BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
ĐOÀN THÁI DƯƠNG
THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
ĐOÀN THÁI DƯƠNG
THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS HỒ VIẾT TIẾN
2. TS. TRẦN VÂN LONG
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Đoàn Thái Dương – là học viên lớp Cao học Khóa 26 chuyên
ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả
của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Thực thi pháp luật bảo vệ môi trường trong
các khu công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh”. Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện”. (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là
kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn
khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và
có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện
Đoàn Thái Dương
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TÓM TẮT
LỜI NÓI ĐẦU ………………………………………………………………………………………………… 0
1.
Lý do chọn đề tài …………………………………………………………………………………….. 1
2.
Câu hỏi nghiên cứu: ………………………………………………………………………………… 2
3.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
………………………………………………………………. 3
4.
Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ……………………………………………. 4
5.
Phương pháp nghiên cứu
…………………………………………………………………………. 5
6.
Bố cục của luận văn
…………………………………………………………………………………. 5
CHƯƠNG 1: LUẬT PHÁP VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP. …………………………………………………………………………… 7
1.1. Quan điểm của đảng về bảo vệ môi trường
…………………………………………………… 7
1.2. Các quy định luật pháp liên quan đến bảo vệ môi trường trong khu công
nghiệp ……………………………………………………………………………………………………………. 10
1.2.1.
Trách nhiệm thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường
……………….. 10
1.2.2.
Trách nhiệm trong việc quản lý, xử lý chất thải trong quá trình sản xuất. .. 12
1.2.3.
Các biện pháp xử lý các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường
…………….. 15
1.3. Các văn bản dưới luật về bảo vệ môi trường của khu công nghiệp ………………… 20
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH……………………………………………………………………………………………………………. 23
2.1. Tổng quan về các khu công nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh …………………….. 23
2.2. Thực trạng việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường tại các khu công
nghiệp ……………………………………………………………………………………………………………. 26
2.3. Hệ thống xử lý chất thải của các nhà máy và của khu công nghiệp
………………… 31
2.4. Các vấn đề được đặt ra …………………………………………………………………………….. 39
2.5. Nguyên nhân của hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
ở các khu công nghiệp
……………………………………………………………………………………… 41
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH
TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ………………………………………………… 48
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường tại
các khu công nghiệp
………………………………………………………………………………………… 48
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm bảo vệ môi trường
tại các khu công nghiệp
……………………………………………………………………………………. 49
3.3. Giải pháp nâng cao hoạt động áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường trong các
khu công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh …………………………………………………….. 50
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………………………… 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
KÝ HIỆU
NGUYÊN NGHĨA
1
ĐTM
Báo cáo đánh giá tác động môi trường
2
KCN
Khu công nghiệp
3
KCX
Khu chế xuất
4
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
5
UBND
Ủy ban nhân dân
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Đề tài “Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải pháp” với mục đính đánh giá thực
trạng áp dụng các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường chỉ ra những tồn tại, hạn
chế, những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Từ đó đề ra các giải
pháp nhằm nâng cao ý thức thực hiện, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
pháp luật về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhiều doanh nghiệp đã bị điều tra xử lý do
vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường, ý thức bảo vệ môi trường của doanh
nghiệp quá kém, vì lợi nhuận và những lợi ích trước mắt mà không thực hiện
tốt công tác bảo vệ môi trường. Mặt khác, sự bất cập trong quy định pháp luật
và sự buông lỏng quản lý, thanh tra, kiểm tra hoạt động bảo vệ môi trường tại
các khu công nghiệp của cơ quan có thẩm quyền có phần buông lỏng cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên tại các khu công nghiệp
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Nội dung nghiên cứu của luận văn thực sự có ý nghĩa về mặt lý luận và
thực tiễn đối với các học giả, các doanh nghiệp và các cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường.
THE ABSTRACT SUMMARY
“Law Enforcement of Environment Protection in Industrial Zones in
Ho Chi Minh City. Current situation and solutions” with the purpose of
assessing the reality of application of legal provisions on environmental
protection, pointing out shortcomings, limitations and difficulties in the
implementation process. Since then proposed solutions to raise the awareness
of implementation, improve the efficiency of the application of the provisions
of the law on environmental protection of enterprises in industrial zones.
The research results show that many businesses have been investigated
and dealt with because of violations of the law on environmental protection,
the sense of environmental protection of enterprises is too poor, because the
profits and immediate benefits are not real. Good environmental protection
work. On the other hand, the inadequacies of the law and the lax management,
inspection and inspection of environmental protection activities in industrial
zones of the competent authority are also one of the main causes. This
situation has led to the above situation in industrial zones in Ho Chi Minh
City.
The content of the thesis is really theoretical and practical for scholars,
businesses and competent agencies in the application of environmental
protection laws.
1
LỜI NÓI ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Bảo vệ môi trường là một trong những nội dung được cả thế giới quan tâm
và được đưa ra thảo luận trên các diễn đàn quốc tế. Bảo vệ môi trường vừa là mục
tiêu, vừa là nội dung cơ bản của sự phát triển góp phần ổn định tình hình chính trị,
trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của một đất nước. Với Việt
Nam, hoạt động bảo vệ môi trường được Đảng, Nhà nước luôn đặt lên hàng đầu và
được đề cập trong các chủ trương, đường lối chính sách phát triển kinh tế, văn hóa
xã hội của đất nước, đặc biệt là vấn đề bảo vệ môi trường trong lĩnh vực kinh tế, bởi
đây là lĩnh vực liên quan mật thiết, gắn liền và tác động nhiều nhất đến môi trường.
Viêt Nam, tuy khởi điểm là một nước nông nghiệp, và hiện nay vẫn là một
nước phát triển mạnh về nông nghiệp. Nhưng đối với công nghiệp, thời gian qua đã
có nhiều bước tiến đáng kể, đặc biệt là việc hình thành nhiều khu công nghiệp trên
khắp cả nước. Tính đến tháng 6 năm 2018, trên cả nước hiện có 325 khu công
nghiệp được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên đã sử dụng là 96,3 nghìn ha,
trong đó 223 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động và số khu công nghiệp còn lại
đang trong giai đoạn đền bù, giải phóng mặt bằng. Như vậy có thể thấy, sự phát
triển của công nghiệp hóa, hiện đại hóa thúc đẩy sự hình thành của các khu công
nghiệp, khu công nghệ cao nhằm đem lại sự tăng trưởng nhanh về kinh tế của đất
nước, đặc biệt phải kể đến là sự phát triển của khu công nghiệp thành phố Hồ Chí
Minh.
Song song với việc phát triển các khu công nghiệp, thì vấn đề bảo vệ môi
trường do xả thải từ các khu công nghiệp luôn là vấn đề được các cấp các ngành và
các doanh nghiệp quan tâm, thực hiện. Thời gian qua, vấn đề quản lý và xử lý đối
với các doanh nghiệp có hành vi gây ô nhiễm môi trường cũng đã được triển khai
và thực thi nhưng thực tế tình trạng ô nhiễm môi trường do xả thải tại các khu công
nghiệp vẫn đang diễn ra hàng ngày, với nhiều thủ đoạn tinh vi, việc quy hoạch các
khu công nghiệp và giám sát hoạt động bảo vệ môi trường chưa được quan tâm, vẫn
có những doanh nghiệp chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ môi
trường mà không đầu tư hệ thống xử lý chất thải tập trung hoặc có xây dựng nhưng
2
là những quy trình lỗi thời kém hiệu quả dẫn đến những sự việc nghiêm trọng đã
xảy ra như gây ô nhiễm môi trường nước, không khí, để lại nhiều hậu quả nghiêm
trọng cho môi trường, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân, hình ảnh
và sự tiến bộ của quốc gia.
Hiện nay, vấn đề quy hoạch phát triển và quản lý các khu công nghiệp nhằm
đảm bảo sự tăng trưởng, phát triển kinh tế bền vững nhưng lại không gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường là một thách thức to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân.
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết về bảo vệ môi trường trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chiến lược bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Đồng thời, xây dựng và ban
hành cơ sở hành lang pháp lý nhằm bảo vệ môi trường như Luật Bảo vệ môi trường
2014, Luật đầu tư 2014, Luật dân sự 2015, thông tư 35/2015/TT-BTNMT về bảo vệ
môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao…và
nhiều văn bản hướng dẫn thi hành.
Tuy nhiên, việc thi hành các quy định pháp luật này trong thực tiễn và tại
khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh vẫn nảy sinh một số khó khăn, vướng
mắc nhất định, đòi hỏi cần có giải pháp được hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng, hạn chế và xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm, phạm tội gây ô
nhiễm môi trường của các doanh nghiệp trong thời gian tới.
Vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Thực thi pháp luật
Bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Thực trạng và Giải pháp hoàn thiện” làm Luận văn thạc sĩ luật học, với mong
muốn góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong vấn đề bảo vệ môi
trường và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo vệ môi trường.
2.
Câu hỏi nghiên cứu:
–
Các quy định pháp luật về trách nhiệm của doanh nghiệp trong vấn đề
bảo vệ môi trường. Thực tiễn áp dụng tại các khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí
Minh? Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc?
– Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp
luật trách nhiệm bảo vệ môi trường?
3
3.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, vấn đề thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường, trách
nhiệm trong bảo vệ môi trường và các vấn đề có liên quan khác đã được nhiều tác
giả đi sâu nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Có thể kể đến một số
công trình nghiên cứu như:
– Nguyễn Thị Tố Uyên (2013), “Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp
lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ. Luận án đi sâu
nghiên cứu pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường hiện
nay, mối liên hệ giữa pháp luật về trách nhiện hình sự, trách nhiệm hành chính,
trách nhiệm dân sự, đồng thời nghiên cứu các vi phạm của công ty VeDan để chỉ ra
các bất cập của pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
hiện nay.
– Nguyễn Thị Kim Chi (2016), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ. Luận án đi sâu vào phân tích một số vấn đề lý luận
về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, những kết quả, hạn chế trong việc thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam những năm gần đây, đề xuất
một số định hướng, khuyến nghị nâng cao hiệu quả việc thực hiện trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.
– PGS.TS Nguyễn Đình Tài, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: các vấn
đề đặt ra hôm nay và giải pháp”, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Bài
viết tập trung phân tích các cơ sở lý luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp,
phân tích vai trò, lợi ích của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Từ đó đề ra các giải pháp giải quyết các vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp và nhà
nước.
– TS.Phạm Thị Tuyết, “Ô nhiễm môi trường – Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp Việt Nam”, Học viện ngân hàng. Bài viết tập trung phân tích thực trạng ô
nhiễm môi trường tại Việt Nam và đưa ra một số giải pháp nâng cao trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp Việt Nam về ô nhiệm môi trường.
Ngoài ra, có thể kể đến một số sách chuyên khảo, một số công trình nghiên
cứu luận án tiến sĩ: Doãn Hồng Nhung, Nguyễn Thị Bình (2015), Hoàn thiện hệ
4
thống pháp luật bảo vệ môi trường khu công nghiệp, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội; Vũ Thu Hạnh (2012), “Cơ chế giải quyết bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi
trường”, NXB Chính trị Quốc gia; Bùi Đức Hiền- Luận án tiến sĩ “ Pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam” Học viện khoa học xã hội
Việt Nam; Và một số bài báo, bài viết khác như: Nguyễn Thị Yến (2013), Bài học
từ một số quốc gia trên thế giới về xã hội hóa đầu tư bảo vệ môi trường, Tạp chí
Giáo dục lý luận số 7/2013, tr. 60-62; Bùi Văn Dũng (2012), Bảo vệ môi trường
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản số 65 (5/2012), tr. 26-29; Đinh
Nguyễn An (2013), Bảo vệ môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
Tạp chí Lý luận chính trị số 9/2013, tr. 68-71; Doãn Công Khánh (2010), Bảo vệ
môi trường trong quá trình tự do hoá thương mại, Tạp chí Cộng sản số 812
(6/2010), tr. 66-69; Vũ Thị Duyên Thủy (2011), Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi
trường trong hoạt động của các khu công nghiệp Việt Nam, Tạp chí Luật học số
9/2011, tr. 60-64; Bùi Cách Tuyến (2015), Bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường tự
nhiên với môi trường sống ở khu công nghiệp, khu đô thị.
Các công trình trên đã đưa ra được nhiều giải pháp để nâng cao việc thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực hiện bảo vệ môi trường. Có thể
khẳng định, những công trình khoa học nêu trên là tài liệu tham khảo hữu ích, giúp
tác giả có thêm nhiều thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu của mình.
4.
Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường
của các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh nhằm chỉ ra
những tồn tại, hạn chế, những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Từ đó
đề ra các giải pháp nhằm nâng cao ý thức thực hiện, nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp.
4.2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề mang tính lý luận về Trách
nhiệm pháp luật của doanh nghiệp đối với môi trường như các khái niệm về bảo vệ
môi trường, các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường khu công nghiệp và
5
vai trò của việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường, các quy định về xử lý,
chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp.
Những bất cập, khó khăn vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật
về bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Những giải
pháp cần thiết.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu theo hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam
về bảo vệ môi trường như Luật bảo vệ môi trường năm 2014, các văn bản hướng
dẫn thi hành và các văn bản luật có liên quan.
Quá trình áp dụng và thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ môi
trường trong các khu công nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
5.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng các quan điểm của Đảng và Nhà
nước về vấn đề bảo vệ môi trường với phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực kinh tế.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp, phương
pháp thống kê, mô tả và đối chiếu so sánh. Thông qua các phương pháp được sử
dụng, luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp trong bảo vệ môi trường, thực tiễn áp dụng tại các khu công nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh nhằm làm rõ những điểm còn bất cập của các quy định, những
khó khăn vướng mắc trong quá trình áp dụng, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn
thiện pháp luật để nâng cao ý thức chấp hành và nâng cao hiệu quả áp dụng trong
thời gian tới.
6.
Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 04 chương:
Chương 1: Các quy định của pháp luật về thực hiện trách nhiệm của doanh
nghiệp với môi trường.
Chương 2 Thực trạng việc thực hiện trách nhiệm của doanh nghiệp với môi
trường trong các khu công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh.
6
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định trách nhiệm bảo vệ
môi trường trong các khu công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh.
7
CHƯƠNG 1: LUẬT PHÁP VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LIÊN
QUAN ĐẾN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP.
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Quan điểm nhất quán xuyên suốt trong các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng về bảo vệ môi trường đó là: “Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề
sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của
nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế – xã hội, ổn định chính trị,
an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta” và “Đầu tư cho
bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững”.
Đến Đại hội X, lần đầu tiên trong báo cáo về Phương hướng, nhiệm vụ phát
triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2006 – 2010 trình Đại hội đưa ra chỉ tiêu về môi
trường (độ che phủ rừng; tỷ lệ dân cư được dùng nước sạch; chỉ tiêu về xử lý chất
thải) và “tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên”
được xác định là một trong sáu nhiệm vụ thuộc “định hướng phát triển ngành, lĩnh
vực và vùng”.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI một lần nữa thể hiện quan điểm nhất
quán của Đảng đối với công tác bảo vệ môi trường: “Bảo vệ môi trường vừa là mục
tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể
hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế – xã hội của
từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế
– xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường”.
Để cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương bảo vệ môi trường trong các văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng cũng đã ban hành một hệ thống các chỉ thị, nghị
quyết đồng bộ, nhất quán tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động,
đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện công tác bảo vệ môi
trường trong toàn đảng và toàn xã hội như: Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày
15/11/2004 Bộ Chính trị (Khóa IX) “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết số 41-NQ/TW là một bước
quan trọng trong việc thể hiện các quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường ở
8
nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sau 5 năm thực hiện
Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 21/1/2009, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 29-
CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW. Chỉ thị này nhấn
mạnh một số nhiệm vụ quan trọng cần tập trung thực hiện, trong đó có nhiệm vụ
như: “Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường…”; “Quy định các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường; Không phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự
án đầu tư tiềm ẩn nguy cơ cao đối với môi trường; Không đưa vào vận hành, sử
dụng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu đô thị, công trình, cơ sở y tế, cơ
sở sản xuất mới không đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường”.
Trước nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và những diễn biến
phức tạp của biến đổi khí hậu, Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI đã ban hành Nghị
quyết số 24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản
lý tài nguyên và bảo vệ môi trương”. Quan điểm về bảo vệ môi trường một lần nữa
được khẳng định “Môi trường là vấn đề toàn cầu. Bảo vệ môi trường vừa là mục
tiêu vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Tăng cường bảo vệ môi
trường phải theo phương châm ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự
nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi
trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm
mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng đến sức khỏe cộng đồng”. Đồng thời đưa ra những mục tiêu rất cụ thể về bảo
vệ môi trường: “Không để phát sinh và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng; 70% lượng nước thải ra môi trường lưu vực các sông được xử
lý; tiêu hủy, xử lý trên 85% chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế; tái sử dụng hoặc
tái chế trên 65% rác thải sinh hoạt. Phấn đấu 95% dân cư thành thị và 90% dân cư
nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh. Kiểm soát an toàn, xử lý ô nhiễm
môi trường do hậu quả chiến tranh. Nâng cao chất lượng môi trường không khí ở
các đô thị, khu vực đông dân cư. Cải thiện rõ rệt môi trường làng nghề và khu vực
nông thôn. Quản lý khai thác hợp lý, sớm chấm dứt khai thác rừng tự nhiên, nâng
9
diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên lên trên 3 triệu ha; nâng độ che phủ của rừng
lên trên 45%”.
“Phát triển bền vững”,”Phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường”…
là quan điểm cách mạng đúng đắn mà Đảng ta đã kiên trì theo đuổi và thực hiện
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong giai đoạn đổi mới
vừa qua. Nhận thức rất rõ vai trò của môi trường và bảo vệ môi trường, nước ta đã
tích cực tham gia các Công ước, các thỏa thuận quốc tế về môi trường. Có thể kể tới
như: Công ước đa dạng sinh học (5/1993) có mục tiêu chính là nhằm bảo tồn đa
dạng sinh học, sử dụng bền vững các thành phần của đa dạng sinh học và chia sẻ
công bằng, hợp lý những lợi ích thu được từ việc sử dụng tài nguyên sinh học; Công
ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu (11/1994) có mục tiêu ổn định
các nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can
thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu; Nghị định thư Kyoto
(9/2002) buộc các nước tham gia phải cam kết đạt được các mục tiêu về thải khí nhà
kính được xác định cụ thể cho từng nước; hay Công ước Viên về bảo vệ tầng ô zôn
(1994); Thỏa thuận Paris về chống biến đổi khí hậu… Nhìn chung các văn bản quốc
tế đó đều khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường và yêu cầu các
nước tham gia có trách nhiệm hơn trong hoạt động bảo vệ môi trường. Việt Nam đã
tham gia ký kết hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế về bảo vệ môi trường, Tiêu
biểu như: Công ước đa dạng sinh học; Công ước di sản; Công ước Ramsar; các
Công ước MARPOL, SOLAS, COLREG… Đặc biệt ngày 23/6/1994, Việt Nam đã
tham gia ký Công ước Luật biển 19821.
Đến nay, Nhà nước đã hai lần ban hành Luật Bảo vệ môi trường vào năm
2005 và 2014 cùng với một số’ Nghị định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường như Nghị định 179/2013/nĐ-CP, Nghị định 18/2015/NĐ-CP… Luật
Bảo vệ môi trường của Việt Nam (năm 2005) đã dành bốn điều quy định về Bảo vệ
môi trường biển (từ điều 55 đến 58). Cụ thể hóa các quy định của Luật Bảo vệ môi
1 Bảo vệ môi trường: Vấn đề trọng tâm trong sự lãnh đạo của Đảng; https://kinhtemoitruong.vn/bao-ve-moi-
truong-van-de-trong-tam-trong-su-lanh-dao-cua-dang-1356.html
10
trường, ngày 6/3/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số’ 25/2009/NĐ-CP về
quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo…
Hội nghị Trung ương 4 khóa X (2/2007) ra Nghị quyết số’ 09-NQ/TW về
“Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước
ta trở thành quốc gia mạnh về biển… làm cho đất nước giàu mạnh từ biển, bảo vệ
môi trường biển”. Sau khi Quốc hội thông qua và ban hành Luật bảo vệ môi trường
số 55/2014/ QH13 bao gồm một số’ điều sửa đổi, bổ sung ngày 23 tháng 06 năm
2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số’ 19/2015/NĐ- CP ngày 14 tháng 02 năm
2015, quy định chi tiết thi hành một số’ điều của Luật. Cùng ngày, Chính phủ cũng
đã ban hành Nghị định số’ 18/2015/NĐ-CP, quy định về quy hoạch bảo vệ môi
trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch
bảo vệ môi trường.
Những văn bản trên cùng với những văn bản liên quan đến vấn đề bảo vệ
môi trường còn hiệu lực đã tạo thành hệ thống pháp lý vững chắc, thể chế hóa quan
điểm của Đảng ta trong các nghị quyết Đại hội Đảng và các hội nghị Trung ương
trước đó.
1.2. CÁC QUY ĐỊNH LUẬT PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG TRONG KHU CÔNG NGHIỆP
1.2.1.
Trách nhiệm thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường
Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo tác động đến môi
trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai
dự án đó.2
Như vậy, đánh giá tác động môi trường là quá trình phân tích, dự báo những
tác động ảnh hưởng xấu đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể, từ đó đề xuất các
biện pháp giảm thiểu ô nhiễm, phòng ngừa, ứng phó các sự cố môi trường khi triển
khai dự án đó một khâu then chốt và quan trọng. Và việc báo cáo đánh giá tác động
môi trường có vai trò rất quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường.
2 Khoản 23 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014
11
Đánh giá tác động môi trường và quy định báo cáo về vấn đề này được quy
định lần đầu tiên trong Luật Bảo vệ môi trường 1993 và ngày càng hoàn thiện trong
Luật Bảo vệ môi trường 2005 và Luật Bảo vệ môi trường 2014.
Hiện nay, Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định tương đối cụ thể về đối
tượng phải lập đánh giá tác động môi trường, việc thực hiện đánh giá tác động môi
trường, lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường, tham vấn trong quá trình thực
hiện đánh giá tác động môi trường; nội dung chính của đánh giá tác động môi
trường, thẩm định đánh giá tác động môi trường; Thẩm quyền thẩm định báo cáo
đánh giá tác động môi trường; Phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định về thẩm định đánh giá tác động môi
trường thông qua Hội đồng thẩm định và thông qua bằng cách lấy ý kiến các cơ
quan, tổ chức có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thẩm
định. Thời gian phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường là trong thời hạn
20 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được chỉnh
sửa theo yêu cầu của cơ quan thẩm định, thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan
thẩm định có trách nhiệm phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; trường
hợp không phê duyệt phải trả lời cho chủ dự án bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Theo quy định của pháp luật các chủ dự án phải lập báo cáo đánh giá tác
động môi trường trước khi thực hiện. Phải phân tích hiện trạng môi trường tại địa
bàn hoạt động của dự án hoặc của cơ sở mình, phải dự liệu trước được những tác
động tiêu cực việc xả thải có thể gây ra ô nhiễm xung quanh đồng thời dự tính trước
các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn chúng thông qua đó thực hiện phòng ngừa ô
nhiễm, sự cố môi trường khi triển khai dự án trên thực tiễn. Việc xem xét, phê duyệt
dự án và hoạt động có phát thải khí phải căn cứ vào sức chịu tải của môi trường,
bảo đảm không có tác động xấu đến con người và môi trường.
Đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường gồm: Dự án thuộc
thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ; Dự án có sử dụng đất của khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, khu
12
di tích lịch sử – văn hóa, khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, khu danh lam
thắng cảnh đã được xếp hạng; Dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường3.
Chủ dự án thuộc đối tượng quy định tự mình hoặc thuê tổ chức tư vấn thực
hiện đánh giá tác động môi trường và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả
thực hiện đánh giá tác động môi trường. Việc đánh giá tác động môi trường phải
thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị dự án.
Kết quả thực hiện đánh giá tác động môi trường thể hiện dưới hình thức báo
cáo đánh giá tác động môi trường. Chi phí lập, thẩm định báo cáo đánh giá tác động
môi trường thuộc nguồn vốn đầu tư dự án do chủ dự án chịu trách nhiệm.
Tuy nhiên, hiện nay Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 không quy định
riêng, rõ ràng, yêu cầu bắt buộc về đánh giá tác động môi trường không khí.
1.2.2.
Trách nhiệm trong việc quản lý, xử lý chất thải trong quá trình
sản xuất.
Vấn đề quản lý, xử lý chất thải trong quá trình sản xuất không chỉ là trách
nhiệm của doanh nghiệp xả thải mà còn là trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan có
thẩm quyền theo quy định pháp luật.
Pháp luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định, Ủy ban nhân dân các cấp trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm sau: Lập, phê duyệt, tổ chức
thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật xử lý chất thải trên địa bàn. Đầu tư xây dựng,
tổ chức vận hành công trình công cộng phục vụ quản lý chất thải trên địa bàn. Ban
hành, thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho hoạt động quản lý chất thải theo quy
định của pháp luật4.
Chủ đầu tư khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao trong quản lý
chất thải có trách nhiệm: Bố trí mặt bằng tập kết chất thải trong phạm vi quản lý.
Xây dựng và tổ chức vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung. (Điều 89 Luật
bảo vệ môi trường 2014).
3 Điều 18 Luật bảo vệ môi trường 2014
4 Điều 88 Luật bảo vệ môi trường 2014;
13
Đối với chất thải nguy hại5, chủ nguồn thải chất thải nguy hại phải lập hồ sơ
về chất thải nguy hại và đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường cấp tỉnh. Tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện và có giấy phép mới được xử lý
chất thải nguy hại. Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định danh mục chất thải nguy
hại và cấp phép xử lý chất thải nguy hại. Chủ nguồn thải chất thải nguy hại phải tổ
chức phân loại, thu gom, lưu giữ và xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường;
trường hợp chủ nguồn thải chất thải nguy hại không có khả năng xử lý chất thải
nguy hại đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường phải chuyển giao cho cơ sở có giấy
phép xử lý chất thải nguy hại. Chất thải nguy hại phải được lưu giữ trong phương
tiện, thiết bị chuyên dụng bảo đảm không tác động xấu đến con người và môi
trường. Chất thải nguy hại phải được vận chuyển bằng phương tiện, thiết bị chuyên
dụng phù hợp và được ghi trong giấy phép xử lý chất thải nguy hại. Chất thải nguy
hại được vận chuyển sang nước khác phải tuân thủ các điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Đối với quản lý chất thải rắn thông thường6, Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân phát sinh chất thải rắn thông
thường có trách nhiệm phân loại chất thải rắn thông thường tại nguồn để thuận lợi
cho việc tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý. Chất thải rắn thông
thường phải được thu gom, lưu giữ và vận chuyển đến nơi quy định bằng phương
tiện, thiết bị chuyên dụng.
Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm tổ chức thu
gom, lưu giữ và vận chuyển chất thải rắn thông thường trên địa bàn quản lý.
Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có
phát sinh chất thải rắn thông thường có trách nhiệm tái sử dụng, tái chế, thu hồi
năng lượng và xử lý chất thải rắn thông thường. Trường hợp không có khả năng tái
sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý chất thải rắn thông thường phải
chuyển giao cho cơ sở có chức năng phù hợp để tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng
lượng và xử lý.
5 Điều 90, 91, 92 Luật bảo vệ môi trường 2014
6 Điều 95, 96, 97 Luật bảo vệ môi trường 2014
14
Đối với quản lý, xử lý nước thải7, Nước thải phải được thu gom, xử lý bảo
đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường.Nước thải có yếu tố nguy hại vượt ngưỡng quy
định phải được quản lý theo quy định về chất thải nguy hại. Đô thị, khu dân cư tập
trung phải có hệ thống thu gom riêng nước mưa và nước thải.
Nước thải của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải được thu gom, xử lý
đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải được quản
lý theo quy định của pháp luật về quản lý chất thải rắn; bùn thải có yếu tố nguy hại
vượt ngưỡng quy định phải được quản lý theo quy định của pháp luật về chất thải
nguy hại.
Chủ quản lý hệ thống xử lý nước thải phải thực hiện quan trắc định kỳ nước
thải trước và sau khi xử lý. Số liệu quan trắc được lưu giữ làm căn cứ để kiểm tra
hoạt động của hệ thống xử lý nước thải. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy
mô xả thải lớn và có nguy cơ tác hại đến môi trường phải tổ chức quan trắc môi
trường nước thải tự động và chuyển số liệu cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Đối với quản lý, kiểm soát, xử lý bụi và khí thải, Tổ chức, cá nhân hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát tán bụi, khí thải phải kiểm soát và xử lý bụi,
khí thải bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Phương tiện giao thông, máy móc,
thiết bị, công trình xây dựng phát tán bụi, khí thải phải có bộ phận lọc, giảm thiểu
khí thải, thiết bị che chắn hoặc biện pháp khác để giảm thiểu bụi bảo đảm quy
chuẩn kỹ thuật môi trường. Bụi, khí thải có yếu tố nguy hại vượt ngưỡng quy định
phải được quản lý theo quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.
Tổ chức, cá nhân gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải kiểm soát, xử
lý bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
trong khu dân cư gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải thực hiện biện pháp
giảm thiểu, không làm ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư. Tổ chức, cá nhân quản lý
tuyến đường có mật độ phương tiện tham gia giao thông cao gây tiếng ồn, độ rung,
ánh sáng, bức xạ phải có biện pháp giảm thiểu, đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi
trường. Cấm sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, kinh doanh và sử dụng pháo nổ. Việc
7 Điều 99,100,101 Luật bảo vệ môi trường 2014
15
sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, kinh doanh và sử dụng pháo hoa theo quyết định
của Thủ tướng Chính phủ8.
1.2.3.
Các biện pháp xử lý các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường
Tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, gây ô nhiễm, suy
thoái, sự cố môi trường, gây thiệt hại cho tổ chức và cá nhân khác, có trách nhiệm
khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường, bồi thường thiệt hại và xử lý theo quy
định của Luật này và pháp luật có liên quan.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ,
quyền hạn gây phiền hà, nhũng nhiễu cho tổ chức, cá nhân, bao che cho người vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hoặc thiếu trách nhiệm để xảy ra ô nhiễm, sự
cố môi trường thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định
của pháp luật. (Điều 160 Luật bảo vệ môi trường 2014)
Luật Bảo vệ môi trường 2014 chỉ quy định mang tính nguyên tắc về xử phạt
vi phạm hành chính do hành vi làm ô nhiễm môi trường. Hiện nay, chưa có văn bản
hướng dẫn Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 về vấn đề này. Tuy nhiên, vấn đề này
đã được ghi nhận trong Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số
155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường. Theo đó hình thức xử phạt hành chính do vi phạm pháp luật,
gồm: cảnh cáo, phạt tiền và các hình thức xử phạt bổ sung khác.
Bên cạnh đó, các chủ thể vi phạm còn có thể bị áp dụng các hình thức xử
phạt bổ sung, như: Đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm môi trường của cơ sở từ 03
tháng đến 06 tháng; Đình chỉ hoạt động của cơ sở từ 06 tháng đến 12 tháng; Ngoài
ra các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật môi trường còn bị áp dụng các biện pháp
khắc phục hậu quả, như: Buộc phải thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô
nhiễm môi trường và báo cáo kết quả đã khắc phục xong hậu quả vi phạm trong thời
hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành
chính đối với các vi phạm quy định tại Điều này gây ra; Buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại
8 Điều 102, 103 Luật bảo vệ môi trường 2014
16
Điều này; Buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, kiểm định, đo đạc và phân tích
mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về xả chất thải vượt quy chuẩn kỹ
thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định mức, đơn giá hiện hành
đối với các vi phạm quy định tại Điều này.(Điều 15 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP
ngày 18/11/2016).
Những quy định này là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật môi trường. Tuy nhiên, trên thực tiễn áp dụng xử
lý vi phạm hành chính do hành vi làm ô nhiễm môi trường vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu bảo vệ môi trường trong bối cảnh hiện nay. Bởi: hoạt động xả, thải, gây ô
nhiễm môi trường của các doanh nghiệp ngày càng tinh vi, nên việc xác định hành
vi xả, thải làm ô nhiễm môi trường là không dễ dàng; Mặt khác sự buông lỏng trách
nhiệm quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thực hiện nhiệm vụ
của mình cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả thực hiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm
môi trường.
Để đảm bảo tính răn đe mạnh mẽ hơn nhằm phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm
môi trường, ngoài trách nhiệm hành chính, theo pháp luật Việt Nam cá nhân, pháp
nhân có hành vi vi phạm pháp luật môi trường có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Chủ thể gây ô nhiễm môi trường thì tùy theo tính chất mà mức độ của hành
vi mà bị xử lý hành chính hoặc hình sự. Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý
nghiêm khắc nhất được áp dụng đối với cá nhân, pháp nhân có hành vi vi phạm
pháp luật môi trường gây hậu quả nghiêm trọng.
Tại điều 235 Bộ luật hình sự 2015 quy định rõ về tội gây ô nhiễm môi
trường.
“5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như
sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền
từ 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền
từ 5.000.000.000 đến 10.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ
06 tháng đến 03 năm;
17
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền
từ 500.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị
đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
500.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định
từ 01 năm đến 03 năm”.
Đối với cá nhân trong doanh nghiệp có hành vi phạm tội gây ô nhiễm môi
trường thì căn cứ theo quy định tại Điều 235 Bộ luật hình sự 2015, có thể bị xử lý
như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ
100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường chất thải nguy hại hoặc chất hữu cơ khó
phân hủy cần phải loại trừ theo quy định tại Phụ lục A Công ước Stockholm về các
chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy trái quy định của pháp luật từ 3.000 kilôgam đến
dưới 5.000 kilôgam;
b) Xả thải ra môi trường từ 5.000 mét khối (m3)/ngày đến dưới 10.000 mét
khối (m3)/ngày nước thải có các thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ
thuật về chất thải từ 10 lần trở lên;
c) Xả nước thải ra môi trường có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi
trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 02 lần đến dưới 04 lần;
d) Xả ra môi trường từ 5.000 mét khối (m3)/ngày đến dưới 10.000 mét khối
(m3)/ngày nước thải có độ PH từ 0 đến dưới 2 hoặc từ 12,5 đến 14;
đ) Thải ra môi trường từ 300.000 mét khối (m3)/giờ đến dưới 500.000 mét
khối (m3)/giờ bụi, khí thải vượt quá quy chuẩn kỹ thuật về chất thải 10 lần trở lên;
e) Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường chất thải rắn thông thường trái quy định
của pháp luật từ 200.000 kilôgam đến dưới 500.000 kilôgam;
g) Chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ môi trường thuộc nguồn
phóng xạ loại có mức độ nguy hiểm trung bình theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về