BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SỰ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
_______________
Phạm Nguyễn Lan Phương
QUAN HỆ CHA MẸ
VỚI CON TUỔI THIẾU NIÊN
THỊ XÃ DĨ AN TỈNH BÌNH DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SỰ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
_______________
Phạm Nguyễn Lan Phương
QUAN HỆ CHA MẸ
VỚI CON TUỔI THIẾU NIÊN
THỊ XÃ DĨ AN TỈNH BÌNH DƯƠNG
Chuyên ngành : Tâm Lý Học
Mã số
: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRƯƠNG CÔNG THANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các
công trình khác.
Tác giả luận văn
Phạm Nguyễn Lan Phương
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trường Đại học Sư
phạm Tp.HCM và đặc biệt là quý thầy cô khoa Tâm lý – Giáo dục đã nhiệt
tình giảng dạy và tạo điều kiện cho chúng tôi học tập và nghiên cứu.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn khoa học –
TS. Trương Công Thanh đã đồng hành với tôi trong suốt quá trình thực hiện
nghiên cứu đề tài.
Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Trưởng phòng Giáo dục
thị xã Dĩ An, Ban giám hiệu, quý thầy cô, cha mẹ của học sinh và học sinh
trường Trung học cơ sở Võ Trường Toản đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn
thành Luận văn này.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………. 1
Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUAN HỆ CHA MẸ VỚI CON TUỔI
THIẾU NIÊN ……………………………………………………………………………………… 5
1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề …………………………………………………………… 5
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
………………………………………………………… 5
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước ………………………………………………………… 9
1.2. Quan hệ và quan hệ cha mẹ với con …………………………………………….. 13
1.2.1. Khái niệm quan hệ ……………………………………………………………….. 13
1.2.2. Quan hệ cha mẹ với con………………………………………………………… 16
1.3. Quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên ……………………………………….. 19
1.3.1. Đặc trưng quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên ……………………. 19
1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên 23
1.3.2.1. Những yếu tố thuộc về học sinh ……………………………………….. 23
1.3.2.2. Những yếu tố thuộc về cha mẹ …………………………………………. 30
1.3.3. Các kiểu quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên ……………………… 33
1.4. Những tình huống biểu hiện quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên .. 49
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ……………………………………………………………………. 51
Chương 2 THỰC TRẠNG QUAN HỆ CHA MẸ VỚI CON TUỔI
THIẾU NIÊN ……………………………………………………………………………………. 52
2.1. Mẫu nghiên cứu ………………………………………………………………………… 52
2.1.1. Đôi nét về trường Trung học cơ sở Võ Trường Toản ……………….. 52
2.1.2. Mẫu nghiên cứu …………………………………………………………………… 53
2.2. Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
…………………………… 54
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn …………………………………………. 54
2.2.1.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi …………………………………. 54
2.2.1.2. Phương pháp phỏng vấn ………………………………………………….. 57
2.3. Kết quả nghiên cứu ……………………………………………………………………. 58
2.3.1. Nhận thức của học sinh và cha mẹ học sinh về cách ứng xử của cha
mẹ với con tuổi thiếu niên …………………………………………………….. 58
2.3.2. Thực trạng quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên ………………….. 65
2.3.2.1. Quan hệ cha mẹ với con qua một số tình huống ứng xử …….. 65
2.3.2.2. Quan hệ cha mẹ với con qua đánh giá của học sinh và tự đánh
giá của cha mẹ học sinh …………………………………………………. 87
2.3.2.3. Quan hệ cha mẹ với con qua ý kiến của học sinh và cha mẹ
học sinh về sự cần thiết thay đổi cách ứng xử của cha mẹ đối
với con ………………………………………………………………………… 92
2.3.3. Ý kiến của cha mẹ học sinh về ảnh hưởng của quan hệ cha mẹ với
con đến sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ tuổi thiếu niên và
những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên
…………………………………………………………………………………………… 96
2.3.3.1. Ý kiến của cha mẹ học sinh về ảnh hưởng của quan hệ cha mẹ
với con đến sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ tuổi thiếu
niên
……………………………………………………………………………… 96
2.3.3.2. Ý kiến của cha mẹ học sinh về những yếu tố ảnh hưởng đến
quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên ……………………………. 97
2.3.4. Một số biện pháp biện pháp tác động vào cha mẹ và học sinh …. 100
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ………………………………………………………………….. 109
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ………………………………………………………….. 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………….. 117
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HS
:
Học sinh
TN
:
Thiếu niên
QH
: Quan hệ
ƯX
: Ứng xử
QHCM-C
: Quan hệ cha mẹ với con
CMHS
: Cha hoặc mẹ của học sinh
ĐTB
: Điểm trung bình
ĐLC
: Độ lệch chuẩn
Nxb
: Nhà xuất bản
PL
: Phụ lục
N
: Tần số
%
: Tỷ lệ phần trăm
HN : Hà Nội
Tp. HCM :
Thành phố Hồ Chí Minh
Tr.
: Trang
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 : Quan điểm của HS và CMHS về cách ƯX của cha mẹ với
con tuổi TN ……………………………………………………………………. 58
Bảng 2.2 : Quan điểm của HS về cách ƯX của cha mẹ với con tuổi TN
(So sánh theo giới tính)
……………………………………………………. 62
Bảng 2.3 : Quan điểm của HS về cách ƯX của cha mẹ với con tuổi TN
(So sánh theo khối lớp) ……………………………………………………. 63
Bảng 2.4 : Quan điểm của CMHS về cách ƯX của cha mẹ với con tuổi
TN (So sánh theo quan hệ với con) …………………………………… 63
Bảng 2.5 : Quan điểm của CMHS về cách ƯX của cha mẹ với con tuổi
TN (So sánh theo CMHS có con trai hay con gái)
………………. 64
Bảng 2.6 : Quan điểm của CMHS về cách ƯX của cha mẹ với con tuổi
TN (So sánh theo khối lớp học của con) ……………………………. 64
Bảng 2.7a : Kiểu QH cha mẹ với con tuổi TN
……………………………………… 65
Bảng 2.7b : Cách ƯX của cha mẹ đối với việc học tập của con
…………….. 67
Bảng 2.7c : Cách ƯX của cha mẹ đối với quan hệ bạn bè của con …………. 69
Bảng 2.7d : Cách ƯX của cha mẹ đối với những vấn đề thuộc tâm tư,
tình cảm của con …………………………………………………………….. 73
Bảng 2.7e : Cách ƯX của cha mẹ đối với những vấn đề thường gặp
của con ………………………………………………………………………….. 78
Bảng 2.7f : Cách ƯX của cha mẹ trong các cuộc trò chuyện với con
……… 79
Bảng 2.8 : Kiểu quan QH cha mẹ với con (So sánh theo giới tính
của HS)………………………………………………………………………….. 82
Bảng 2.9 : Kiểu QH cha mẹ với con (So sánh theo khối lớp của HS) ……. 83
Bảng 2.10 : Kiểu QH cha mẹ với con (So sánh theo quan hệ của cha mẹ
với con) …………………………………………………………………………. 84
Bảng 2.11 : Kiểu QH cha mẹ với con (So sánh theo CMHS có con trai
hay con gái) …………………………………………………………………… 85
Bảng 2.12 : Kiểu QH cha mẹ với con (So sánh theo khối lớp học
của con)
…………………………………………………………………………. 85
Bảng 2.13 : Đánh giá của HS về cha mẹ và tự đánh giá của CMHS về
bản thân
…………………………………………………………………………. 88
Bảng 2.14 : Ý kiến của HS và CMHS về sự cần thiết phải thay đổi cách
ƯX của cha mẹ đối với con tuổi TN
………………………………….. 93
Bảng 2.15 : Ý kiến của CMHS về ảnh hưởng của QHCM-C đến sự hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ…………………………………. 96
Bảng 2.16 : Ý kiến CMHS về những yếu tố có ảnh hưởng đến
QHCM-C ………………………………………………………………………. 98
Bảng 2.17 : Ý kiến của CMHS về việc tham dự những lớp học để trang
bị thêm kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng ƯX trong
QHCM-C dành cho các bậc làm cha, làm mẹ ………………….. 102
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 : Kiểu QH cha mẹ với con tuổi TN ……………………………………………
66
Biểu đồ 2.2 : Đánh giá của HS về cha mẹ của mình và tự đánh giá của CMHS
về bản thân …………………………………………………………………………..
89
Biểu đồ 2.3 : Ý kiến của HS và CMHS về sự cần thiết phải thay đổi cách ƯX
của cha mẹ đối với con tuổi TN
………………………………………………
94
Biểu đồ 2.4 : Ý kiến của CMHS về tầm quan trọng của QHCM-C đến sự hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ tuổi TN …………………………..
96
Biểu đồ 2.5 : Những yếu tố (thuộc về cha mẹ) có ảnh hưởng QHCM-C
………….
99
Biểu đồ 2.6 : Ý kiến của CMHS về việc tham dự những lớp học để trang bị
thêm kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng ƯX trong QHCM-C
dành cho các bậc làm cha, làm mẹ
…………………………………………
102
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật Hôn nhân và Gia đình khẳng định “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền
thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp
pháp của con; tôn trọng ý kiến con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con
phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu
thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội…” (Điều 34: Nghĩa vụ và
quyền của cha mẹ). Điều đó cho thấy gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển nhân cách của trẻ. Trong gia đình, cha mẹ có ảnh hưởng
lớn đến con thông qua nhiều yếu tố như lối sống của gia đình do cha mẹ tạo
ra, cách đặc điểm nhân cách của cha mẹ và đặc biệt là cách thức ứng xử của
họ đối với con… Quan hệ cha mẹ với con trong gia đình có thể làm cho trẻ
gần gũi với cha mẹ, tạo ra bầu không khí thuận lợi để trẻ tiếp thu sự dạy dỗ
của cha mẹ và phát triển, hoặc ngược lại, có thể làm cho trẻ xa lánh cha mẹ
mình, thậm chí có những hành động chống đối dẫn đến chỗ sự dạy dỗ của cha
mẹ không mang lại kết quả mong muốn.
Bước vào tuổi thiếu niên, do sự phát triển của cơ thể đã gần như người lớn
cùng với điều kiện sống và hoạt động của các em cũng có sự thay đổi nên
quan hệ của các em với người lớn có nhiều biến đổi cơ bản so với lứa tuổi
nhỏ. Trong gia đình, các em đã có những vai trò nhất định. Ngoài xã hội các
em cũng được đánh giá cao hơn. Ở nhà trường, các em được học với nhiều
thầy, nhiều bạn, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân cách, phong cách xử thế khác
nhau, các dạng hoạt động của nhà trường cũng phong phú và nhiều mặt…
Chính những điều kiện sống và hoạt động như trên, với đặc điểm sinh lí cơ
thể có nhiều biến đổi đặc biệt, tâm lý của thiếu niên có nhiều biểu hiện biến
động, phức tạp, đa dạng.
2
Trong những năm gần đây, dưới tác động của cơ chế thị trường, điều kiện
sống ở nhiều gia đình có sự cải thiện đáng kể, con có đầy đủ về vật chất
nhưng lại thiếu tình cảm, sự gần gũi và chia sẻ của cha mẹ. Thêm vào đó, xã
hội ngày càng phát triển, các em có điều kiện tiếp nhận nhiều luồng thông tin
khác nhau đã dẫn đến nhiều biến đổi trong tư tưởng, đặc trưng tâm lý, cá tính
của các em, nhưng nhiều bậc cha mẹ đã không thể thích ứng được với sự phát
triển của thiếu niên đã dẫn đến chỗ không ít cha mẹ đã hoặc kỳ vọng quá cao,
hoặc can thiệp quá sâu, hoặc nuông chiều quá mức đối với trẻ …. Những sai
lầm và thất bại trong quan hệ cha mẹ với con thậm chí sẽ khiến con sa lầy vào
con đường tội lỗi, những bi kịch gia đình vì thế mà thường xuyên xảy ra.
Các nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng, quan hệ giữa cha mẹ với
con sẽ ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài đối với sự hình thành nhân cách của trẻ. Và
tất nhiên, điều này sẽ có tác động mạnh tới nhà trường và xã hội. Vậy, làm
cách nào để xóa bỏ những khoảng cách, những mối bất hòa, thiết lập mối
quan hệ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của trẻ? Để trả lời cho câu hỏi trên,
cần có một bức tranh tổng quát về thực trạng quan hệ cha mẹ với con tuổi
thiếu niên trong giai đoạn hiện nay để có thể đưa ra những giải pháp kịp thời
và thích hợp xây dựng quan hệ này.
Quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên đã và đang được nhiều tác giả
trong nước và ngoài nước nghiên cứu theo những góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, công trình nghiên cứu về quan hệ cha mẹ với con xét theo góc độ so
sánh, đối chiếu đánh giá của con và tự đánh giá của cha mẹ về quan hệ cha
mẹ với con vẫn còn hạn chế. Và hiện nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên
cứu về quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên trên địa bàn thị xã Dĩ An – địa
phương đang có những thay đổi lớn và nhanh về kinh tế – xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn thực hiện nghiên cứu đề tài:
“Quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương”
3
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên và những yếu tố ảnh
hưởng. Đề xuất một số biện pháp tác động vào cha mẹ và học sinh nhằm góp
phần xây dựng quan hệ phù hợp với sự phát triển trẻ lứa tuổi này.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Cha mẹ học sinh và học sinh lớp 7, 8, 9
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
4.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Quan hệ cha mẹ với con được biểu hiện qua các kiểu QHCM-C tuổi TN
trong các khía cạnh:
– Trong các tình huống liên quan đến việc học tập, quan hệ bạn bè và
những vấn đề thường gặp ở trẻ tuổi TN (tâm tư, tình cảm…)
– Đánh giá của HS và tự đánh giá của CMHS
– Ý kiến của HS và CMHS về sự cần thiết thay đổi cách ƯX của cha mẹ
đối với con
4.2. Giới hạn về khách thể và địa bàn nghiên cứu
Cha mẹ học sinh và học sinh lớp 7, 8, 9 trường Trung học cơ sở Võ
Trường Toản thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương
5. Giả thuyết khoa học
Quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên chủ yếu được thể hiện qua hai
kiểu quan hệ: kiểu quan hệ cha mẹ – người bạn và kiểu quan hệ cha mẹ – trẻ
nhỏ. Tuy nhiên, đa số cha mẹ sử dụng kiểu quan hệ cha mẹ – người bạn trong
ứng xử với con của mình.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
6.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
6.2. Khảo sát thực trạng quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên và đề xuất
một số biện pháp tác động vào cha mẹ và học sinh nhằm góp phần xây dựng
mối quan hệ phù hợp với sự phát triển trẻ lứa tuổi này.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
– Mục đích: Hình thành khung lý luận cho đề tài nghiên cứu
– Nội dung: Thu thập, tổng hợp và phân tích những tài liệu liên quan đến
đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
– Mục đích: Khảo sát thực trạng QHCM-C tuổi TN và những yếu tố ảnh
hưởng
– Khách thể: Học sinh lớp 7, 8, 9 và cha mẹ của các em
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
– Mục đích: thu thập thêm thông tin về quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu
niên đồng thời nghiên cứu sâu một số trường hợp được lựa chọn theo những
tiêu chí nhất định
– Hình thức: Gặp gỡ, trò chuyện và trao đổi với HS và CMHS
– Khách thể: Học sinh lớp 7, 8, 9 và cha mẹ của các em
7.3. Phương pháp thống kê toán học:
– Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS for Window phiên bản 11.5
– Tính tỷ lệ phần trăm, thống kê tần số và dùng kiểm định chi bình phương
cho các biến định tính.
– Tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn và kiểm định T-test cho biến số định
lượng.
– Mức ý nghĩa thống kê: khoảng tin cậy 95%, α = 0,05
5
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
VỀ QUAN HỆ CHA MẸ VỚI CON TUỔI THIẾU NIÊN
1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Trong Tâm lý học, QHCM-C là một trong những vấn đề đã được nhiều
tác giả quan tâm nghiên cứu. Mỗi tác giả, tùy theo cách tiếp cận của mình, đã
nghiên cứu và phân chia QHCM-C con theo các kiểu loại khác nhau.
Đầu tiên, có thể đề cập đến nghiên cứu xuyên văn hóa của các tác giả
Murdock và L. A. White (1969), R. P. Rohner và một vài học giả khác [2].
Những nhà nghiên cứu này đã khảo sát QHCM-C ở 186 quốc gia và trong đó
tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng của QHCM-C đến sự hình thành nhân
cách của con như một cá nhân ở những nền văn hóa khác nhau. Theo đó, các
tác giả phân loại QHCM-C con thành bốn kiểu thể hiện thái độ căn bản của
cha mẹ đối với con, đó là kiểu cha mẹ thông hiểu – quan hệ ấm áp và yêu
thương, kiểu cha mẹ ghét bỏ và hung tính, kiểu cha mẹ dửng dung và phủ
nhận và kiểu cha mẹ kiểm soát.
Trong công trình nghiên cứu về QHCM-C lứa tuổi vị thành niên (1971,
1991), Diana Baumrind nêu ra bốn kiểu cha mẹ có liên quan với những góc
độ hành vi xã hội khác nhau của trẻ vị thành niên. Đó là các kiểu độc đoán, uy
quyền, thờ ơ và nuông chiều. [34]
Từ một cuộc điều tra hơn 1.800 bậc cha mẹ về giáo dục trẻ ở gia đình tại
Bắc Kinh trong gần 3 năm liền, tác giả Vương Cực Thịnh đã kết luận là có
đến hai phần ba gia đình trong diện khảo sát đã sử dụng biện pháp giáo dục
không thích hợp đối với con. Thông qua kết quả trắc nghiệm này, cũng như
tác giả Diana Baumrind, tác giả Vương Cực Thịnh cũng xếp QHCM-C thành
bốn kiểu nhưng với những tên gọi khác và một số đặc điểm đặc trưng cho mỗi
6
kiểu quan hệ cũng khác, tuy không đáng kể. Ông cho rằng, có thể chia thành
bốn loại cha mẹ: cha mẹ chăm sóc quá mức, cha mẹ can thiệp quá mức, cha
mẹ trừng phạt quá mức và cha mẹ dân chủ lý giải ôn hòa. Vương Cực Thịnh
cũng đã tiến hành điều tra 60 sinh viên xuất sắc của trường Đại học Bắc Kinh
và Đại học Thanh Hoa, và phát hiện ra rằng, hầu hết những sinh viên này đều
là con của những gia đình có quan hệ dân chủ ôn hòa. Ông kết luận, môi
trường gia đình dân chủ, ôn hòa chính là không gian rộng mở để con phát
triển tâm lý và nhân cách. Trong những gia đình có kiểu quan hệ này, con có
thể phát triển toàn diện và hoàn thiện cá tính dựa trên sở thích và hứng thú
của riêng mình. Đương nhiên, các bậc cha mẹ vẫn là những người đưa ra ý
kiến và chỉ đạo đối với sự trưởng thành của con họ. [dẫn theo 16]
Khác với quan điểm của Diana Baumrind và Vương Cực Thịnh, tác giả
Berger Kathleen Stassen lại cho rằng, khi tìm hiểu QHCM-C chỉ cần phân
biệt ba kiểu quan hệ cơ bản: kiểu độc đoán, kiểu nuông chiều và kiểu uy
quyền. Tương tự như Diana Baumrind, Berger Kathleen Stassen cho rằng, cha
mẹ kiểu độc đoán mong muốn con phải tuyệt đối phục tùng và tác giả cũng
cho rằng những đứa trẻ sống trong gia đình có cha mẹ độc đoán thường hay lo
lắng, thiếu tự tin và kém kỹ năng giao tiếp. Về kiểu quan hệ uy quyền, Berger
Kathleen Stassen khẳng định, khi cha mẹ áp dụng kiểu uy quyền đối với con
thì con có thể đạt được thành tích cao hơn, lòng tự trọng của con được nâng
lên và quan hệ tích cực giữa cha mẹ và con phát triển. Cuối cùng, Berger
Kathleen Stassen nhấn mạnh khuynh hướng nguy hiểm nhất chính là cha mẹ
kiểu nuông chiều, vì sống trong những gia đình có cha mẹ kiểu nuông chiều,
con thường thiếu tự tin và trầm cảm, kết quả học tập thấp và dễ có những
hành vi vi phạm pháp luật. [dẫn theo 16]
Trên cơ sở kết quả những nghiên cứu so sánh văn hóa, dễ nhận thấy rằng,
ở nhiều nền văn hóa khác nhau cũng tồn tại ba kiểu QHCM-C như Berger
7
Kathleen Stassen đã phân chia. Tuy nhiên với mỗi nền văn hóa lại có một
kiểu quan hệ nổi trội. Ví dụ, so với cha mẹ ở châu Âu và châu Mỹ nói chung,
các cha mẹ dân tộc ít người thường thiên về kiểu cha mẹ uy quyền. Ngoài ra,
những khác biệt văn hóa lối sống cũng ảnh hưởng tới việc con cảm nhận khác
nhau về các kiểu ứng xử của cha mẹ đối với chúng. Do đó, tác động của các
kiểu ứng xử đó đến sự phát triển tâm lý của con cũng sẽ khác nhau. Chẳng
hạn, so với trẻ vị thành niên ở châu Âu và châu Mỹ, những trẻ ở các nhóm
dân tộc ít người thường bị cha mẹ kiểm soát chặt chẽ trong cuộc sống hàng
ngày hơn và chúng cũng ít chịu ảnh hưởng tiêu cực của quan hệ đó hơn.
Nguyên nhân của sự khác biệt này là ở chỗ giá trị văn hóa, sự cố kết của gia
đình và uy quyền của cha mẹ khiến cho nhiều trẻ vị thành niên dân tộc ít
người thừa nhận sự nghiêm khắc của cha mẹ như là một biểu hiện của sự
quan tâm hơn là dấu hiệu của sự quản thúc. Một nguyên nhân khác có lẽ là do
các gia đình dân tộc ít người thường sống gần những vùng có tệ nạn nghiện
hút, tội phạm, bạo lực cao và trong hoàn cảnh đó cha mẹ nghiêm khắc chính
là sự đảm bảo an toàn và thường được trẻ vị thành niên cho là như vậy. [dẫn
theo 16]
Một số nhà nghiên cứu như Keith B. Magnus, Emory L. Cowen, Peter A.
Wyman, Douglas B. Fagen and Wiliam C. (1998) không đi sâu vào quan hệ
mà cho rằng, QHCM-C như thế nào phụ thuộc vào cả hai phía – cha mẹ và
con. Cho nên về phía cha mẹ, khi xem xét QHCM-C phải chú ý đề cập đến
thái độ của cha mẹ, sự quan tâm của cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ đối với
con. Theo các tác giả này, thái độ của cha mẹ đối với con tương ứng với sắc
thái tình cảm và đặc trưng của QHCM-C. Mặt tích cực của thái độ là sự ấm
áp, hỗ trợ và chấp nhận; mặt tiêu cực là thù địch và thờ ơ. Các kết quả nghiên
cứu đã chỉ ra rằng, sự ấm áp, ủng hộ và chấp nhận của cha mẹ đã khuyến
khích con thích nghi một cách có hiệu quả với những điều kiện căng thẳng
8
của cuộc sống (Maste & Coatsworh 1998; Werner & Smith, 1992; Wyman et
ai., 1991, 1992, in press) [dẫn theo 16]
Sự quan tâm của cha mẹ thể hiện qua thời gian mà họ dành cho những
hoạt động chung (nói chuyện, chơi đùa…) với con và những quan tâm của họ
đến các lĩnh vực hoạt động chính trong cuộc sống của trẻ (Grible et al., 1993).
Nghiên cứu sự quan tâm của cha mẹ đối với con, Bowlby (1988), Carlson &
Sroufe (1995) cho thấy sự quan tâm tích cực của cha mẹ củng cố sự liên kết
giữa cha mẹ với con và làm cho trẻ cảm nhận được sự an toàn và giá trị của
bản thân ở mức độ cao hơn. [dẫn theo 16]
Grolnick và Ryan (1989) đã chỉ ra rằng, sự quan tâm của cha mẹ đối với
con có liên quan đến năng lực đánh giá và kết quả học tập của trẻ. Cha mẹ
quan tâm đến con sẽ giúp trẻ đồng nhất và tiếp thu các giá trị xã hội một cách
thuận lợi. Theo Patterson (1982), sự quan tâm của cha mẹ đến con ảnh hưởng
tích cực đến sự kiểm soát và điều chỉnh hành vi của trẻ. Ngoài việc có liên
quan đến sự kiểm soát, sự quan tâm của cha mẹ đối với con còn tác động tích
cực đến năng lực xã hội của trẻ (Pulkkinen, 1982). Tuy nhiên, nếu cha mẹ
quan tâm không đúng mức sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của con.
(Grolnick Ryan, 1989; Pulkinen, 1982) [dẫn theo 16]
Kỷ luật của cha mẹ có quan hệ đến sự thích ứng của con đối với các
nguyên tắc trong gia đình. Diana Baumrind (1967, 1971) cho rằng, sự quá gò
ép của cha mẹ trong việc buộc con phải tuân thủ kỷ luật trong gia đình đã hạn
chế sự tôn trọng, tính tự trị của trẻ. Theo bà, có ba kiểu kỷ luật trong gia đình
– kiểu uy quyền, kiểu độc đoán và kiểu tự do. Quan điểm về kiểu kỷ luật uy
quyền ngược lại với kiểu độc đoán và kiểu tự do. Kỷ luật uy quyền của cha
mẹ khuyến khích tinh thần trách nhiệm xã hội, sự tự điều chỉnh, tính cá nhân
và tính độc lập của con. Ngược lại, kỷ luật độc đoán (quyền lực tuyệt đối,
trừng phạt) có ảnh hưởng một cách tiêu cực đến sự phát triển tâm lý và kết
9
quả học tập của trẻ, có khả năng dẫn trẻ đến sự hung tính. Kiểu kỷ luật tự do
(ít kiểm soát) của cha mẹ khiến cho con trở nên non nớt và có tính độc lập
thấp. [dẫn theo 16]
Các nhà Tâm lý học Liên Xô (cũ), Tiệp Khắc, Hungary qua một nghiên
cứu hợp tác giữa các nước nói trên đã cho thấy: phương thức giáo dục trong
gia đình có quan hệ trực tiếp tới việc giữ gìn và củng cố sự phát triển lành
mạnh về tâm lý, bởi vì nó có thể ảnh hưởng tích cực tới tính cách và cá tính
của trẻ. Nếu phương thức giáo dục không đúng đắn sẽ dẫn tới các khiếm
khuyết trong tính cách của trẻ (dễ kích động, tinh thần không ổn định, trầm
tính), từ đó dễ dẫn đến các trạng thái không bình thường về tâm sinh lý, về
tính cách, đây chính là nguyên nhân gây ra các chướng ngại về tâm lý. Nghiên
cứu cho thấy trong các gia đình có mô hình dân chủ trong QHCM-C, nghiêm
khắc đúng mức thì trẻ sẽ ít gặp các trục trặc trong vấn đề tâm lý; gia đình mà
cha mẹ có mô hình nghiêm khắc, chiều chuộng quá mức sẽ khiến trẻ mắc các
vấn đề về tâm lý. [32, tr. 29]
Nhìn chung, các tác giả cũng đã có những điểm khá thống nhất. Những
nghiên cứu đã cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về QHCM-C, trong đó,
các tác giả tập trung nhấn mạnh tầm quan trọng và ảnh hưởng mạnh mẽ của
QHCM-C đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, việc tìm hiểu các kiểu QHCM-C ở mọi lứa tuổi nói chung và
ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở nói riêng đã và đang được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, đa số các tác giả chỉ mới tìm hiểu hoặc
phong cách giáo dục, hoặc cách ứng xử, hoặc mâu thuẫn giữa cha mẹ và con
hoặc thái độ của cha mẹ đối với con, hoặc vai trò của gia đình (cha, mẹ và
cách thành viên khác) trong việc hình thành và phát triển nhân cách của con,
một số biện pháp cơ bản tạo quan hệ gắn bó giữa cha mẹ và con. [8, 19, 21,
10
25, 26, 33, 36]. Những nghiên cứu này thường chỉ khảo sát ở người lớn nói
chung và cha mẹ nói riêng chứ chưa có sự tìm hiểu cảm nhận của con về
chính cha mẹ của chúng.
Lê Ngọc Lân, Nguyễn Thanh Tâm (1999) cho rằng, khi xem xét QHCM-
C có thể chỉ ra hai loại quan hệ. Đó là những quan hệ sinh học và quan hệ xã
hội (giáo dục, xã hội hóa, các hành vi mang tính văn hóa). Các tác giả không
phân tích sâu từng kiểu loại quan hệ, vai trò của người cha, người mẹ đối với
con mà chủ yếu xem xét QHCM-C trên cơ sở thái độ của các bậc cha mẹ đối
với việc chăm sóc, giáo dục con trong xã hội hiện nay. [dẫn theo 16]
Cũng với nội dung quan hệ cha mẹ và con, cũng ở góc nhìn Xã hội học,
tác giả Nguyễn Ánh Tuyết có đề tài nghiên cứu “Quan hệ giữa cha mẹ và con
trong gia đình nông thôn hiện nay”. Ở đề tài này, tác giả đã hệ thống hóa một
số vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề QHCM-C trong gia đình nông thôn
hiện nay. Tìm hiểu một số biểu hiện của QHCM-C trong đời sống gia đình
nông thôn Việt Nam hiện nay trên các khía cạnh như việc quan tâm của cha
mẹ đối với việc học hành của con, định hướng nghề nghiệp, ứng xử đạo đức
giữa cha mẹ và con… trên cơ sở đó tác giả đã chỉ ra các yếu tố tác động đến
QHCM-C và đề xuất một số định hướng cơ bản nhằm đảm bảo tính liên tục
của chức năng xã hội hóa của gia đình, góp phần xây dựng gia đình nông thôn
mới ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. [39]
Cũng từ góc độ Xã hội học, tác giả Lê Văn Cảnh đã nghiên cứu “Quá
trình đô thị hóa và sự biến đổi QHCM-C trong các gia đình ngoại thành Hà
Nội”. Theo tác giả, trước những biến đổi của quá trình đô thị hoá QHCM-C
trong gia đình hiện nay có sự biến đổi theo chiều hướng tiêu cực với những
biểu hiện như: QHCM-C ngày càng trở nên lỏng lẻo, đã xuất hiện những
khoảng trống và có những dấu hiệu của sự khủng hoảng trong gia đình so với
trước đây, vai trò kiểm soát của cha mẹ đối với con đã ngày càng giảm đi,
11
đồng thời quỹ thời gian mà cha mẹ và con dành cho nhau bị suy giảm, những
mâu thuẫn giữa cha mẹ và con về ứng xử, lối sống, quan điểm sống, về kinh
tế đang đang có xu hướng gia tăng, mức độ vâng lời và sự chia sẻ của con đối
với cha mẹ ít đi so với trước đây… Cũng theo tác giả, nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến sự biến đổi trong QHCM-C là do sự tác động của các nhân tố về điều
kiện kinh tế gia đình, sự thay đổi trong quan niệm sống, sự sai lệch các giá trị
chuẩn mực trong gia đình… tất cả được biểu hiện qua sự xuống cấp của
những nguyên tắc đạo đức, thói quen sinh hoạt và nề nếp của cá nhân trong
gia đình. Những giá trị đạo đức truyền thống đang bị xói mòn mạnh mẽ đã
làm suy giảm chức năng của gia đình và sự đa dạng của cấu trúc gia đình đã
tạo nên sự phân hoá rõ rệt của các gia đình. Và đây như là những hệ quả tất
yếu mà quá trình đô thị hoá mang lại. [5]
Tác giả Lưu Song Hà đã nghiên cứu QHCM-C từ góc độ Tâm lý học qua
công trình “Cách thức cha mẹ quan hệ với con và hành vi lệch chuẩn trẻ”.
Mục đích của đề tài này là hướng đến làm rõ những hành vi lệch chuẩn ở học
sinh trung học cơ sở, kiểu QHCM-C lứa tuổi này và mối tương quan giữa
chúng về hai mặt: lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu,
tác giả đã đề xuất một số biện pháp tác động tâm lý nhằm tham vấn cho cha
mẹ cải thiện quan hệ với con theo hướng tin tưởng – bình đẳng để ngăn chặn
và hạn chế những hành vi lệch chuẩn ở con lứa tuổi học sinh. Về mặt lý luận,
từ góc độ Tâm lý học, tác giả đã phân tích, hệ thống hóa những lý luận về
hành vi lệch chuẩn, kiểu QHCM-C của học sinh trung học cơ sở, kiểu
QHCM-C là nhân tố ảnh hưởng nhất định đến hành vi lệch chuẩn của học
sinh trung học cơ sở và kiểu quan hệ bàng quan – xa cách của cha mẹ đến trẻ
có tác động tiêu cực mạnh nhất đến mức độ vi phạm chuẩn mực hành vi của
con lứa tuổi này. Về mặt thực tiễn, những kết quả nghiên cứu thu được từ
cuộc khảo sát này đã chỉ ra rằng, trong nhiều gia đình có con ở độ tuổi học
12
sinh trung học cơ sở cùng song song tồn tại ba kiểu quan hệ: tin tưởng – bình
đẳng, bàng quan – xa cách và nghiêm khắc – cứng nhắc. Tuy nhiên các gia
đình này đã sử dụng kiểu quan hệ tin tưởng – bình đẳng đối với con thường
xuyên hơn, còn bàng quan – xa cách là kiểu quan hệ mà cha mẹ ít dùng nhất
[16].
Điểm đặc biệt trong công trình nghiên cứu của tác giả Lưu Song Hà so với
các công trình nghiên cứu của các tác giá khác (trong nước và ngoài nước) là
tác giả Lưu Song Hà đã không những xác định được kiểu QHCM-C mà còn
so sánh, đánh giá của con và đánh giá của cha mẹ về mối quan hệ này. Thông
qua đó, tác giả đã phát hiện ra những khác biệt đáng kể trong đánh giá của cha
mẹ và của con về kiểu QHCM-C. Một số con trong các gia đình có kiểu quan
hệ nào đó nổi trội đã không có cách nhìn nhận tương đồng với cha mẹ của các
em. Qua đó cho thấy cha mẹ và con tuổi TN có những khoảng cách và những
cách hiểu khác nhau về QH giữa người với người nói chung và QHCM-C nói
riêng. Điều này dễ dàng tạo ra tình trạng thiếu hiểu biết lẫn nhau cũng như
thiếu đồng cảm giữa cha mẹ và con. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của mình,
tác giả Lưu Song Hà không chỉ đề cập đến các kiểu QHCM-C mà còn đề cập
đến hành vi lệch chuẩn của trẻ lứa tuổi TN. Trong đó, hướng tập trung nghiên
cứu chính của tác giả không phải là QHCM-C lứa tuổi TN mà là nghiên cứu
mối tương quan giữa cách thức cha mẹ quan hệ với con và hành vi lệch chuẩn
của trẻ.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước và ngoài
nước đã phát họa được bức tranh khái quát về QHCM-C tuổi thiếu niên. Từ
nhiều góc nhìn, các tác giả đã đưa ra được nhiều kiểu, thái độ, loại hình
QHCM-C, đồng thời cũng chỉ ra được những nguyên nhân có ảnh hưởng đến
QH đó và sự tác động của QH đó với sự hình thành và phát triển nhân cách
của trẻ. Trong các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến
13
nghiên cứu QHCM-C tuổi TN dưới góc độ Tâm lý học của tác giả Lưu Song
Hà. Mặc dù mục đích chính của nghiên cứu là tìm hiểu mối tương quan của
cách thức QHCM-C và hành vi lệch chuẩn của trẻ, nhưng tác giả đã chỉ ra
được kiểu QHCM-C trong giai đoạn hiện nay, đồng thời đi vào tìm hiểu
những trải nghiệm cảm xúc cũng như mong muốn của thiếu niên trong cách
thức ƯX của cha mẹ đối với chúng. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này tác giả
chưa đi sâu tìm hiểu quan điểm của cha mẹ về cách thức ƯX của họ với con
và những yếu tố nào thuộc về cha mẹ có ảnh hưởng đến QHCM-C.
Trong đề tài “Quan hệ cha mẹ với con lứa tuổi thiếu niên thị xã Dĩ An tỉnh
Bình Dương”, chúng tôi sẽ kế thừa một phần trong đề tài “Cách thức cha mẹ
quan hệ với con và hành vi lệch chuẩn của trẻ” ở phần nghiên cứu về QHCM-
C tuổi TN, đồng thời sẽ nghiên cứu sâu hơn vấn đề này thông qua việc tìm
hiểu những yếu tố thuộc về cha mẹ có ảnh hưởng đến QHCM-C.
1.2. Quan hệ và quan hệ cha mẹ với con
1.2.1. Khái niệm quan hệ
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, tác giả Nguyễn Như Ý đã đưa ra khái niệm
quan hệ là “Sự gắn bó chặt chẽ, có tác động qua lại lẫn nhau”.[44, tr. 1361]
Quan hệ được nghiên cứu trong nhiều khoa học khác nhau, và trong đề tài
nghiên cứu này chúng tôi chỉ quan tâm đến quan hệ giữa con người với con
người, do đó chúng tôi sẽ tìm hiểu khái niệm này trong những khoa học đề
cập đến quan hệ giữa người với người.
Xã hội học nghiên cứu các quan hệ xã hội, những quan hệ này là sự tương
tác và cấu trúc có ảnh hưởng tồn tại giữa người với người hay giữa người với
nhóm. Đó có thể là quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế, quan hệ tư tưởng, quan
hệ ngoài xã hội… đặc trưng của các quan hệ này là ở đó không chỉ đơn thuần
các cá nhân có quan hệ với nhau, mà họ quan hệ với nhau với tư cách là đại
diện của những nhóm xã hội nhất định (những giai cấp, nghề nghiệp hay
14
những nhóm khác được hình thành trong quá trình phân công lao động cũng
như trong đời sống chính trị như các đảng phái chính trị…). Các quan hệ này
không dựa trên cơ sở tình cảm cá nhân đối với nhau mà dựa trên cơ sở vị trí
xã hội nhất định của mỗi cá nhân, có thể nói chúng được quy định bởi những
yếu tố khách quan, bản chất của chúng không ở sự tác động qua lại giữa các
cá nhân cụ thể, mà ở sự tác động qua lại giữa các vị trí xã hội cụ thể. Nói cách
khác, chủ thể của các mối quan hệ xã hội không phải là các cá nhân mà là xã
hội. Về nguyên tắc, quan hệ này được phân biệt theo thời gian (ngắn hạn, dài
hạn), nội dung (tính hấp dẫn, hung bạo, vị tha, phân chia, quyền lực), hậu quả
(tối thiểu, tối đa), cường độ (phạm vi lớn, nhỏ), mức độ cam kết (tự nguyện,
không tự nguyện) và số người liên quan (hai hay nhiều người).
Trong lĩnh vực quản lý xã hội, quan hệ biểu thị các mối liên hệ và các sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa những yếu tố của một hệ thống xác định; sự định
hướng tình cảm – ý chí của chủ thể vào các hiện tượng bao quanh; sự biểu thị
lập trường của chủ thể, một thái độ xác định của chủ thể.”[10, tr. 174]
Những nội dung trình bày ở trên cho thấy, quan hệ là một khái niệm rộng,
được biểu hiện ở sự phụ thuộc và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa người với
người, hay giữa người với nhóm người trong xã hội và được quy định một
cách khách quan. Tuy nhiên, điều chúng tôi quan tâm chính là khái niệm quan
hệ xét dưới góc nhìn của Tâm lý học.
Trong thực tế, mỗi cá nhân không chỉ có một vị trí, vai trò xã hội mà cá
nhân đó có thể vừa là người cha, công nhân, thành viên của tổ chức công
đoàn, cầu thủ bóng chuyền… Tuy nhiên bản thân vị trí xã hội tự nó không
quyết định những chi tiết trong hành vi mỗi cá nhân có vị trí xã hội đó, điều
này phụ thuộc vào chỗ cá nhân đó lĩnh hội được vị trí xã hội của mình ở mức
độ nào. Về phía mình, điều này phụ thuộc vào nhiều đặc điểm tâm lý cá nhân.
Do đó, về bản chất, những QH xã hội không phải là những QH cá nhân, trong
15
thực tế, trong những biểu hiện cụ thể lại mang những sắc thái cá nhân. Trong
khi tham gia vào hệ thống các QH xã hội, các cá nhân đương nhiên tham gia
vào những tác động qua lại lẫn nhau, vào sự giao tiếp, ở đó những đặc điểm
cá nhân của họ tất yếu sẽ được thể hiện. Chính điều này là cơ sở để hình thành
trong phạm vi hệ thống các QH xã hội một dạng QH khác – QH giữa cá nhân
với cá nhân, giữa người này với người kia mà bản chất của chúng khác căn
bản với bản chất của những QH xã hội. Đó là, những QH hệ này được hình
thành dựa trên cơ sở xúc cảm, tình cảm.
Tác giả Corsini R.J. (1999), trong Từ điển Tâm lý học, cho rằng, QH
người người được xem là các tương tác giữa hai hoặc nhiều người, đặc biệt là
các mối quan hệ có ý nghĩa về mặt xã hội và cảm xúc. [dẫn theo 16, tr. 16]
Nhà tâm lý học V.G. Krưxcô (2001) cho rằng, theo nghĩa rộng, quan hệ là
thuộc tính của bất kỳ một mối liên hệ nào của con người với thế giới bên
ngoài và với những người khác: trực tiếp, gián tiếp, vật chất, tinh thần. Thông
qua QH, hệ thống nhu cầu, động cơ, hứng thú của con người được xác định.
Tóm lại, quan hệ là mối liên hệ xã hội hóa bản chất tâm lý bên trong và bên
ngoài con người, là mối liên hệ của con người với tác động bên ngoài và với ý
thức. [dẫn theo 16, tr.16]
Cũng theo góc nhìn của Tâm lý học xã hội, tác giả Nguyễn Đình Chỉnh
cho rằng: Quan hệ xã hội còn được hiểu là “quan hệ giữa người với người”.
Những QH này sẽ được diễn ra một cách hợp lý trong các điều kiện của xã
hội nhằm thực hiện một nhiệm vụ chung xác định nào đó theo vai trò của
mình. Những QH xã hội này sẽ hoàn toàn do xã hội quy định về nội dung
cũng như hình thức biểu hiện”. [6, tr. 70]
Trên đây là một số quan điểm về QH nói chung, QH giữa người với người
nói riêng. Các tác giả đã nghiên cứu nó theo những góc nhìn khác nhau, dựa
trên một số khái niệm được trình bày ở trên, chúng tôi quan niệm, xét ở góc