1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CAO HỌC KHÓA 19 – ĐÊM 1
—ooOoo—
ÑEÀ TAØI TIEÅU LUAÄN
Giaûng vieân höôùng daãn: TS. BUØI VAÊN MÖA
SV thöïc hieän: Nguyeãn Thò Kim Phöôïng
Tháng 03 năm 2010
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………………. 1
NỘI DUNG …………………………………………………………………………………………………….. 2
Phần I: Những tiền đề xuất hiện trước Mác ………………………………………………………. 2
1. Tiền đề về kinh tế – xã hội
………………………………………………………………………… 2
2. Tiền đề về lý luận
……………………………………………………………………………………. 4
3. Tiền đề về khoa học tự nhiên ……………………………………………………………………. 6
Phần II: Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học
Mác – Lênin …………………………………………………………………………………………………….. 8
1. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C. Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy
tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng
sản ………………………………………………………………………………………………………… 8
2. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử ………………………………………………………………………………………………………… 12
3. Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết học ……………… 16
4. Giai đoạn Lênin bảo vệ, hoàn thiện và tiếp tục phát triển triết học Mác………….
17
Phần III: Bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học ……………………. 19
Sự phân chia các thời kỳ trong lịch sử triết học
…………………………………………………… 19
Ý nghĩa ………………………………………………………………………………………………………….. 25
Phần IV: Vận dụng và phát triển triết học Mác – Lênin trong điều kiện thế giới ngày
nay
………………………………………………………………………………………………………………… 27
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………………………… 32
3
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát
triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, mà gắn với nó là cuộc đấu tranh
giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp
siêu hình – tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái “lôgíc nội tại khách
quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp.
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy nó
đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp cộng nhân và
nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó
đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo thế giới.
Sự ra đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch
sử phát triển triết học của nhân loại. C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa một cách có
phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học
triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để xây dựng triết
học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ và phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã
hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen
đã thực hiện trong triết học. Vì vậy em đã chọn nghiên cứu đề tài “Sự ra đời của triết
học Mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học” cho bài tiểu
luận của mình.
Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý của Thầy để em có thể
hoàn thành tốt công việc nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy.
4
NỘI DUNG
Triết học Mác – Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày
nay. Từ khi ra đời, triết học Mác – Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử
triết học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng
như hoạt động thực tiễn của con người.
Phần I
NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA SỰ RA ĐỜI TRIẾT
HỌC MÁC
Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học, là
đỉnh cao của thế giới quan duy vật, là chủ nghĩa duy vật triệt để. Chính nhận định này
mà các nhà lý luận tư sản đã quan niệm sai lầm rằng triết học Mác nói riêng và chủ
nghĩa Mác nói chung ra đời như một biệt phái, như một độc thoại và tự dành cho mình
quyền phát ngôn chân lý cuối cùng .
Trái lại, sự xuất hiện của triết học Mác là một tất yếu lịch sử một hiện tượng
hợp quy luật. Nó là kết tinh của tất cả các giá trị cao quí của tư duy, triết học văn hóa,
khoa học của lịch sử nhân loại. Đồng thời cũng dựa trên những tiền đề về kinh tế xã
hội đạt được ở thời kỳ đó. Sự ra đời của triết học Mác là cuộc cách mạng trong lịch sử
triết học, nó dựa vào những tiền đề cơ bản .
Nhìn chung, có hai nguồn gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và
nguồn gốc xã hội. Đối với triết học Mác thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều
kiện sau
1. Tiền đề về kinh tế – xã hội
1.1 Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
điều kiện cách mạng công nghiệp
5
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng công
nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã
hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc
công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng
cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội
càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất
công xã hội tăng. Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành
những cuộc đấu tranh giai cấp.
1.2 Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa
được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở
thành giai cấp bị trị thì mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản vốn mang
tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của
thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) năm 1831 tuy bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào
năm 1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX,
là phong trào cách mạng to lớn có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. Nước
Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp
cách mạng. Ở Anh và Pháp, giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị nhưng lại hoảng sợ
trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá
trình cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội
phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư
sản Pháp năm 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân
6
Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư
bản và trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai
cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học thuyết triết
học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu tranh nhanh
chóng đạt được thắng lợi.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của
họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để C. Mác và Ph. Ăngghen khái
quát xây dựng những quan điểm triết học. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là sự giải đáp
về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách
mạng.
2. Tiền đề về lý luận
Tiền đề về kinh tế – xã hội là hết sức quan trọng và cần thiết cho sự ra đời của
triết học Mác. Song nó chỉ là tiền đề khách quan, nó chỉ đặt ra cho nhu cầu lịch sử và
tạo khả năng cho sự giải quyết nhu cầu đó. Nhưng nhu cầu lịch sử không thể tự nó thực
hiện và khả năng không tự hiện thực hóa và nó cần có sự hoạt động của con người, của
nhân tố chủ thể. Chủ thể ở đây không chỉ là quần chúng nhân dân mà còn là cá nhân lỗi
lạc, có tầm trí tuệ cao, đủ sức nắm lấy và giải quyết những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến
của loài người đặt ra. C.Mác và Ph.Aêng-ghen, như Lênin nhận xét, là những cá nhân
như thế.
Triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung không phải là một trào lưu
biệt phái, nó không tách rời văn minh chung của nhân loại. Nền văn minh đó, trực tiếp
là những trào lưu tư tưởng và lý luận ở Châu Âu thế kỹ XIX: triết học cổ điển Đức (với
các đại biểu Can-tơ, Phích-tơ, Sê-linh, Hê-ghen, Phoi-ơ-bắc); kinh tế chính trị Anh (đại
biểu A. Xmít, Đ. Ri-các-đô); xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp (đại biểu Xanh Xi-
7
mông, S. Phu-ri-ê) và xã hội chủ nghĩa không tưởng Anh (R. Ôoen) được C. Mác và
Ph. Ăngghen kế thừa và phát triển một cách xuất sắc.
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Một là, triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen
và Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
C. Mác và Ph. Ăngghen đánh giá cao tư tưởng biện chứng của triết học Hêghen.
C. Mác cho rằng tính chất thần bí mà biện chứng đã mắc phải ở triết học Hêghen tuyệt
nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và
có ý thức hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêghen, phép biện
chứng bị lộn ngược đầu xuống đất; chỉ cần dựng nó lại sẽ phát hiện được cái hạt nhân
hợp lý của nó sau lớp vỏ thần bí.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những giá trị trong chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc, đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính siêu hình và những
hạn chế lịch sử của nó để xây dựng nên lý luận mới của chủ nghĩa duy vật.
Từ những giá trị của phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc, Mác và Ăngghen đã xây dựng lên học thuyết triết học mới, trong đó chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ gọi là chủ
nghĩa duy vật biện chứng, một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ
nghĩa duy vật triết học.
Hai là, việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc
là A. Xơmít và Đ. Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế
mà còn là tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết học.
Ba là, cải tạo một cách phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những
đại biểu tiêu biểu là Xanh Ximông và S. Phuriê. C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa
8
những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp (quan điểm về vai trò
của nền sản xuất trong xã hội, quan điểm về sở hữu…) và khắc phục tính không tưởng
thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của nó để xây dựng những quan điểm duy vật lịch sử.
Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội bằng cách mạng.
Vì vậy, khi tìm hiểu nguồn gốc lí luận của triết học Mác cần tìm hiểu không chỉ
trong triết học Đức mà trong cả chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và kinh tế chính trị
học Anh.
3. Tiền đề về khoa học tự nhiên
Sự ra đời của triết học Mác còn có tiền đề về khoa học tự nhiên. Khoa học này
đòi hỏi phải phương pháp nghiên cứu từ siêu hình máy móc sang phương pháp biện
chứng, nghĩa là trình bày sự phát triển của tự nhiên như một quá trình vận động, liên hệ
thống nhất.
Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng không thể
thiếu được cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự
nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp và những bất lực của phương pháp tư duy
siêu hình trong việc nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để
phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
Trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên vào đầu thế kỹ thứ XIX, C.
Mác và Ph. Ăngghen đã nói đến ba phát minh lớn có ý nghĩa đối với sự hình thành triết
học duy vật biện chứng, đó là:
định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng – cho phép vạch ra được mối liên
hệ thống nhất giữa các hình thức vận động khác nhau của thế giới vật chất
học thuyết tế bào – chứng minh cho sự thống nhất, sự phát triển từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp của thế giới sinh vật
9
thuyết tiến hóa của Đác-uyn – giải thích tính chất biện chứng của sự phát triển
phong phú, đa dạng của giống loài trong thế giới tự nhiên hữu sinh
Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những sự
vật, giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới,
vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã làm bộc lộ rõ tính
hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện chứng cổ
đại cũng như phép biện chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong tư duy nhân
loại cần phải xây dựng một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với những phát
minh của mình, khoa học đã cung cấp những tri thức để Các Mác và Ph. Ăngghen khái
quát xây dựng phép biện chứng duy vật.
Như vậy, từ những yếu tố trên có thể khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin nói
chung và triết học Mác nói riêng đã ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì nó
phản ánh đời sống thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân
mà còn vì sự phát triển hợp lôgíc của lịch sử tư tưởng nhân loại.
10
Phần II
NHỮNG GIAI ĐOẠN CHỦ YẾU TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Sự hình thành và phát triển triết học Mác – Lênin trải qua một quá trình. Quá
trình đó bao gồm các giai đoạn sau
1. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C. Mác và Ph. nĂngghen từ chủ nghĩa
duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
cộng sản
1.1 Sự chuyển biến tư tưởng của Các Mác
Các Mác (5-5-1818 – 14-3-1883) sinh trưởng trong một gia đình trí thức (bố là
luật sư) ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, một vùng khá phát triển cả về kinh tế và chính
trị của nước Đức, chịu nhiều ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp và đạo Kito là tôn
giáo độc tôn.
Những ảnh hưởng tốt của gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã
giúp Mác hình thành và phát triển tinh thần nhân đạo chủ nghĩa và xu hướng yêu tự do.
Phẩm chất đạo đức – tinh thần cao đẹp đó không ngừng được bồi dưỡng và đã trở thành
định hướng cho cuộc đời sinh viên và đưa Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng và
quan điểm vô thần. Cũng vì thế, trong tình hình lúc đó, triết học Hêghen với tinh thần
biện chứng cách mạng của nó được Các Mác xem là chân lý. Trong thời gian học ở
khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Béclin (1836 – 1841) ông say mê nghiên cứu triết
học, nhằm giải đáp vấn đề giải phóng con người, thực hiện dân chủ, vươn tới tự do.
Năm 1837 Các Mác tập trung nghiên cứu triết học Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen
trẻ”.
11
Tháng 4-1841, Mác nhận bằng Tiến sĩ triết học. Trong luận án tiến sĩ với đề tài
“Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của
Êpiquya”, tuy Mác vẫn là người theo triết học duy tâm của Hêghen, song ông coi
nhiệm vụ của triết học là phải phục vụ cuộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con
người, phá bỏ hiện thực lỗi thời theo tinh thần cách mạng của phép biện chứng. “Giống
như Prômêtê – Mác viết trong luận án, – sau khi đã đánh cắp lửa từ trên trời xuống, đã
bắt đầu xây dựng nhà cửa và cư trú trên trái đất, triết học cũng vậy, sau khi bao quát
được toàn bộ thế giới, nó nổi dậy chống lại thế giới các hiện tượng”. Luận án cũng cho
thấy tư tưởng vô thần của Mác khi ông đòi hỏi triết học phải phục vụ cuộc sống chứ
quyết không làm tôi tớ cho thần học.
Sau khi nhận bằng tiến sĩ triết học vào tháng 4 – 1841, Mác chuẩn bị vào giảng
dạy triết học ở trường đại học Tổng hợp Bon và dự định xuất bản một tờ tạp chí với tên
gọi “Tư liệu của chủ nghĩa vô thần”. Nhưng dự đinh đó không thực hiện được vì vua
Phriđrích Vinhem IV thực hiện chính sách phản động và đàn áp những người dân chủ
cách mạng. Ông và một số người theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển sang hoạt động
chính trị đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế Phổ giành lại quyền tự do dân chủ;
đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tư tưởng của ông. Như vậy lúc này, trong tư
tưởng của Các Mác có sự mâu thuẫn giữa thế giới quan duy tâm với tinh thần dân chủ
cách mạng và vô thần. Mâu thuẫn bước đầu được giải quyết khi Các Mác làm việc ở
báo Sông Ranh, ở đây lúc đầu là cộng tác viên sau trở thành linh hồn của tờ báo và ông
đã làm cho nó trở thành cơ quan ngôn luận của phái dân chủ cách mạng.
Sự chuyển biến bước đầu diễn ra trong thời kỳ Mác làm việc ở báo sông Ranh
(5-1842 đến 4-1843).Thực tiễn đấu tranh trên báo chí cho tự do dân chủ đã làm cho tư
tưởng dân chủ cách mạng ở Mác có nội dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích
của “quần chúng nghèo khổ bất hạnh về chính trị và xã hội”. Lúc này tư tưởng cộng
sản chủ nghĩa chưa được hình thành, ông đấu tranh bảo vệ “quần chúng nghèo khổ bất
12
hạnh” dưới tinh thần nhân đạo. Với tinh thần nhân đạo, ông tập trung phê phán các
chính sách của nhà nước Phổ, nhà nước chỉ là “cơ quan đại diện đẳng cấp của những
lợi ích cá nhân”. Trong quá trình phê phán đó Các Mác đã nhận thấy hoạt động của nhà
nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã chứng minh.
Về thế giới quan triết học, nhìn chung Mác vẫn đứng trên lập trường duy tâm
trong việc xem xét bản chất nhà nước. Nhưng việc phê phán chính quyền nhà nước
đương thời đã cho Mác thấy rằng, cái quan hệ khách quan quyết định hoạt động của
nhà nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã tìm cách
chứng minh bằng triết học, mà là những lợi ích; còn chính quyền nhà nước lại là “cơ
quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích tư nhân”. Như vậy, qua thực tiễn, nguyện
vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý tưởng tự do trong thực tế đã giúp Mác hình
thành khuynh hướng duy vật và nhận thấy mặt hạn chế của quan điểm duy tâm. Lúc
này, tinh thần dân chủ cách mạng sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm tư
biện. Vì thế sau khi báo Sông Ranh bị cấm (1843), Các Mác đặt cho mình nhiệm vụ
duyệt lại một cách có phê phán quan niệm duy tâm của Hêghen trước hết về xã hội và
nhà nước. Ông đã viết tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Trong khi thực hiện phê phán
ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học Phoiơbắc. Song với tinh thần
phê phán ông đã thấy những mặt hạn chế, nhất là việc xa rời những vấn đề chính trị
nóng hổi của Phoiơbắc. Sự phê phán sâu rộng triết học Hêghen, việc khái quát kinh
nghiệm lịch sử cùng với ảnh hưởng quan điểm duy vật và nhân văn của triết học
Phoiơbắc đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm triết học của Các
Mác.
Cuối tháng 10-1943, Mác sang Pari. Ở đây, không khí chính trị sôi sục và việc
tiếp xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển biến dứt khoát
quan điểm của Mác sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Trong bài báo “Lời
13
nói đầu của cuốn sách góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, Mác đã
phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa và hạn chế của cuộc cách
mạng tư sản chỉ là “cuộc cách mạng bộ phận”; đồng thời ông khẳng định, chỉ có cuộc
cách mạng do giai cấp vô sản thực hiện mới là “cuộc cách mạng triệt để”. Mác nêu rõ:
“Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản
cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Với bài báo này và một số bài báo
khác đăng trong tạp chí Niên giám Đức – Pháp năm 1844 đánh dấu bước hoàn thành
quá trình chuyển biến lập trường, quan điểm của Mác.
Như vậy, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học duy vật biện
chứng và triết học duy vật lịch sử cũng đồng thời là quá trình hình thành chủ nghĩa
cộng sản khoa học. Cũng trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ăngghen đã
hình thành một cách độc lập với Mác.
1.2 Sự chuyển biến tư tưởng của Phriđơrich Ăngghen
Ph. Ăngghen (28-11-1820 – 5-8-1895) sinh ra trong gia đình chủ xưởng dệt ở
thành phố Bacmen, tỉnh Ranh. Khi còn học sinh trung học, Ph. Ăngghen đã căm ghét
sự chuyên quyền và độc đoán của bọn quan lại phong kiến. Việc nghiên cứu triết học
trong thời gian ở Béclin, khi làm nghĩa vụ quân sự, đã hướng ông đi vào con đường
khoa học. Song, chỉ thời gian gần hai năm sống ở Manchestơ (Anh), từ mùa thu năm
1842, việc nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị của nước Anh, nhất là
việc trực tiếp tham gia vào phong trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển biến căn
bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1844, trên tạp chí Niên giám Pháp – Đức cũng đăng các tác phẩm “Bản
thảo góp phần phê phán kinh tế – chính trị học” và “Tình cảnh giai cấp công nhân
Anh” của Ăngghen gửi đến từ Manchextơ. Các tác phẩm đó cho thấy ở Ăngghen, quá
trình chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa cộng sản cũng đã hoàn thành. Quá trình này diễn ra độc lập với
14
Các Mác. Trong các bài báo này, ông đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa cộng sản để phê phán kinh tế chính trị học của A. Xơmít và
Đ. Ricácđô, vạch trần quan điểm chính trị phản động của Cáclây, một người phê phán
chủ nghĩa tư bản trên lập trường của giai cấp quý tộc phong kiến.
Sự nhất trí về tư tưởng đã dẫn đến tình bạn vĩ đại của Mác và Ăngghen, gắn liền
tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một thế giới quan mới mang tên Mác –
thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.
2. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử
Thời gian từ năm 1844 đến năm 1848 là quá trình Mác – Ăngghen từng bước
xây dựng những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được thể
hiện ở các tác phẩm kinh điển sau
Tác phẩm “Bản thảo kinh tế – triết học” năm 1844
Qua tác phẩm này, Mác tiếp tục phê phán kinh tế chính trị học cổ điển của Anh
và triết học duy tâm của Hêghen, đồng thời ông cũng vạch ra mặt tích cực của nó là
phép biện chứng.
Các Mác thông qua phân tích sự tha hóa của lao động đã cắt nghĩa: “Sở hữu tư
nhân trong xã hội tư bản trở thành nguyên nhân của sự tha hóa của lao động và của con
người, biến sức lao động trở thành hàng hóa”. Những quan điểm mới của Mác được
thực hiện trong việc phân tích sự tha hoá của lao động với phạm trù “lao động bị tha
hoá”, Mác xem sự tha hoá của lao động như một tất yếu lịch sử gắn liền với sở hữu tư
nhân, và chính sở hữu tư nhân được sinh ra do “lao động bị tha hoá”, nhưng sau đó lại
trở thành nguyên nhân của sự tha hoá lao động và sự tha hoá của con người. Bởi vậy,
việc khắc phục sự tha hoá ấy chính là xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân, giải phóng người
lao động. Các Mác chỉ rõ: “Muốn khắc phục sự tha hóa ấy phải xóa bỏ chế độ chiếm
15
hữu tư nhân. Việc giải phóng người công nhân khỏi sự tha hóa là sự giải phóng con
người nói chung”.
Trong tác phẩm này Các Mác đã luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng
sản trong sự phát triển của xã hội. Mặc dù luận chứng này chưa chín muồi về mặt lý
luận, song đã cho phép phân biệt quan niệm của Mác về chủ nghĩa cộng sản với những
quan niệm của chủ nghĩa bình quân vốn có của các môn phái chủ nghĩa cộng sản không
tưởng. Theo Mác “chủ nghĩa cộng sản coi như chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị = chủ nghĩa
nhân đạo”. Ông bác bỏ mọi thứ chủ nghĩa cộng sản bình quân mà ông gọi là chủ nghĩa
cộng sản thô thiển, phủ nhận cá tính của con người, là sự quay lại với “sự giản dị
không tự nhiên của con người nghèo khổ và không có nhu cầu”.
Từ góc độ triết học, Mác đã nhận thức chủ nghĩa cộng sản dựa trên sự phát triển
cao của nền sản xuất xã hội là nấc thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản với những
tiền đề do chính chủ nghĩa tư bản tạo ra.
Tác phẩm “Gia đình thần thánh”
Do Mác và Ăngghen viết chung được xuất bản tháng 2-1845. Cùng với việc phê
phán quan điểm duy tâm về lịch sử của “phái Hêghen trẻ”, đứng đầu là anh em nhà
Bauơ, hai ông đã đề xuất một số nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử như: quan điểm về vai trò của sản xuất vật chất đối với xã hội…
Tác phẩm “Gia đình thần thánh” đã chứa đựng “quan điểm đã gần hình thành
của Mác về vai trò cách mạng của giai cấp vô sản” và cho thấy “Mác đã tiến gần như
thế nào đến tư tưởng cơ bản của toàn bộ “hệ thống” của ông… tức là tư tưởng về
những quan hệ sản xuất xã hội”.
Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”
Được Mác và Ăngghen viết chung vào cuối năm 1845 – đầu năm 1846, đánh
dấu một mốc quan trọng trong quá trình hình thành triết học Mác. Thông qua việc phê
16
phán các trào lưu triết học và chủ nghĩa xã hội đương thời ở Đức, Mác và Ăngghen đã
trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống và nhiều nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa cộng sản khoa học như những hệ quả của quan niệm duy vật lịch sử.
Trong “Hệ tư tưởng Đức”, hai ông khẳng định: “Tiền đề của toàn bộ lịch sử
nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”. Song, đó là
những con người hiện thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên của họ.
Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội. Do đó, để hiểu được con người,
Mác đã đi sâu tìm hiểu sự sản xuất vật chất của con người trong xã hội. Nghiên cứu
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Với tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, một số quan điểm về chủ nghĩa xã hội khoa
học được nêu lên nhưng chưa có được sự diễn đạt rõ ràng; Mác và Ăngghen nhận định
chủ nghĩa cộng sản là một lý tưởng cao đẹp của nhân loại, nhưng lý tưởng đó được
thực hiện từng bước với những mục tiêu cụ thể nào, bằng con đường nào; điều đó tuỳ
thuộc vào điểm xuất phát và chỉ có qua phong trào thực tiễn mới tìm ra được những
hình thức và bước đi thích hợp.
Tác phẩm “Luận cương về Phoiơbắc”
Được Mác viết vào tháng 8 năm 1945. Tác phẩm này được Ăngghen đánh giá là
văn kiện đầu tiên chứa đựng mầm mống thiên tài của một thế giới quan mới.
Tư tưởng cơ bản xuyên suốt của Luận cương là vai trò quyết định của thực tiễn
đối với đời sống xã hội, từ đó nêu lên sứ mệnh góp phần “cải tạo thế giới” của triết học
Mác (luận đề thứ 11). Với quan điểm thực tiễn đúng đắn, Mác đã vạch ra “khuyết điểm
chủ yếu” của toàn bộ chủ nghĩa duy vật trước kia, kể cả chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc; đồng thời cũng phê phán và bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về tính
năng động, sáng tạo của tư duy. Cũng từ quan điểm duy vật biện chứng về thực tiễn,
17
Mác đi tới nhận thức về mặt xã hội của bản chất con người. Mác viết “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà của những quan hệ xã hội”.
Với tác phẩm “Luận cương về Phoiơbắc” và nhất là tác phẩm “Hệ tư tưởng
Đức”, quan niệm duy vật lịch sử đã hình thành ở Mác. Quan niệm đó tạo nên cơ sở lý
luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy trong
“Hệ tư tưởng Đức”, học thuyết về chủ nghĩa cộng sản được hai ông trình bày như là
một hệ quả trực tiếp của quan niệm duy vật lịch sử cho nên chủ nghĩa cộng sản chưa
được diễn đạt thành luận điểm cụ thể. Song, một điều quan trọng là Mác và Ăngghen
đã xây dựng phương pháp tiếp cận khoa học để nhận thức chủ nghĩa cộng sản.
Tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” (1847) và “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản” (tháng 2 – 1848)
Chủ nghĩa Mác được trình bày như một chỉnh thể các quan điểm lý luận nền
tảng với ba bộ phận hợp thành của nó. Trong “Sự khốn cùng của triết học”, Mác tiếp
tục đề xuất các nguyên lý triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và đặc biệt là, như
chính Mác sau này đã nói, “chứa đựng những mầm mống của học thuyết được trình
bày trong bộ “Tư bản” sau hai mươi năm trời lao động”.
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên
của chủ nghĩa Mác, trong đó cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một
cách thiên tài, thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị
– xã hội. “Tác phẩm này trình bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan
mới, chủ nghĩa duy vật triệt để – chủ nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt
xã hội – phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự
phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng – trong lịch sử toàn thế giới –
của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng tạo một xã hội mới, xã hội cộng sản”.
Với “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói
chung đã hình thành và sẽ được Mác và Ăngghen tiếp tục bổ sung, phát triển trong suốt
18
cuộc đời của hai ông trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn của phong trào
công nhân và khai quát các thành tựu khoa học.
3. Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết học
Từ sau “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, học thuyết Mác tiếp tục được bổ sung
và phát triển trong sự gắn bó mật thiết hơn nữa với thực tiễn cách mạng mà Mác và
Ăngghen vừa là những đại biểu tư tưởng, vừa là lãnh tụ thiên tài của phong trào công
nhân. Bằng hoạt động lý luận của mình, Mác và Ăngghen đã đưa phong trào công nhân
từ tự phát thành phong trào tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ. Và chính trong
quá trình đó, học thuyết của các ông cũng không ngừng được phát triển.
Các tác phẩm chủ yếu của Mác như “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, “Ngày 18
tháng Sương Mù của Lui Boonapáctơ”, “Nội chiến ở Pháp”, “Phê phán Cương lĩnh
Gôta”…, cho thấy việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân có
tầm quan trọng như thế nào trong sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung và
triết học Mác nói riêng. Đặc biệt qua bộ “Tư bản”, ông đã trình bày những tất yếu phát
triển của nền sản xuất xã hội, lịch sử thay thế các hình thái kinh tế xã hội… Bộ “Tư
bản” không chỉ là công trình đồ sộ của Mác về kinh tế học mà còn là sự bổ sung, phát
triển của triết học Mác nói riêng, của học thuyết Mác nói chung. Lênin đã nhận xét: về
phương diện triết học, nếu như Mác không để lại cho chúng ta một “lôgíc học với chữ
Lôgíc viết hoa” thì Mác đã để lại cho chúng ta cái lôgíc của bộ “Tư bản”.
Trong khi đó, Ăngghen đã khái quát các thành tựu khoa học để viết các tác
phẩm như “Chống Đuyrinh”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tự hữu và của nhà nước”, “Lútsvích Phoiơbắc và sự cáo chung của nền
triết học cổ điển Đức”… Trong các tác phẩm đó, ngoài việc phê phán các quan điểm
triết học duy tâm, siêu hình và duy vật tầm thường, ông đã trình bày học thuyết triết
học Mác dưới dạng một hệ thống lý luận hoàn thiện hơn. Ngoài ra cũng cần chú ý rằng,
những ý kiến bổ sung, giải thích của Ăngghen sau khi Mác qua đời đối với một số luận
19
điểm của các ông trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển học
thuyết Mác.
4. Giai đoạn Lênin bảo vệ, hoàn thiện và tiếp tục phát triển triết học Mác
Chủ nghĩa Mác và triết học Mác sau khi trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh
nó đã trực tiếp đi vào đời sống xã hội, trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Vì
thế, nội dung của nó được lan truyền nhanh chóng ở các quốc gia thuộc châu Âu, trong
đó có nước Nga. Nhưng sau khi Các Mác và Ph.Ăngghen mất, phong trào cộng sản thế
giới có nguy cơ bị những người của phái chủ nghĩa xã hội dân chủ chi phối. Những
người này tuyên truyền những luận điểm để bác bỏ những giá trị của chủ nghĩa Mác
nói chung và triết học Mác nói riêng. Tình hình đó cũng diễn ra ở nước Nga trong thời
cuối của thế kỷ XIX và những năm đầu của thế kỷ XX.
Những năm cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX trong khoa học tự nhiên có
những phát minh mới, nhất là việc tìm ra điện tử và cấu tạo của nguyên tử làm đảo lộn
căn bản quan niệm vật lý học cổ điển, dẫn tới “cuộc khủng khoảng vật lý”. Lợi dụng
tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm, trong đó có chủ nghĩa Makhơ (duy tâm chủ quan)
công kích chủ nghĩa duy vật của Mác. Nước Nga sau khi cuộc cách mạng 1905-1907
thất bại, những người theo chủ nghĩa Makhơ tăng cường hoạt động lý luận, họ viện cớ
“bảo vệ chủ nghĩa Mác” để xuyên tạc triết học Mác.
Do vậy, Lênin đã viết hàng loạt các tác phẩm như: “Những người bạn dân là thế
nào”, “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy”, “Sự phê phán trong cuốn sách của
ông Xtơruve”, để vạch trần bản chất phản cách mạng của bọn dân tuý Nga và phê phán
những luận điểm duy tâm chủ quan về lịch sử của họ. Trong cuộc đấu tranh đó, Lênin
đã bảo vệ chủ nghĩa Mác và còn làm phong phú thêm quan điểm duy vật lịch sử, nhất
là lý luận về hình thái kinh tế xã hội.
Năm 1900, Lênin viết tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán” để vạch rõ quan điểm duy tâm, siêu hình của những người theo chủ nghĩa
20
Makhơ và chỉ rõ tác hại của nó đến phong trào cách mạng ở Nga. Trong tác phẩm,
Lênin đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử dựa trên sự phân tích, khái quát những thành tựu khoa học mới nhất. Lênin xây
dựng định nghĩa vật chất với tính cách là phạm trù triết học, đồng thời còn làm rõ thêm
nhiều vấn đề về lý luận nhận thức Mác.
Năm 1914 – 1915, Lênin nghiên cứu nhiều tác phẩm triết học, đặc biệt quan tâm
nghiên cứu về phép biện chứng của Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng
duy vật, nhất là lý luận về sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Thông qua
đó, Lênin chuẩn bị lý luận cho cuộc cách mạng 1917. Tinh thần sáng tạo của tư duy
biện chứng đã giúp cho Lênin có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của
chủ nghĩa Mác về triết học như: vấn đề về nhà nước nước, bạo lực cách mạng, chuyên
chính vô sản, lý luận về đảng kiểu mới. Lênin đã là tấm gương mẫu mực trong việc bảo
vệ và phát triển triết học Mác. Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là cụ thể,
có khi Lênin đã phải thay đổi một cách căn bản đối với một quan điểm nào đó của
mình về chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều.
Chính vì vậy mà một giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung,
triết học Mác nói riêng đã gắn liền với tên tuổi của Lênin và từ đó triết học Mác mang
tên triết học Mác – Lênin.
21
Phần III
BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ
PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC
Sự phân chia các thời kỳ trong lịch sử triết học
Trước hết căn cứ vào lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, triết học
là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, nhưng đồng thời triết học cũng là một
hình thái của ý thức xã hội. Cho nên nó có tính độc lập tương đối và có sự tác động qua
lại với các hình thái ý thức xã hội khác.
Sự phân chia các thời kỳ của lịch sử triết học còn được qui định bởi bước ngoặt
cách mạng của các học thuyết triết học có tính vạch thời đại (triết học lớn), nhưng đều
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội nhất định.
Sự phân chia các thời kỳ khác nhau của lịch sử triết học về cơ bản đều thông
qua cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và triết học duy tâm.
Những thời kỳ lớn của lịch sử triết học:
Triết học của xã hội chiếm hữu nô lệ
Triết học của xã hội phong kiến
Triết học của thời kỳ phục hưng và cận đại
Triết học Cổ điển Đức
Triết học Mác – Lênin
Triết học tư sản hiện đại
22
Sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong lịch sử tư
tưởng xã hội. Lênin nói chủ nghĩa Mác là sự phát triển cao nhất của toàn bộ khoa học
lịch sử, khoa học kinh tế và triết học ở Châu Âu.
1. Triết học Mác ra đời đã khắc phục được sự lệch rời giữa TG quan duy vật và
phép biện chứng tạo ra hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và hình thức cao nhất của phép biện chứng là phép biện chứng duy
vật. Trong triết học Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng có mối quan hệ hữu
cơ với nhau
Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đóng vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển
của khoa học trong cuộc đấu tranh chống tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm, nhưng trong
thời kỳ cổ đại thì chỉ là chủ nghĩa duy vật chất phát ngây thơ, tự phát, còn ở thời cận
đại thì chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc. Nó không thể khắc phục triệt để chủ
nghĩa duy tâm và vạch ra được những nguyên nhân phát triển của tự nhiên và xã hội,
không vạch ra được phép biện chứng của quá trình nhận thức và những con đường cải
tạo thế giới. Tuy nhiên, trong học thuyết duy vật trước Mác cũng chứa đựng một số tư
tưởng biện chứng nhất định nhưng do hạn chế về trình độ phát triển khoa học và lịch
sử, nên triết học trước Mác mới có những thiếu sót nói trên .
Chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tính yếu kém của chủ nghĩa duy vật tự phát, siêu
hình và đã tiến hành đấu tranh quyết liệt chống lại nó. Phép biện chứng lại được quan
tâm nghiên cứu và được phát triển trong một hệ thống triết học duy tâm, nhất là triết
học Hêghen. Hêghen là người có công lao to lớn trong việc khôi phục và phát triển
phép biện chứng nhưng dưới cái vỏ duy tâm thần bí đó không thể tạo ra được phép
biện chứng khoa học.
Vì vậy, để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải tạo cả chủ
nghĩa duy vật cũ, siêu hình và cả phép biện chứng duy tâm, giải thoát chủ nghĩa duy
23
vật khỏi hạn chế siêu hình và phép biện chứng ra khỏi chủ nghĩa duy tâm. Mác đã tạo
ra được sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng.
2. Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn
Trước Mác, chủ nghĩa duy vật đã trải qua quá trình phát triển lịch sử lâu dài, nó
đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần vào việc xác lập quan niệm duy vật
về thế giới, vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, vào quá trình
biến đổi thế giới. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đó, triết học trước Mác không
thể không tránh khỏi những thiếu sót, những hạn chế mang tính lịch sử của mình, đó là:
Duy vật trong xem xét giới tự nhiên nhưng vẫn duy tâm trong việc xem
xét đời sống xã hội. Do hạn chế lịch sử và hạn chế giai cấp nên chủ nghĩa duy vật trước
vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về lịch sử, nghĩa là chủ nghĩa duy vật Mác là
chủ nghĩa duy vật không triệt để.
Tính chất siêu hình máy móc và trực quan khiến cho nó không thấy được
tính năng động, sáng tạo của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò của ý thức,
không thấy sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất trong
hoạt động thực tiễn của con người. Mác nhận xét rằng khuyết điểm chủ yếu của chủ
nghĩa duy vật cũ đã thiếu quan điểm thực tiễn, do đó lý luận của nó mang tính trực
quan và không thể giải quyết một cách khoa học, duy vật triệt để vấn đề cơ bản của
triết học.
Việc đưa quan điểm thực tiễn vào lý luận Mác không những thực hiện cuộc cách
mạng triết học mà còn tạo ra cơ sở để khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật
cũ và thuyết không thể biết.
Chủ nghĩa duy vật Mác khẳng định rằng, vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức. Đó là nguyên tắc xuất phát của chủ nghĩa duy vật Mác. Mặc
24
khác, khi khẳng định sự phụ thuộc của ý thức vào vật chất, chủ nghĩa duy vật Mác
đồng thời cũng vạch ra sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Ý thức phản ánh
thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải tạo thế giới bằng thực tiễn.
Sự tác động qua lại giữa vật chất và ý thức, trong đó vật chất là cái quyết định,
diễn ra trên cơ sở thực tiễn. Cái vật chất muốn được “di chuyển và cải biến trong bộ óc
con người” (C. Mác) phải thông qua hoạt động thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn con
người cải biến sự vật trong hiện thực, nhờ đó mới cải biến sự vật trong hình ảnh tư
tưởng của nó. Phạm trù thực tiễn, do vậy có ý nghĩa thế giới quan trọng góp phần làm
cho quan điểm Mác về vật chất và ý thức mang tính duy vật triệt để, không chỉ duy vật
trong tự nhiên mà còn duy vật cả trong đời sống xã hội .
3. Chủ nghĩa duy vật triệt để quan niệm duy vật về lịch sử là một cống hiến vĩ đại
của Mác
Như trên đã trình bày một thiếu sót lớn của chủ nghĩa duy vật trước Mác là duy
vật không triệt để, duy vật trong tự nhiên nhưng duy tâm trong xã hội. Để khắc phục
thiếu sót trên đây làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để, Mác đã sáng tạo ra chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Lênin viết “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy
vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ
chỗ nhận thức tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không phải đơn thuần là sự vận dụng chủ nghĩa duy
vật biện chứng vào lĩnh vực xã hội. Để có chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác đã phải tiến
hành tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên cơ sở khái quát
thực tiển mới. Lênin viết “Tất cả những cái mà tư tưởng loài người đã sáng tạo ra, Mác
đã nghiền ngẫm lại, đã phê phán và đã thông qua phong trào công nhân mà kiểm tra
lại”. Với quan niệm duy vật về lịch sử của Mác, loài người tiến bộ đã có một công cụ
vĩ đại trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
25
4. Thể hiện thế giới quan của giai cấp tư sản cách mạng, tạo nên sự thống nhất
tính cách mạng với tính khoa học, thống nhất hệ tư tưởng với lý luận khoa học
trong triết học Mác.
Triết học Mác là thế giới quan của giai cấp công nhân – giai cấp tiến bộ và cách
mạng của thời đại. Lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của nhân dân lao
động. Cho nên với triết học Mác ra đời, lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân lao động có
thế giới quan thực sự của mình. Đó là thế giới quan khoa học và cách mạng, là vũ khí
tư tưởng trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn thể nhân dân loại khỏi một áp bức và bốc lột. Lênin viết “Triết học Mác là một
chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp
công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại”.
Chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng mang đặc tính bản chất bên
trong là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Lênin viết “Sự hấp dẫn
không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người xã hội chủ nghĩa của tất cả các nước đi
theo lý luận đó, chính là ở chỗ nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là
đỉnh cao nhất của khoa học xã hội) với tinh thần cách mạng và kết hợp không phải một
cách ngẫu nhiên, không phải chỉ vì người sáng lập ra học thuyết ấy đã kết bên trong
bản thân mình những phẩm chất của nhà bác học và của nhà cách mạng mà là kết hợp
trong chính bản thân lý luận ấy một sự kết hợp nội tại và khắng khít”.
Triết học Mác là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, một hệ tư tưởng đã được
luận chứng bằng lý luận khoa học, phản ánh những quy luật phát triển khách quan của
lịch sử. Vì vậy nó là hệ tư tưởng khoa học chứa đựng sự thống nhất giữa tính cách
mạng và tính khoa học, giữa tính thực tiễn và tính lý luận. Nhờ đó, triết học Mác mang
sức mạnh cải tạo thế giới bằng cách mạng và không đội trời chung với chủ nghĩa chủ
quan duy ý chí cũng như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ. C. Mác viết “Các nhà triết học
đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới”.