.2.2.Việc ban hành văn bản thông báo bán đấu giá ……………………………………..
28
2.2.2.3. Niêm yết việc bán đấu giá tài sản ………………………………………………………
29
2.2.2.4. Thông báo việc bán đấu giá tài sản
…………………………………………………….
30
2.2.2.5. Đăng ký tham gia đấu giá …………………………………………………………………
31
2.2.2.6. Thực hiện hình thức, phương thức và trình tự cuộc đấu giá
…………………..
32
2.2.2.7. Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá ……………………………………………….
33
2.3. Phí bán đấu giá tài sản ………………………………………………………………………………….
34
2.4. Công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản ở địa phương ………………………………
34
2.5. Những hạn chế trong tổ chức, hoạt động bán đấu giá tài ở Cà Mau và nguyên nhân.
………………………………………………………………………………………………………………………..
36
2.5.1. Những hạn chế trong tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản ở Cà Mau thời
gian qua
…………………………………………………………………………………………………………
36
2.5.2. Nguyên nhân hạn chế
…………………………………………………………………………….
40
Tiểu kết Chương 2 ……………………………………………………………………………………………..
41
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đấu giá tài sản tại Cà
Mau
……………………………………………………………………………………………………………
43
3.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về đấu giá tài sản ……………………………………………..
43
3.1.1. Triển khai thực hiện có hiệu quả Luật đấu giá tài sản …………………………………
43
3.1.2. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện văn bản pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho đấu giá tài sản ở địa phương. ……………………………………………………………………..
52
3.2. Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản ở địa phương được tổ chức
thực hiện đúng theo chức năng, nhiệm vụ được giao bảo đảm kịp thời, hiệu quả ……….
53
3.3. Tăng cường công tác tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật về đấu giá tài sản
………………………………………………………………………………………………………………………..
53
3.4. Thực hiện có hiệu việc giám sát, duy trì thường xuyên công tác thanh, kiểm tra và
xử lý nghiêm đối với những hành vi vi phạm pháp luật về đấu giá nhằm bảo đảm cho
việc đấu giá được công khai, minh bạch
………………………………………………………………..
54
Tiểu kết Chương 3 ……………………………………………………………………………………………..
55
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………..
57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Phụ lục 1: Danh sách tổ chức bán đấu giá trên địa bàn tỉnh
Phụ lục 2: Danh sách đấu giá viên
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
ĐGTS
Đấu giá tài sản
UBND
Ủy ban nhân dân
QSDĐ
Quyền sử dụng đất
ĐGV
Đấu giá viên
QLNN
Quản lý Nhà nước
THA
Thi hành án
BLDS
Bộ Luật dân sự
BĐG
Bán đấu giá
TSĐG
Tài sản đấu giá
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, hoạt động bán ĐGTS ở Việt Nam đã có bước phát
triển khá nhanh chóng, là một dịch vụ ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong
đời sống kinh tế – xã hội, một trong những cách thức linh hoạt để chuyển quyền sở
hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác góp phần thúc đẩy hoạt động kinh
doanh dịch vụ nói chung, hoạt động mua bán tài sản nói riêng phát triển một cách
đa dạng. Việc chuyển đổi từ cơ chế độc quyền bán đấu giá những loại tài sản bắt
buộc đấu giá sang kinh doanh dịch vụ trong cơ chế thị trường có sự tham gia cạnh
tranh làm cho chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp được phát triển mạnh
mẽ, chất lượng hoạt động bán ĐGTS được nâng cao, kịp thời đáp ứng được đòi hỏi
ngày càng cao của xã hội trong thời kỳ đổi mới. Sự phát triển nhanh chóng đó nó
dẫn đến làm cho dịch vụ bán ĐGTS có nhiều diễn biến phức tạp, nên vấn đề pháp lý
và thực tiễn đặt ra nhằm đảm bảo về tổ chức và hoạt động bán ĐGTS được chặt chẽ
để đem lại hiệu quả cao nhất cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có tài sản đấu giá.
Pháp luật về bán ĐGTS đã hình thành và ngày càng được hoàn thiện, điều
chỉnh đáp ứng được chủ trương xã hội hóa,phù hợp với xu thế hội sâu rộng như hiện
nay, vì tài sản được bán qua dịch vụ này ngày càng nhiều và từng bước được mở
rộng, do đó vai trò của pháp luật về bán đấu giá là rất quan trọng bảo vệ lợi ích của
các bên tham gia trong quan hệ đấu giá.
Tổ chức bán đấu giá ở Cà Mau đã ký được số lượng lớn hợp đồng và bán
đấuthành nhiều loại tài sản nhưng chủ yếu là công sản và tài sản của người phải
THA, đóng góp quan trọng trong việc thi hành dứt điểm nhiều bản án, xử lý các loại
công sản không còn nhu cầu sử dụng đem lại nguồn thu khá lớn cho ngân sách, tạo
nguồn thu nhập đáng kể cho các tổ chức bán đấu giá và giải quyết được công ăn
việc làm cho nhiều lao động góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội và phát triển
kinh tế, xã hội ở địa phương. Cũng từ đây đã làm phát sinh không ít ý kiến phản
ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo xảy ra đối với tổ chức BĐG, người có tài sản, cá
nhân, đơn vị có liên quan1. Qua thực trạng nêu trên, người viết chọn đề tài “Pháp
luật về đấu giá tài sản: Thực trạng áp dụng tại Cà Mau”để làm luận văn.
1 UBND tỉnh Cà Mau: Báo cáo tổng kết 4 năm thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP; Sở Tư pháp: Báo cáo
chuyên đề về bán đấu giá tài sản các năm 2014, 2015 và 2016.
2
Đây là đề tài có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý và thực tiễn nhằm tạo cơ sở
cho địa phương có giải pháp phù hợp để từng bước xây dựng, phát triển hoạt động
bán ĐGTS được lành mạnh, hiệu quả.
2. Những vấn đề cần tập trung nghiên cứu trong luận văn
Xuất phát từ yêu cầu về pháp lý và thực tiễn bán ĐGTS ở Cà Mau, người
viết sẽ tập trung tìm hiểu và làm rõ nội dung cơ bản trong những mặt còn hạn chế,
bất cập là vấn đề gì? nguyên nhân dẫn đến hạn chế, bất cập trong hoạt động bán
ĐGTS ở Cà Mau.
3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn chủ yếu tập trung về tổ chức BĐG; trình
tự, thủ tục ĐGTS, nên đề tài sẽ nghiên cứu có hệ thống những quy định của
phápluậtthực địnhvề bán ĐGTS hiện hành ở nước ta và thực tiễn áp dụng tại Cà Mau.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn sẽ nghiên cứu một số vấn đề lý luận về ĐGTS nhất là tính chất đặc
thù của hoạt động ĐGTS; phân tích thực trạng về hoạt động bán ĐGTS ở Cà Mau
trong đó có đề cập sâu việc đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân; trên cơ sở
nghiên cứu các những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề ra một số giải pháp, kiến nghị
nhằm từng bước nâng cao chất lượng cho hoạt động bán ĐGTS được chặt chẽ, công
khai, minh bạch, lành mạnh và hiệu quả.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của pháp luật về
bán ĐGTS như Bộ luật dân sự năm 2015, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04
tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán ĐGTS, Luật đấu giá tài sản số
01/2016/QH14 ngày 17 tháng 11 năm 2016 và một số văn bản quy phạm pháp luật
có liên quan.
Thực tế áp dụng pháp luật về bán ĐGTS tại Cà Mau.
6. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê để luận giải các vấn đề được khách quan toàn diện có vận dụng linh hoạt
các phương pháp kết hợp giữa lý luậnvà thực tiễn, phương pháp nghiên cứu định
tính và định lượng như nghiên cứu, rà soát tài liệu. Đặc biệt là những vụ việc được
nêu ra để minh họa thì dùng phương pháp mô tả, những vấn đề mang tính chất pháp
lý thì sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp; các vấn đề liên quan đến áp dụng
pháp luận thì sử dụng phương pháp biện luận.
3
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Về ý nghĩa khoa học, Luận văn tuy không có tính mới nhưng cũng nêu được
vai trò quan trọng của bán ĐGTS mang lại, góp phần phục vụ phát triển kinh tế-xã
hội; phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng về những vấn đề chủ yếu trong hoạt
động bán ĐGTS tại Cà Mau, nêu lên những kết quả đạt được, những hạn chế yếu
kém từ đó đề xuất các kiến nghị phù hợp, góp phần cho hoạt động bán ĐGTS ở Cà
Mau được chặt chẽ công khai và đáp ứng được nhu cầu cơ quan, tổ chức và cá nhân
ngày càng cao.
Về giá trị ứng dụng, Luận văn góp phần triển khai đầy đủ về trình tự, thủ tục
bán ĐGTS, kiện toàn và phát triển các tổ chức hành nghề bán đấu giá đủ điều kiện,
đào tạo, bồi dưỡng để từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ ĐGV ở Cà Mau nói
riêng, góp phần triển khai pháp luật về bán ĐGTS. Đồng thời còn có tác dụng cho
các cơ quan, cán bộ, công chức trong việc quản lý, điều hành hoạt động bán ĐGTS
ở địa phương đạt kết quả cao hơn.
8. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn
Liên quan đến Đề tài: Thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Cà Mau
trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, đáng chú ý đến các công
trình sau đây:
Về sách có “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam” của đồng tác giả Đinh Văn
Thanh và Nguyễn Minh Tuấn.
Sách chuyên khảo có cuốn “Pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại
ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Mạnh Cường.
Sách chuyên khảo về “Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở Việt Nam
của TS. Đặng Thị Bích Liểu.
Đề tài nghiên cứu “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài nhằm thức đẩy
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Võ Đình Toàn.
Luận văn thạc sĩ luật “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt
Nam hiện nay” của Nguyễn Tuyết Liên .
Các bài viết trên tạp chí có liên quan đến pháp luật về ĐGTS được kể đến đó
là: Bài “Những bất cập trong các quy định về ĐGTS” của Nguyễn Văn Phương.
Bài về “Những vướng mắc cần tháo gỡ trong công tác ĐGTS” của Phạm Văn
Chung.
Bài viết về “Khi khách hàng thông đồng dìm giá trong ĐGTS” của tác giả Lê
Thu Hằng.
4
Bài “Vấn đề người có tài sản bán đấu giá và người bán tài sản” của Đặng Thị
Bích Liễu.
Bài viết “Bán đấu giá tài sản ở Nhật bản” của Dân Đức nêu lên những chủ
thể thực hiện ĐGTS bao gồm: Tòa thi hành án, chấp hành viên, thư ký tòa, thủ tục
ĐGTS gồm đệ đơn yêu cầu bán đấu, trình tự bán đấu giá tài sản.
Bài viết về “Pháp luật Trung quốc về bán đấu giá tài sản” của Thế Anh đề
cập đến tài sản bán đấu giá ở Trung Quốc.
5
Chương 1: Một số vấn đề chung về đấu giá tài sản
1.1. Khái niệm về đấu giá tài sản
Trong nền kinh tế thị trường, ĐGTS là một trong những hình thức mua bán
rất phổ biến để xác định giá trị của một tài sản khó xác định hoặc có biến đổi nhiều,
nhằm tạo điều cho người mua và người bán có thể mua bán được tài sản đúng với
giá trị của nó. Trên thế giới, hình thức đấu giá xuất hiện lần đầu tiên tại Babylon
vào khoảng năm 500 Tr.CN, đến thế kỷ XV xuất hiện ở đất nước Hà Lan, từ thế kỷ
XVII thì đấu giá đã trở nên phổ biến ở nước này và ở Anh. Cho đến ngày nay, đấu
giá đã phát triển và trở thành một loại hình kinh doanh dịch vụ không thể thiếu
trong nền kinh tế thế giới. Nên khái niệm về ĐGTS cũng được đưa ra xem xét dưới
nhiều phương diện, góc độ khác nhau.
Về quan niệm truyền thống, đấu giá là việc mua bán tài sản công khai mà
những người mua sẽ trả giá từ giá thấp cho tới khi trả giá cao nhất và người bán đấu
giá đồng ý bán bằng cách gõ búa.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Đấu giá là một quá trình mua và
bán bằng cách đưa ra món hàng cần đấu giá, ra giá và sau đó bán món hàng cho
người ra giá cao nhất 2.
Đại từ điển Bách khoa Việt Nam: Đấu giá là hình thức bán những tài sản
thường thuộc loại đắc tiền, hàng hiếm quý. Người bán đặt mức giá chuẩn, những
người mua trả giá từ thấp đến cao, tài sản được bán cho người mua trả giá cao
nhất 3.
Từ điển Kinh tế học hiện đại: Đấu giá là một thị trường trong đó người mua
tìm tàng đặt giá cho tài sản chứ không phải đơn thuần trả giá theo giá công bố của
người bán. Thị trường đấu giá là: Một thị trường có tổ chức tại đó giá cả được điều
chỉnh liên tục theo biến đổi của cung và cầu 4.
Từ điển Luật học: Bán đấu giá tài sản thông qua thủ tục trả giá công khai
giữa nhiều người muốn mua và người trả gía cao nhất là người có quyền mua tài
sản 5.
Theo Phó Giáo sư, tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa: “Đấu giá tài sản là hình thức
công khai chọn người mua. Trong tiến trình đấu giá, những người muốn tham gia
2 https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A5u_gi%C3%A1.
3 Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Đại Từ điển Bách Khoa Việt
Nam, Nxb. Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, tr. 136.
4 Divid W.Pearce: Từ điển Kinh tế học hiện đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.102.
5 Bộ Tư pháp: Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.31.
6
trả giá theo một thủ tục nhất định, người trả giá cao nhất (và ít nhất bằng giá khởi
điểm) là người mua được tài sản bán đấu giá”.
Khái niệm về ĐGTS còn được quy định trong những điều luật cụ thể: Chẳng
hạn điều 3, Luật bán ĐGTS nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1996 quy
định “Bán đấu giá là hình thức bán và mua tài sản công khai, theo đó các tài sản
và quyền tài sản được bán cho người trả giá cao nhất” 6. Còn đạo luật của Floriada
năm 2003 đưa ra khái niệm “Bán đấu giá tuyệt đối” là cuộc bán đấu giá không yêu
cầu giá khởi điểm tối thiểu mà tài sản sẽ được bán cho người trả giá cao nhất. Theo
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản
(gọi tắt là Nghị định số 17/2010/NĐ-CP): “Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài
sản công khai theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu
giá theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được quy định”(Khoản 1, Điều 2). Bộ luật
dân sự năm 2015: “Việc bán đấu giá tài sản phải đảm bảo nguyên tắc khách quan,
công khai, minh bạch, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia và
được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản” (Điều 451).
Luật đấu giá tài sản năm 2016: “Đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản có từ hai
người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục được quy định”
(Khoản 2, Điều 5).
Về xem xét dưới hai góc độ kinh tế và pháp lý.
Dưới giác độ kinh tế, ĐGTS là phương thức xác định người mua hàng. Quan
hệ này bị tác động bởi quy luật cung – cầu, nói cách khác, bán đấu giá tồn tại như
một nhu cầu tất yếu, khách quan của kinh tế thị trường. Bởi lẽ, trên thị trường, hàng
hoá luân chuyển tự do và bị tác động bởi các quy luật của thị trường trong đó có
quy luật cung – cầu. Khi cung vượt quá cầu thì thị trường dành cho người mua
quyền lựa chọn. Khi cầu lớn hơn cung thì thị trường thuộc về người bán.
Bên cạnh đó, ở phương diện kinh tế, BĐG là một trong những cách để xác
định giá trị của món hàng chưa biết giá hoặc giá trị thường thay đổi. Trong một
số trường hợp, có thể tồn tại một mức giá tối thiểu hay còn được gọi là giá sàn; nếu
sự ra giá không đạt được giá sàn, món hàng sẽ không được bán. Đấu giá có thể áp
dụng cho nhiều loại tài sản: động sản, bất động sản, các loại tài sản đã qua sử dụng
và đặc biệt là bán đấu giá bắt buộc (thanh lý, phát mãi tài sản). Theo Từ điển kinh tế
6Luật bán đấu giá tài sản của Trung Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
7
học hiện đại: Đấu giá là một thị trường trong đó người mua tiềm tàng đặt giá cho tài
sản chứ không phải đơn thuần trả giá theo giácông bố của người bán.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, ĐGTS được xem là một quan hệ pháp luật về
dân sự và thương mại, nghĩa là quan hệ đấu giá cũng gồm có đủ các yếu tố: chủ thể,
nội dung và khách thể. Chủ thể chính là những người tham gia của quan hệ ĐGTS
(người có tài sản, tổ chức bán đấu giá, người điều hành đấu giá và người mua tài
sản), nội dung của quan hệ pháp luật về ĐGTS gồm các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể trong quan hệ, khách thể là những lợi ích mà các bên tham gia quan hệ pháp
luật ĐGTS hướng tới.
Ở góc độ ĐGTS là một hợp đồng dân sự, ĐGTS cũng là sự thỏa thuận giữa
các bên trong đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên
mua, còn bên mua nhận tài sản và có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán. Được xem là
hợp đồng mua bán nên hợp đồng đấu giá cũng gọi là hợp đồng ưng thuận, hợp đồng
song vụ, hợp đồng đề bù. Nhưng hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá có những
nét riêng khác với hợp đồng mua bán tài sản thông thường được thể hiện ở tính chất
đặc thù của nó.
Trên thực tế, hoạt động ĐGTS đã tồn tại và phát triển một cách khác quan và
được sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật khác nhau, nên ĐGTS còn được
hiểu rộng hơn là phương thức tổ chức mua bán tài sản công khai có nhiều người
cùng tham gia trả giá và người nào trả giá cao nhất là người mua được tài sản đó.
Với cách hiểu này, ĐGTS đã được hiểu là chế định pháp luật dân sự bao gồm các
quy phạm pháp luật về bán đấu giá quy định về nguyên tắc, hình thức, điều kiện,
trình tự, thủ tục, nội dung đấu giá,… thông qua đó bảo vệ quyền và lợi ích của các
bên trong tham gia quan hệ.
Tóm lại, dù có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về ĐGTS nhưng nhìn
tổng thể thì đều có những điểm chung cơ bản là: Phương thức mua bán tài sản công
khai và có nhiều người tham gia trả giá. Từ phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra
khái niệm cơ bản về bán đấu giá tài sản như sau: Bán đấu giá tài sản là một hình
thức bán tài sản đặc thù, để người mua tự trả giá, không thấp hơn giá thấp nhất do
người bán đưa ra. Người nào trả giá cao nhất sẽ được quyền mua tài sản đấu giá.
Bán đấu giá được tổ chức công khai, theo những nguyên tắc, trình tự và thủ tục
nhất định.
8
1.2. Đấu giá tài sản là hoạt động có tích chất đặc thù
Bên cạnh những đặc điểm chung của mua bán tài sản thông thường là thỏa
thuận giữa các bên về sự chuyển giao quyền sở hữu tài sản, hoạt động bán ĐGTS có
tính chất riêng biệt nhất định và được thể hiện bằng việc phải tuân thủ theo trình tự,
thủ tục quy định.
1.2.1. Việc mua bán tài sản có tính chất cạnh tranh
Cạnh tranh là hành động ganh đua, thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử dụng rất
phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh vực khác nhau và nó cũng có nghĩa là nổ lực
hành động để thành công hơn, đạt kết quả tốt hơn người đang có hành động như
mình 7. Cạnh tranh trong việc mua bán tài sản bán đấu là sự cạnh tranh giữa các chủ
thể đăng ký tham gia đấu giá trả giá, thông qua việc công khai, minh bạch trong
hoạt động bán ĐGTS để thu hút được đông đảo cá nhân, tổ chức đăng trong đó
người bán chỉ có một mà người mua lại rất nhiều, do vậy tất cả người mua đều
muốn mua được tài sản của người bán, nhưng khả năng đáp ứng của người bán lại
có giới hạn và chỉ có một người có thể mua được tài sản. Nên những người tham gia
đấu giá để mua tài sản họ cạnh tranh trong trả giá rất cao, sẽ làm cho tài sản tăng giá
lên mức cao nhất có thể và ai trả giá cao nhất người đó sẽ mua được tài sản. Do có
sự cạnh tranh giữa những người muốn mua tài sản với nhau, cho nên người bán sẽ
thu được số tiền cao nhất từ việc bán tài sản của mình. Để đảm bảo tính cạnh tranh
lành mạnh, chính những người tham gia sẽ cùng nhau trả giá và giám sát quá trình
đấu giá để đảm bảo quyền và lợi ích của người có tài sản một cách tốt nhất.
1.2.2. Hoạt động mua bán thông qua trung gian
Mua bán qua trung gian là phương thức thiết lập mối quan hệ giữa người bán
với người mua thông qua người thứ ba để ký kết và thực hiện hợp đồng8.Trong quan
hệ ĐGTS, ngoài bên bán, bên mua còn có sự tham gia của trung gian là người làm
dịch vụ đấu giá. Bên bán là chủ sở hữu của tài sản, người được chủ sở hữu ủy quyền
hoặc là người có trách nhiệm, lợi ích liên quan đến tài sản BĐG. Bên mua là tổ
chức, cá nhân có nhu cầu mua tài sản và đáp ứng các điều kiện theo quy định của
pháp luật để tham gia trả giá. Người làm dịch vụ đấu giá là những đơn vị, tổ chức
được người bán tài sản ủy quyền tiến hành việc BĐG.
7 https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A1nh_tranh.
8 https://www.wattpad.com/392604-giao-d%E1%BB%8Bch-trung-gian.
9
Trong quan hệ BĐG này có thể được phát sinh trước tiên giữa người có tài
sản với người BĐG là mối quan hệ đại diện được xác lập thông qua hợp đồng bán
đấu giá (thông qua việc lựa chọn), người có tài sản sẽ giao cho tổ chức BĐG đại
diện cho mình không những tìm kiếm người mua tài sản mà còn giao kết hợp đồng
mua bán tài sản BĐG với người đó (người mua) trong phạm vi được giao. Còn mối
quan hệ giữa người BĐG và người mua tài sản là quan hệ giữa người được ủy
quyền tổ chức BĐG với người thứ ba (người mua tài sản) trong việc xác lập hợp
đồng mua bán tài sản BĐG sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người có tài sản
với người mua tài sản. Theo Luật ĐGTS mối quan hệ trung gian trên có sự thay đổi
nhất định, người có tài sản trở thành bên thuê dịch vụ, tổ chức BĐG là người làm
dịch vụ và chủ yếu tìm kiếm người mua tài sản (thiết lập được giai đoạn tiền hợp
đồng), còn việc xác lập hợp đồng mua bán tài sản là việc của người có tài sản với
người mua tài sản 9.
1.2.3. Đối tượng đấu giá là tài sản khó xác định được về giá trị hoặc giá trị sử
dụng
Không phải mọi tài sản đều chọn bán theo hình thức đấu giá, mà chỉ những
tài sản có tính chất đặc thù về giá trị mới thường được người có tài sản cân nhắc để
lựa chọn bán theo phương thức đấu giá. Những tài được đem đấu giá là loại tài khó
xác định giá trị thực, người bán tài sản chỉ đưa ra mức giá cơ bản (giá khởi điểm) để
người mua tham khảo giá, còn giá bán thực tế do những người tham dự cuộc đấu
giá xác định trên cơ sở sự cạnh tranh giá với nhau. Giá bán thực tế có thể cao hơn
(nếu bán theo phương thức trả gía lên) hoặc thấp hơn (nếu bán theo phương thức đặt
giá xuống) giá mà người bán đưa ra ban đầu. Do vậy, một số loại tài sản có nhu cầu
bán, nhưng người có tài sản không được tự lựa chọn hình thức để bán mà pháp luật
quy định bắt buộc phải bán theo hình thức đấu giá như: Các tài sản của Nhà nước
theo quy định tại Điều 22 của Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03/6/2009 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý, sử
dụng tài sản nhà nước; tài sản đã được cơ quan thi hành án dân sự kê biên là động
sản có giá trị từ trên 10.000.000 đồng và bất động sản theo quy định tại Điều 101
của Luật thi hành án dân sự ngày 14/11/2008; là tang vật, phương tiện vi phạm hành
chích bị tịch thu theo quy định tại Điều 82 của Luật xử lý vi phạm hành chính ngày
20/6/2012 (gọi tắt là tài sản bị tịch thu); quyền sử dụng đất do nhà nước giao có thu
9 Điều 33 về “Hợp đồng dịch đấu giá tài sản” và Điều 46 về “Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá…”
Luật ĐGTS.
10
tiền sử dụng đất hoặc cho thuê theo quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật đất đai
ngày 29/11/2013 (gọi tắc quyền sử dụng đất)… Do tính chất đặc thù của việc bán tài
sản theo phương thức này nên hầu hết những tài sản bắt buộc phải đưa ra bán đấu
giá nêu trên đều là tài sản rất khó xác định được giá trị thật như: tài sản đã qua sử
dụng nhiều năm, bất động sản ở vị trí khác nhau có ảnh hưởng đến yếu tố hợp
phong thủy, hợp sở thích… Nên người có tài sản đấu giá nhờ chuyên gia chỉ đưa ra
mức giá cơ bản cũng không quá thấp hoặc không quá cao để người mua tham khảo
giá, còn giá bán thực tế do những người đăng ký tham gia cuộc đấu giá xác định
trên cơ sở sự cạnh tranh giá với nhau, nhằm hạn chế được thiệt hại về tài sản của cơ
quan, cá nhân, tổ chức.
1.2.4. Là hoạt động mua bán công khai10
Công khai là không giữ kính, không dấu giếm mà để cho mọi người đều có
thể biết 11. Đấu giá là hình thức công khai lựa chọn người mua tài sản nên mọi vấn
đề liên quan đến cuộc đấu giá và những thông tin về tài sản đấu giá phải được công
khai cho tất cả mọi cá nhân, tổ chức biết nhất là người có nhu cầu mua tài sản thông
qua nhiều hình thức như niêm yết, thông báo, trưng bày, giới thiệu tài sản. Tổ chức
bán đấu tài sản có trách nhiệm phải niêm yết việc bán đấu giá tài sản là động sản tại
nơi bán đấu giá, nơi trưng bày tài sản và nơi đặt trụ sở của tổ chức bán đấu giá tài
sản chậm nhất là bảy ngày trước khi tiến hành bán đấu giá; đối với bất động sản
phải niêm yết thêm việc bán đấu giá tài sản tại nơi có bất động sản bán đấu giá và
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có bất động sản bán đấu giá chậm nhất là
ba mươi ngày trước ngày mở cuộc bán đấu giá. Những tài sản bán đấu giá là động
sản có giá khởi điểm từ ba mươi triệu đồng trở lên và bất động sản thì đồng thời với
việc niêm yết, tổ chức bán đấu giá tài sản phải thông báo công khai chậm nhất là
bảy ngày đối với động sản, ba mươi ngày đối với bất động sản trước ngày mở cuộc
bán đấu giá trên phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương hoặc địa phương
nơi có tài sản bán đấu giá về việc bán đấu giá tài sản ít nhất hai lần, mỗi lần cách
nhau ba ngày. Trường hợp bán đấu giá tài sản nhà nước còn phải đăng tải công khai
trên Trang thông tin điện tử của Cục Quản lý công sản, Bộ Tài chính. Công khai
thời gian, địa điểm tiến hành tổ chức cuộc đấu giá; tên loại tài sản đấu giá; số lượng,
chất lượng, giá khởi điểm của tài sản; địa điểm trưng bày tài sản, các giấy tờ, hồ sơ
10 Điều 3 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
11http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/C%C3%B4ng_khai.
11
chứng minh về tài sản và tạo điều kiện cho người đăng ký tham gia đấu giá xem.
Công khai tên người có tài sản, tên tổ chức bán đấu giá, cá nhân, tổ chức đăng ký
mua tài sản. Tại cuộc đấu giá, đấu giá viên điều hành cuộc đấu giá công khai mức
giá được trả, họ tên người tham gia trả giá cao nhất của mỗi vòng trả giá, công bố
người trúng giá và mua được tài sản đem ra bán đấu giá. Qua đó, nhằm thông tin
rộng rải việc bán ĐGTS đến với mọi cá nhân, tổ chức có nhu cầu mua tài sản được
biết nhằm thu hút thật nhiều người tham gia đấu giá để cuộc đấu giá được thực hiện
chất lượng, hiệu quả nhất.
1.2.5. Đa dạng về phương thức và hình thức đấu giá
1.2.5.1. Về phương thức đấu giá tài sản:
Đấu giá tài sản có thể được thực hiện theo nhiều cách thức khác nhau là tùy
thuộc vào từng loại tài sản và điều kiện tổ chức đấu giá nhưng phổ biến là đấu giá
theo phương thức trả giá lên và đấu giá theo phương đặt giá xuống.
Theo phương thức trả giá lên, tại các cuộc đấu giá, người điều hành nêu giá
khởi điểm của tài sản BĐG, những người tham gia đấu giá nâng dần lên theo từng
mức nhất định, tạo cho những người tham gia đấu giá chủ động đề xướng đặt giá
mua, làm cho các cuộc đấu giá luôn sôi động bởi sự trả giá liên tục, rược đuổi giá
của người tham gia đấu giá, từ đó nhiều tài sản bán được với mức giá vượt quá sức
tưởng tượng của bên bán, thời gian tổ chức cuộc đấu giá thường ngắn, do các mức
giá được đưa ra công khai, liên tục. Nhưng có hạn chế là người tham gia đấu giá
luôn biết rõ đối thủ của mình trả giá như thế nào, nên việc trả giá có khi nhích từng
chút một và nhiều trường hợp cuộc đấu giá kết thúc với giá bán được không vượt xa
giá khởi điểm nhiều. Phương thức này cũng được áp dụng phổ biến, thông dụng ở
nước ta và được quy định cho hầu các cuộc đấu giá là tài sản bắt buộc hiện nay.
Về phương thức đặt giá xuống, trong cuộc đấu giá giá khởi điểm của tài sản
thường được đưa ra rất cao và sẽ được giảm dần với một mức định trước và thời
gian định trước, người điều hành cuộc đấu giá đưa ra giá và chờ người tham gia đấu
giá trả gía đồng ý. Phương thức này được bán thường có số lượng lớn, gióng nhau
hoặc nhanh hỏng, tài sản thường bán được với giá cao hơn giá trị của nó; có tính
cạnh tranh ngầm, mức giá càng giảm người tham gia đấu giá càng muốn mua. Bên
cạnh đó có hạn chế là cuộc đấu giá rất khó tổ chức, người tham gia thường không
nhiều vì tài sản đem bán rất khó xác định giá trị thực, trong thực tiễn có những loại
tài sản được đưa ra bán đấu giá với mục tiêu trước tiên là phải bán được tài sản, sau
đó mới tính đến mục tiêu bán tài sản với giá tốt nhất như việc bán tài sản thi hành
12
án và tài sản bị tịch thu, nếu áp dụng đấu giá theo phương thức đặt giá xuống sẽ đáp
ứng được yêu cầu đặt ra. Nhưng Nghị định số 17/2010/NĐ-CP chỉ quy định một
phương thức là trả giá lên, nên không tạo điều kiện giúp tổ chức đấu giá và người
có tài sản lựa chọn phương thức phù hợp với mục đích và với từng loại tài sản bán
đấu giá.
1.2.5.2. Về hình thức đấu giá:
Bán ĐGTS củng có những hình thức nhất định, nhưng phổ biến là hình thức
đấu giá tài sản trực tiếp bằng lời nói và bằng bỏ phiếu.
a) Đấu giá trực tiếp bằng lời nói: là hình thức mà trong cuộc đấu giá người
điều hành đấu giá sử dụng lời nói của mình để đưa ra giá khởi điểm, người mua sẽ
đặt giá cũng bằng lời nói hoặc bằng việc làm dấu hiệu để người điều hành đấu giá
biết. Hình thức đấu giá này được áp dụng rộng rãi nhất trong các hình thức bán đấu
giá tài sản. Tuy nhiên, những cuộc đấu giá áp dụng hình thức này nếu có nhiều
người tham gia thì rất khó điều hành, vì sau khi người đầu tiên trả giá thì có thể có
hàng loạt người trả giá cùng một lúc dẫn đến người điều hành đấu giá không xác
định được ai sẽ là người được trả giá kế tiếp, gây ra tình trạng mất trật tự trong cuộc
đấu giá. Mặt khác, áp dụng hình thức đấu giá này có thể phát sinh tiêu cực khi mà
người tổ chức đấu giá sắp xếp thứ tự người tham gia đấu giá có lợi cho người mua
trong trường hợp người mua móc ngoặc với người tổ chức đấu giá.
b) Đối với đấu giá bằng bỏ phiếu: là hình thức đấu giá phải trả giá bằng hình
thức viết vào phiếu do người tổ chức đấu giá cung cấp, người điều hành cuộc dấu
giá sẽ thông báo mức giá khởi điểm của tài sản và những người tham gia trả giá trên
cơ sở mức giá khởi điểm đó. Sau khi những người tham gia đã trả giá bằng cách bỏ
vào hòm phiếu đã được quy định thì người điều hành cuộc bán đấu giá tổ chức mở
hòm phiếu kiểm tra và thông báo người trúng giá là người trả giá cao nhất và duy
nhất. Hình thức này áp dụng phù hợp với những cuộc đấu giá có số lượng người
đăng ký tham gia đấu giá nhiều như đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu
tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất… Áp dụng hình thức này hạn chế được tình
trạng chạy đua của những người tham gia đấu giá trong việc nâng giá của tài sản lên
quá cao so với giá trị thực của tài sản, tránh được hiện tượng móc ngoặc hoặc gây
rối, mất trật tự trong cuộc đấu giá. Nhưng thủ tục còn phức tạp và mất nhiều thời
gian hơn so với đấu giá bằng lời nói, cuộc đấu giá không sôi động, sự cạnh tranh
của những người tham gia đấu giá cũng không quyết liệt như đấu giá bằng lời nói.
Theo Nghị định số 17/2010/NĐ-CP chưa có hình thức bỏ phiếu gián tiếp trực tiếp.
13
Ngoài ra, trong thời đại công nghệ thông tin hình thức đấu giá trực tuyến phát
triển, đây là cách cho phép người tham gia đấu giá các tài sản hoặc các dịch vụ
thông qua Internet.
1.2.6. Ngành nghề kinh doanh dịch vụ có điều kiện
Trong mua bán, mỗi bên tham gia quan hệ mua bán tài sản đều vì mục đích
nhất định. Tổ chức bán đấu giá mục đích là để kiếm tiền thù lao, người có tài sản
muốn bán được tài sản của mình thông qua đấu giá sẽ được giá cao nhất, người mua
tài sản thông qua việc trả giá đấu giá sẽ mua được tài sản theo đúng kế hoạch của
mình đưa ra là mua được tài sản giá rẻ, chất lượng và có thể sinh lời. Là ngành nghề
kinh doanh dịch vụ có ảnh hưởng đến lợi ích của người sở hữu tài sản, người mua
tài sản và việc bán tài sản phải tuân theo trình tự, thủ tục quy định, nên đây là ngành
nghề đầu tư kinh có điều kiện12. Hiện tại, tổ chức BĐG là doanh nghiệp được hoạt
động kinh doanh dịch vụ bán ĐGTS phải có đủ các điều kiện như: Người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp phải là ĐGV; có trụ sở, cơ sở vật chất, các trang
thiết bị cần thiết khác bảo đảm cho hoạt động bán ĐGTS; phải thông báo việc đăng
ký kinh doanh cho Sở Tư pháp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh
nghiệp đặt trụ sở chính biết trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Bên cạnh đó, tổ chức bán ĐGTS còn phải
đăng ký danh sách ĐGV với Sở Tư pháp nơi tổ chức BĐG đặt trụ sở chính; báo cáo
Sở Tư pháp về tổ chức, hoạt động của mình theo định kỳ 06 tháng, hàng năm hoặc
trong trường hợp đột xuất theo yêu cầu; hàng năm chịu sự kiểm tra, thanh tra về tổ
chức và hoạt động. Những điều kiện được nêu chưa được chặt chẽ, thiếu tính cụ thể.
1.2.7. Đa dạng về chủ thể tham gia
Có sự khác biệt với chủ thể trong mua bán tài sản thông thường chỉ có người
bán (chủ sở hữu tài sản) và người mua, chủ thể trong hoạt động bán đấu giá gồm:
Người có tài sản bán đấu giá, tổ chức bán đấu giá, đấu giá viên, người tham gia đấu
giá.
1.2.7.1. Người có tài sản bán đấu giá:
Tùy thuộc vào tài sản bán đấu giá mà người có tài sản bán tài sản có thể là cá
nhân, tổ chức sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu ủy quyền hoặc tài sản cầm cố,
thế chấp. Đối với những tài sản bắt buộc phải bán đấu giá như: tài sản của nhà nước
người có tài sản bán đấu giá là thủ trưởng cơ quan có tài sản; tài sản bị tịch thu
12 Điểm 12, Danh mục C, Phục lục 4, Điều 7 Luật Đầu tư năm 2014.
14
người có tài sản bán đấu giá là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tịch thu; đối
với tài sản thi hành án người có tài sản bán là Chấp hành viên; quyền sử dụng đất để
giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất người bán là Tổ chức phát triển
quỹ đất hoặc cơ quan khác được giao đấu giá.
1.2.7.2. Tổ chức bán đấu giá:
Pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quy định điều kiện bắt buộc đối với hoạt
động ĐGTS phải do những cá nhân, tổ chức đủ điều kiện nhất định tiến hành, công ty
chỉ được thực hiện ĐGTS là động sản sau khi có sự cho phép của Ủy ban quản lý về
BĐG động sản nhưng bị hạn chế về giá trị (ở Pháp). Việc bán ĐGTS do các doanh
nghiệp bán ĐGTS thực hiện (Trung Quốc). Doanh nghiệp BĐG hay công ty đấu giá
được hiểu là công ty một chủ sở hữu, công ty hợp danh, liên doanh mà trong hoạt
động kinh doanh thường xuyên có các hoạt động như sắp xếp, quản lý, quảng cáo,
xúc tiến thương mại, hoặc thực hiện việc bán đấu giá, có thuê đấu giá viên để tiến
hành cuộc bán đấu giá; sử dụng hoặc được phép sử dụng cơ sở vật chất của mình để
phục vụ cho việc BĐG (bang Florida, Hoa Kỳ). Công ty hợp danh hoặc công ty đối
vốn khi được Chủ tịch cơ quan quản lý hoạt động BĐG (Canada).
Ở Việt Nam, tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp gồm: Trung tâm dịch vụ bán
ĐGTS, doanh nghiệp bán ĐGTS, doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề có kinh
doanh dịch vụ bán ĐGTS, Hội đồng bán đấu giá tài sản cấp huyện và Hội đồng bán
đấu giá tài sản trong trường hợp đặc biệt. Trong đó, Trung tâm dịch vụ bán ĐGTS
là đơn vị sự nghiệp có thu, có trụ sở, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản
riêng do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết
định thành lập; doanh nghiệp bán ĐGTS đăng ký hoạt động theo luật doanh nghiệp
và được BĐG hầu hết các loại tài sản như Trung tâm dịch vụ bán ĐGTS. Hội đồng
bán đấu giá tài sản cấp huyện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định
thành lập để bán đấu giá tài sản là bị tịch thu theo quy định của pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính, tuy nhiên hình thức này đã được bãi bỏ theo quy định tại điểm d
Khoản 2 điều 39 của Nghị định số 29/2014/NĐ-CP ngày 10/4/2014 quy định về
thẩm quyền, thủ tục xác lập quyền sở hữu của Nhà nước về tài sản và quản lý, xử lý
tài sản được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước. Đối với Hội đồng bán đấu giá tài
sản trong trường hợp đặc biệt được thành lập để bán đấu tài sản Nhà nước, tài sản là
quyền sử dụng đất có giá trị lớn, phức tạp hoặc trong trường hợp không thuê được
tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp thực hiện việc bán đấu giá.
15
Ngoài ra, Tổ chức phát triển quỹ đất cũng có chức năng tổ chức đấu giá tài
sản. Bên cạnh chức năng tạo lập, phát triển, quản lý, khai thác quỹ đất; tổ chức thực
hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân…Tổ chức phát triển quỹ đất có nhiệm vụ tổ
chức thực hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất
hoặc cho thuê đất.
1.2.7.3. Đấu giá viên
Nhìn chung luật các nước và ở Việt Nam sử dụng thuật ngữ “Đấu giá viên”
đang làm việc tại các tổ chức hành nghề đấu giá để chỉ người điều hành cuộc bán
đấu giá, nhưng ở Nhật Bản và Pháp quy định chấp hành viên, công chứng viên, thừa
pháp lại cũng có thể điều hành phiên bán đấu giá. Do nghề đấu giá đòi hỏi cần có
kiến thức, kỹ năng tổng hợp về pháp luật, tài chính, xã hội và thường xuyên phải cọ
sát với thực tiễn, đặc biệt là kỹ năng điều hành cuộc đấu giá. Nên một người muốn
trở thành ĐGV phải là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam tuân thủ pháp
luật, có phẩm chất đạo đức tốt, tốt nghiệp đại học ngành luật hoặc ngành kinh tế, đã
qua khóa đạo nghề đầu giá (trừ những người được miễn đào tạo) được cấp Chứng
chỉ hành nghề đấu giá và ĐGV phải làm việc thường xuyên tại một tổ chức bán đấu
giá chuyên nghiệp. Đấu giá viên là chủ thể rất quan trọng trong hoạt động đấu giá,
nên pháp luật quy định mọi cuộc bán đấu giá đều phải do ĐGV điều hành theo đúng
trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản quy định; phải đảm bảo công khai, khách quan,
vô tư trong đấu giá; có quyền truất quyền tham gia đấu giá của người có hành vi vi
phạm; nếu gây thiệt hại do lỗi của mình là phải bồi thường. Bộ Tư pháp có Quyết
định số 1076/QĐ-BTP ngày 10/5/2013 ban hành Đề án “Phát triển và tăng cường
năng lực đội ngũ đấu giá viên giai đoạn 2013-2015, định hướng đến năm 2020”.
Tuy nhiên, do Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định điều kiện để trở thành
đấu giá viên chỉ cần tốt nghiệp đại học ngành luật hoặc ngành kinh tế, đã qua đào
tạo nghề đấu giá 03 tháng, trừ trường hợp được miễn đào tạo so với yêu cầu của
thực tiễn và pháp luật ở một số nước trên thế giới thì điều kiện để trở thành đấu giá
viên ở nước ta còn đơn giản như chưa trải qua thời gian tập sự hành nghề, có nơi
còn phải qua kỳ thi tuyển của Hiệp hội đấu giá viên (Mỹ, Pháp…) thì tại Việt Nam
pháp luật hiện hành chưa có quy định này.
1.2.7.4. Người tham gia đấu giá
Người tham gia đấu giá là tổ chức, cá nhân có nhu cầu tham gia đấu giá. Đối
với các tổ chức tham gia đấu giá là pháp nhân thì các chủ thể này tham gia với tư
16
cách là người đại diện (đại diện theo pháp luật, theo uỷ quyền). Người đại diện xác
lập, thực hiện hợp đồng bán đấu giá nhân danh người được đại diện. Các quyền,
nghĩa vụ do người đại diện xác lập làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân.
Tuy nhiên, pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của pháp nhân. Đối với cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự để có thể tự mình
xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, đồng thời phải tự chịu
trách nhiệm trong giao dịch đó. Ngoài ra, để cho cuộc đấu giá khách quan, trung
thực, tại điều 30 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định rõ những người không được
tham gia đấu giá nhằm đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của người bán tài sản
cũng như những người tham gia đấu giá khác.
1.2.7.5. Cơ quan, đơn vị giám sát việc đấu giá
Để giám sát việc tuân thủ pháp luật về đấu giá, theo Điều 53 Nghị định số
17/2010/NĐ-CP: Sở Tư pháp giúp UBND tỉnhkiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm
về tổ chức, hoạt động bán đấu giá tài sản trong phạm vi địa phương theo thẩm
quyền. Mặt khác, Sở Tư pháp thực hiện việc lập danh sách ĐGV; phối hợp với Sở
Kế hoạch và Đầu tư rà soát, theo dõi và cập nhật thông tin liên quan đến các doanh
nghiệp bán đấu giá tài sản tại địa phương; công bố danh sách, cập nhật theo định kỳ
hàng quý danh sách Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản, doanh nghiệp bán đấu
giá tài sản, chi nhánh của doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, danh sách ĐGV trên địa
bàn tỉnhtrên trang thông tin điện tử của tỉnh và của Sở Tư pháp để các tổ chức, cá
nhân biết và liên hệ. Theo dõi, phát hiện và gửi văn bản đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi
Chứng chỉ hành nghề đấu giá theo quy định. Cùng với Sở Kế hoạch và Đầu tư, các
sở, ngành có liên quan thực hiện kiểm tra về tổ chức, hoạt động bán đấu giá tài sản
theo định kỳ, kiểm tra đột xuất trong trường hợp cần thiết hoặc theo yêu cầu của Bộ
Tư pháp, UBND tỉnh13. Bên cạnh đó, đơn vị tổ chức thực hiện việc đấu giá quyền sử
dụng đất (Tổ chức Phát triển quỹ đất) có trách nhiệm cử đại diện tham dự, giám sát
việc thực hiện cuộc bán đấu giá quyền sử dụng đất. Tùy từng trường hợp cụ thể, đơn vị
tổ chức thực hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất phối hợp với đơn vị thực hiện cuộc
bán đấu giá mời đại diện cơ quan tài nguyên và môi trường, tư pháp, tài chính, chính
13 Điều 19 Thông tư số 23/2010/TT-BTP ngày 6/12/2010 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản.
17
quyền địa phương nơi có đất bán đấu giá và đại diện tổ chức, cá nhân khác có liên quan
đến tham dự, giám sát thực hiện cuộc bán đấu giá quyền sử dụng đất14.
1.3. Các loại tài sản bán đấu giá
Theo Điều 451 BLDS năm 2015: “Tài sản có thể được đem bán đấu giá theo
ý chí của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật. Tài sản thuộc sở hữu chung
đem bán đấu giá phải có sự đồng ý của tất cả các chủ sở hữu chung, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Tại khoản 2 Điều 1 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP tài sản bắt buộc bán đấu
giá bao gồm:
“a) Tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án;
b) Tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ
nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
c) Tài sản bảo đảm trong trường hợp pháp luật về giao dịch bảo đảm quy
định phải xử lý bằng bán đấu giá;
d) Tài sản nhà nước được xử lý bằng bán đấu giá theo quy định của pháp
luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản là quyền sử dụng đất trong
trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất được bán
đấu giá theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền…”.
Ngoài ra tài sản của cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu cũng được bán đấu
giá.
1.4. Chế tài xử lý các hành vi vi phạm trong tổ chức và hoạt động bán đấu giá
tài sản15
Hầu hết các hành vi vi phạm về tổ chức và hoạt động đấu giá cơ bản đều có
chế tài để xử lý cụ thể như:
– Không lập biên bản hoặc ghi biên bản không đầy đủ chi tiết diễn biến của
phiên đấu giá; không ghi kết quả cuộc bán đấu giá vào sổ đăng ký bán đấu giá tài
sản Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.
– Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi: cho phép người không được tham gia đấu giá tài sản mà tham gia cuộc bán
14Điều 11 về “Giám sát thực hiện cuộc bán đấu giá quyền sử dụng đất” Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-
BTNMT-BTP ngày 4/4/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Tư pháp quy định việc tổ chức thực hiện
đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất.
15 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã,
18
đấu giá (kèm theo hủy kết quả đấu giá);Cản trở, gây khó khăn đối với người tham
gia đấu giá trong quá trình bán đấu giá tài sản;Điều hành cuộc bán đấu giá không
đúng trình tự;Chống đối, cản trở việc niêm yết, thông báo bán đấu giá tài sản.
– Tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề đấu giá 12 tháng đối với đấu giá
viên có một trong các hành vi: Lập danh sách khống về người đăng ký mua tài sản
bán đấu giá, lập hồ sơ khống, lập hồ sơ sai sự thật;Thông đồng, dìm giá trong hoạt
động bán đấu giá tài sản.
b) Về hành vi vi phạm quy định về người tham gia đấu giá tài sản
– Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi gian lận
về điều kiện tham gia đấu giá tài sản kèm theo hủy kết quả đấu giá
– Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi thông
đồng, dìm giá trong quá trình tham gia đấu giá kèm theo hủy kết quả đấu giá
c)Đối với hành vi vi phạm quy định về tổ chức hoạt động bán đấu giá tài sản
– Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi: Thu phí, tiền đặt trước, chi phí dịch vụ bán đấu giá, các khoản tiền khác
không đúng quy định; không bảo quản tài sản bán đấu giá đúng quy định khi được
giao…
– Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi: Thực hiện không đúng quy định về việc niêm yết, thông báo bán đấu giá tài
sản, xem tài sản bán đấu giá;Không niêm yết; không thông báo việc bán đấu giá tài
sản; không tổ chức để người tham gia đấu giá được xem tài sản bán đấu giá; Cử
người không phải là đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản; Thẩm định giá
và bán đấu giá đối với cùng một tài sản (kèm theo hủy kết quả đấu giá); Không
trưng bày tài sản bán đấu giá, hạn chế việc xem tài sản bán đấu giá, hồ sơ tài sản
bán đấu giá trước ngày mở cuộc bán đấu giá tài sản;Không ban hành nội quy, quy
chế bán đấu giá tài sản…
Ngoài xử lý hành chính, một số hành vi vi phạm như: Lập danh sách khống
về người đăng ký mua tài sản bán đấu giá;Lập hồ sơ khống, hồ sơ giả tham gia hoạt
động bán đấu giá tài sản; Thông đồng dìm giá hoặc nâng giá trong hoạt động bán
đấu giá tài sảncó thể bị truy trách nhiệm hình sự16
16 Điều 218 về “Tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản” Bộ luật hình sự 2015.
19
1.5. Khái lược quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản
1.5.1. Giai đoạn trước năm 1995
Đấu giá là một trong những hình thức mua bán tài sản phổ biến trong nền kinh
tế thị trường. Tại nhiều nước trên thế giới, hoạt động đấu giá tài sản đã có lịch sử hình
thành và phát triển hàng trăm năm. Ở nước ta, việc đấu giá tài sản do các hỗ giá viên
thực hiện đã hình thành và tồn tại trong thời kỳ Pháp thuộc17. Sau khi Cách mạng tháng
Tám thành công, chức danh hỗ giá viên tiếp tục được quy định trong Nghị định số 37
ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp18 và việc đấu giá tài sản trong thời kỳ này tạm
thời được giữ nguyên theo các quy định của thời kỳ Pháp thuộc19. Trong giai đoạn tiếp
theo, hoạt động đấu giá tài sản chủ yếu liên quan đến việc phát mại tài sản để thi hành
án, được quy định tại Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 quy định về việc phát mại
tài sản theo lệnh của Tòa án và Thông tư 04-NCPL ngày 14/4/1966 của Tòa án nhân
dân Tối cao quy định về việc Tòa án kê biên, phát mại tài sản để THA. Sau khi đất
nước thống nhất, Nhà nước ta đã xóa bỏ hệ thống pháp luật của chế độ cũ, từng
bước xây dựng hệ thống pháp luật mới. Tuy nhiên các văn bản về bán đấu giá tài
sản mang tính chất đơn lẻ và được xử lý tùy thuộc vào tình hình cụ thể mà không có
tính hệ thống. Pháp luật về đấu giá tài sản thời kỳ này chỉ tập trung chủ yếu vào việc
xử lý tài sản THA và các tài sản xử lý theo quyết định hành chính của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền mà không có một khuôn khổ pháp lý chung cho hoạt động đấu
giá, cho nên chỉ có hướng dẫn xử lý TSĐG cho từng vụ việc cụ thể. Vì không có
khuôn khổ pháp lý chung cho hoạt động đấu giá nên cũng không hình thành các tổ
chức BĐG chuyên nghiệp. Ngoài cơ quan THA, việc tổ chức đấu giá thường do các
cơ quan hành chính thực hiện theo cơ chế hội đồng liên ngành. Tổ chức đấu giá tài
sản trong lĩnh vực dân sự, thương mại thông thường hầu như không được pháp luật
quan tâm đến.
17Chiếu chỉ Sắc lệnh ngày 02 tháng 9 năm 1935 được bổ khuyết bởi các sắc lệnh ngày 6 tháng 12 năm 1936,
12 tháng 5 năm 1937, 07 tháng 4 năm 1938 và 4 tháng 5 năm 1938 quy định thể lệ về hỗ giá viên; Chiếu chỉ
Nghị định ngày 02 tháng 8 năm 1933 được sửa đổi do Nghị định ngày 31 tháng 01 năm 1934 ấn định tiền lệ
phí về việc bán đấu giá ở phòng đấu giá
18Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp quy định Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm soạn thảo và
tổ chức thi hành các đạo luật về quyền tự do, dân chủ cá nhân, về dân sự, thương sự, hình sự, luật sư, đại tụng
viên, thừa phát lại…trong đó có hỗ giá viên
19Nghị định số 83-TP/NĐ ngày 27/02/1946 của Bộ Tư pháp quy định những luật lệ hiện hành về hỗ giá viên
tạm thời giữ nguyên như cũ.