BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG
ĐỀ TÀI: Tảo hôn – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp
LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội Việt Nam ngày càng phát triển với những chuyển mình to lớn trong tất cả các lĩnh vực Kinh Tế – Văn Hóa – Xã Hội. Đi đôi với nó, Nhà nước ta luôn đưa ra những chủ trương chính sách nhằm xây dựng đất nước ngày càng tiến bộ hơn. Một trong những chủ trương quan trọng là xây dựng chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, văn minh, hạnh phúc, bảo vệ tốt quyền lợi bà mẹ và trẻ em, xóa bỏ những hủ tục lạc hậu về hôn nhân và gia đình nhằm đưa các quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình vào khuôn khổ pháp lý nhất định, vừa đảm bảo được bản chất của hôn nhân chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa đảm bảo trật tự kỷ cương của xã hội.
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn tồn tại những cuộc hôn nhân vi phạm các điều kiện kết hôn, đặc biệt là vi phạm độ tuổi kết hôn, còn được gọi là tảo hôn.
Cho con cái kết hôn ngay từ tuổi vị thành niên là một tập tục cổ xưa phương Đông. Tập tục này thấy được rất rõ ở Trung Quốc, Mông Cổ, Ấn Độ và Việt Nam. Với người phương Đông xưa, trong hôn nhân và gia đình, tình yêu đóng vai trò thứ yếu. Nam nữ kết hôn phần nhiều không phải vì yêu nhau, và có yêu nhau cũng chưa chắc đã lấy được nhau, trong quá trình ở với nhau bền vững hơn những tình cảm ngẫu nhiên ban đầu. Tuy nhiên, mỗi nước có cách thức, quan niệm và đối xử khác nhau về việc tảo hôn. Riêng ở Việt Nam, từ năm 1945 Nhà nước ta đã nghiêm cấm việc tảo hôn và điều này đã được cụ thể hóa trong luật Hôn nhân và gua đình năm 1959: “Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ” (Điều 3), các luật hôn nhân và gia đình năm 1986, 2000 và hiện tại là 2014 đều có quy định về vấn đề này.
Để hiểu rõ hơn về vấn nạn tảo hôn ở Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp. Em xin lựa chọn đề tài số 7: “Tảo hôn – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp để nghiên cứu. Trong qua trình làm bài không tránh khỏi thiếu sót, em kính mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài làm được hoàn thiện hơn!
NỘI DUNG
Khái niệm tảo hôn
Xét ở góc độ xã hội, tảo hôn là việc hai bên nam nữ chưa đủ tuổi kết hôn theo luật định, nhưng đã chung sống với nhau như vợ chồng và không đăng ký kết hôn. Xét ở góc độ pháp lý, theo khoản 8 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia dình 2014: “Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật này”.
Như vậy, về mặt pháp lý tảo hôn phải thoả mãn 2 điều kiện: đó là 2 bên nam nữ có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện độ tuổi quy định tại khoản 1, điều 8 luật hôn nhân và gia đình 2014.
Theo khoản 1 điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định độ tuổi kết hôn: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. Ở Việt Nam mỗi thời kỳ khác nhau quy định về độ tuổi kết hôn khác nhau. Sở dĩ pháp luật có quy định khác nhau về độ tuổi kết hôn giữa nam và nữ đều xuất phát từ các nghiên cứu khoa học. Mục đích chính của việc quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu ở đây là để đảm bảo sức khỏe cho nam và nữ, đồng thời bảo đảm cho họ có đủ khả năng nhận thức để thực hiện trách nhiệm làm cha, làm mẹ, làm vợ, làm chồng của mình, đảm bảo cho cuộc sống của gia đình được ấm no, hạnh phúc và lâu dài. Ngoài ra việc quy định độ tuổi tối thiểu trong việc kết hôn nhằm đảm bảo cho con cái của vợ chồng sinh ra được khỏe mạnh và phát triển tốt cả về thể chất lẫn trí tuệ. Bên cạnh đó việc quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu của nữ giới là từ đủ 18 tuổi để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ sau khi kết hôn (quyền yêu cầu ly hôn, quyền tự quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân,…).
Tảo hôn không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây ra hậu quả rất lớn đối với cá nhân, gia đình và xã hội; làm gia tăng nhanh số lượng và giảm chất lượng dân số, trực tiếp ảnh hưởng đến việc chăm sóc, giáo dục trẻ em. Tảo hôn ảnh hưởng trực tiếp đến thể chất, tâm sinh lý, sức khỏe sinh sản của người phụ nữ, nhất là trẻ em gái. Bởi chưa đủ tuổi trưởng thành, cơ thể phát triển chưa hoàn thiện, việc quan hệ tình dục sớm, mang thai, sinh đẻ, nuôi con sớm làm chậm quá trình phát triển thể chất tự nhiên của con người, dẫn tới thoái hóa và các di chứng bệnh tật, làm suy kiệt sức khỏe của bố, mẹ và con.
Căn cứ xác định tảo hôn là hình thức hôn nhân trái pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành
Khi kết hôn, các bên nam nữ phải tuân thủ các điều kiện được pháp luật quy định, không vi phạm các trường hợp cấm thì hôn nhân mới được coi là hợp pháp. Điều đó có nghĩa là, chỉ khi tuân thủ các điều kiện kết hôn, thì cuộc hôn nhân mới có giá trị pháp lý, giữa các bên mới phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng đúng nghĩa. Nếu các bên nam, nữ quyết định kết hôn mà không tuân thủ các quy định của pháp luật thì hôn nhân sẽ không được cơ quan có thẩm quyền công nhận.
Tảo hôn là một trường hợp của kết hôn trái pháp luật mà theo khoản 5 Điều 3 luật hôn nhân và gia đình 2014: “Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này.”
Như vậy, kết hôn trái luật được hiểu là việc hai bên nam, nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng một trong hai bên hoặc cả hai bên nam, nữ không đáp ứng được các điều kiện kết hôn về độ tuổi, về ý chí của các bên, về năng lực hành vi dân sự, hành vi kết hôn bị cấm theo quy định của pháp luật. Khi việc kết hôn được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân mới được coi là hợp pháp và được nhà nước công nhận và bảo vệ. Ngược lại, khi vi phạm các điều kiện kết hôn (ngay cả khi được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn) thì cuộc hôn nhân đó vẫn bị coi là bất hợp pháp, trái pháp luật.
Độ tuổi là một trong những điều kiện để xem xét việc kết hôn của hai bên có trái pháp luật hay không. Theo quy định trên thì khi một bên nam không đủ 20 tuổi, hoặc nữ không đủ 18 tuổi, hoặc cả hai bên nam nữ đều không đủ độ tuổi trên mà vẫn tiến hành kết hôn thì đó là kết hôn trái pháp luật. hành vi kết hôn trái pháp luật này là một trong những hành vi mà pháp luật cấm theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 5, Luật Hôn nhân gia đình 2014.
Do đó, táo hôn là một trong những hình thức hôn nhân trái pháp luật, cụ thể ở đây là vi phạm điều kiện về độ tuổi.
Xử lý hành vi tảo hôn theo quy định của pháp luật
Theo quy định của Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014, tảo hôn là một trong những hành vi bị cấm. Tùy theo mức độ vi phạm đối với từng trường hợp cụ thể có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp bị xử phạt vi phạm hành chính: Điều 47 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định về hành vi tảo hôn và tổ chức tảo hôn như sau: “Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn; Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó”.
Như vậy, về hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn bị xử phạt vi phạm hành chính trong 2 trường hợp:
Tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn;
Hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó.
Trường hợp đã bị xử phạt hành chính mà vẫn tiếp tục quan hệ vợ chồng trái pháp luật thì theo Điều 184 Bộ luật hình sự 2015 quy định: “Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.”
Như vậy, hình phạt nặng nhất đối với tội tảo hôn là truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thực trạng nạn tảo hôn đang diễn ra hiện nay
Trong những năm trở lại đây, cùng với việc ban hành các đạo luật về hôn nhân gia đình, Nhà nước đã không ngừng phổ biến, tuyên truyền rộng rãi quy định của pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng; treo băng rôn, khẩu hiệu, tranh cổ động để nâng cao hiểu biết người dân từ đó nâng cao ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật về độ tuổi kết hôn cũng như kế hoạch hóa gia đình. Nhiều người đã hiểu rõ và thay đổi quan điểm về thủ tục lạc hậu, chấp hành tốt quy định của pháp luật.
Tỉnh Yên Bái, một địa phương tiêu biểu về vấn nạn tảo hôn cũng đạt được nhiều tiến bộ. Thông qua Dự án “Can thiệp làm giảm tình trạng tảo hôn và kết hôn cận huyết thống” triển khai ở 15 xã thuộc 4 huyện Văn Chấn, Văn Yên, Trạm Tấu và Mù Cang Chải, đồng bào đã được nâng cao nhận thức về tác hại của việc tảo hôn và kết hôn cận huyết thống. Nhờ đó, số cặp tảo hôn đã giảm từ 31,1% (năm 2011) xuống 22,2% (năm 2013). Năm 2014, số cặp tảo hôn còn 77 trường hợp. Sáu tháng đầu năm 2015, chỉ có 31 trường hợp tảo hôn.
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình phổ biến pháp luật, nhưng tình trạng tảo hôn vẫn còn khá nhức nhói và diễn biến phức tạp. Kết quả điều tra năm 2015 của Ủy ban Dân tộc về vấn đề tảo hôn tại Việt Nam cho thấy, tình trạng tảo hôn xảy ra ở 63 tỉnh thành trên cả nước, đặc biệt các dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng khó khăn chiếm tỉ lệ tảo hôn cao nhất. Điều này làm giảm chất lượng dân số tương lai, đe dọa nghiêm trọng tính mạng và sức khỏe của các em gái và trẻ sơ sinh. Theo kết quả điều tra thực trạng kinh tế – xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2015, do Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê phối hợp thực hiện, tỷ lệ tảo hôn chung trong các DTTS là 26.6%, tỷ lệ tảo hôn cao nhất thuộc các Dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội rất khó khăn như: Mông 59,7%; Ơ Đù 73%, La Ha 52,7%.
Theo số liệu điều tra của Vụ gia đình (Uỷ ban Dân số – Gia đình và Trẻ em) cho thấy 15 tỉnh, thành phố cả nước có trên 1% trẻ em ở độ tuổi 14 – 16 đã có vợ chồng. Các tỉnh có tỷ lệ trẻ em tảo hôn cao như Hà Giang: 5,72%, Cao Bằng: 5,1%, Lào Cai 2,7%, Sơn La 2,6%, Quảng Trị 2,4% và Bạc Liêu 2,1%. Những địa phương trên có đến 22% tỷ lệ kết hôn không đăng ký vi phạm Luật Hôn nhân và Gia đình, phần lớn các cặp vợ chồng kết hôn trước tuổi luật định. Theo kết quả điều tra có 30,7% đối tượng kết hôn ở độ tuổi dưới 19, có 0,2% đối tượng kết hôn khi mới 9 tuổi, 0,3% đối tượng kết hôn k hi 14 tuổi, 1,0% kết hôn khi 15 tuổi, 3,3% kết hôn khi 16 tuổi, 5,8% kết hôn khi 17 tuổi và 15,6% kết hôn khi 18 tuổi.
Báo cáo cho biết: Từ năm 2015 đến tháng 8/2017 trên địa bàn toàn tỉnh số người tảo hôn là 1.771 người, trong đó: Năm 2015 là 566 người; 2016 là 776 người; 8 tháng năm 2017 là 429 người. Trong số 1.771 người tảo hôn, nam giới chiếm tỷ lệ trên 32%; nữ giới chiếm trên 67%.
Trung du miền núi phía Bắc là các tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao hơn so với các vùng khác trong cả nước. Trong độ tuổi từ 10-17 tuổi, cứ 10 em trai thì có 1 em có vợ, 5 em gái có 1 em có chồng. Các tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao là Lai Châu, Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng. Theo phong tục của nhiều dân tộc, trẻ em khi đến 14-15 tuổi hoặc thậm chí sớm hơn đã đến tuổi dựng vợ, gả chồng. Cha mẹ hai bên sẽ làm lễ ăn hỏi rồi làm lễ ăn hỏi cho con. Nếu bị chính quyền địa phương biết và can thiệp, họ sẽ xin khất để đến khi đủ tuổi sẽ làm thủ tục đăng ký kết hôn.
Ở Sơn La, nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào người Mông, nạn tảo hôn vẫn chưa được xóa bỏ do vẫn còn tồn tại tục cướp vợ. Nhiều trẻ em mới 12 tuổi dã được gia đình tổ chức cướp vợ. Qua khảo sát của Ngành tư pháp tỉnh Sơn La thì có 47.655 trường hợp các cặp vợ chồng sống với nhau mà không đăng ký kết hôn (phần lớn là tảo hôn).
Tại khu vực Tây Nguyên, nạn tảo hôn cũng là một hiện tượng phổ biến. Theo Ủy ban dân số – gia đình và trẻ em huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng, toàn huyện có 14 xã nhưng xã nào cũng có tình trạng tảo hôn, xã vùng sâu có tỷ lệ cao hơn. Tổng số cặp vợ chồng tảo hôn của tỉnh là 213 cặp. Tại Kon Tum, nơi có tỷ lệ đồng bào thiểu số là 53% cũng có tới 269 cặp vợ chồng tảo hôn. Tỉnh Gia Lai có tới 974 cặp vợ chồng kết hôn khi chưa đủ tuổi theo quy định của pháp luật.
Không riêng gì các tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ hay Tây Nguyên, tại các khu vực đồng bằng thành thị, tình trạng tảo hôn vẫn còn diễn ra rải rác. Tại An Giang có 185 cặp vợ chồng tảo hôn, tại Đồng Tháp có 179 cặp, Ninh Thuận 76 cặp.
Ngay cả 2 trung tâm kinh tế hàng đầu là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn các cặp đôi tảo hôn với con số lần lượt là 42 và 37 cặp. Từ các số liệu nêu trên, có thể thấy, vấn nạn tảo hôn vẫn còn diễn ra hầu khắp các địa phương trong cả nươc, từ Bắc vào Nam, từ thành phố đến nông thôn, từ miền núi đến đồng bằng.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tảo hôn
Nguyên nhân khác quan
Thứ nhất, là do ảnh hưởng của những quan niệm, thành kiến, phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu.
Từ thời xa xưa, phong tục tập quán của mỗi dân tộc, những nét đặc sắc riêng của dân tộc Việt Nam đã được ông cha ta gìn giữ và lưu truyền từ đời này qua đời khác. Đối với những người dân tộc thiểu số thì họ càng chỉ biết đến phong tục của dân tộc mình và không để ý hoặc có khi là không biết đến những nguyên tắc, những chuẩn mực sống của xã hội. Phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số tồn tại và ăn sâu trong nhận thức của họ từ nhiều đời nay và chi phối mạnh mẽ đến cuộc sống hằng ngày của họ. Đặc biệt, hôn nhân và gia đình là vấn đề bị ảnh hưởng nặng nề từ phong tục, tập quán, một số tập tục từ lâu đời vẫn còn duy trì đến bây giờ. Đối với họ, việc kết hôn chủ yếu được thực hiện theo phong tục, tập quán và theo sự sắp đặt của cha, mẹ. Việc lấy chồng, lấy vợ chỉ cần có sự chứng kiến của hai bên cha, mẹ và sự chứng kiến của họ hàng, làng xóm. Quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy vẫn còn tồn tại trong ý nghĩ của người dân hiện nay. Theo họ, hôn nhân không xuất phát từ tình yêu. Cứ lấy nhau về, chung sống với nhau, từ đó sẽ nảy sinh tình cảm. Các đồng bào dân tộc thiểu số đã từng có những phong tục tập quán là những nét đẹp văn hóa. Ví dụ, tục bắt vợ của dân tộc Mông đã từng là một nét văn hóa đặc sắc, riêng biệt của người dân tộc Mông, được nhiều người khám phá, tìm hiểu và thích thú với phong tục này. Bên cạnh những bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc, từng cộng đồng, cũng tồn tại một số phong tục tập quán còn mang tính lạc hậu, trong đó có những tập quán về hôn nhân có ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến tình trạng tảo hôn trong đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện nay, tục bắt vợ đã kéo theo nhiều hệ lũy, mà điển hình nhất là nạn tảo hôn. Kết hôn sớm làm mất đi cơ hội về học tập, việc làm tốt, cơ hội cải thiện đời sống và chăm sóc sức khỏe của người trẻ tuổi, bà mẹ, trẻ em, đặc biệt là ảnh hưởng tới tỉ lệ tử vong, tỉ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi của trẻ em, dẫn tới ảnh hưởng đến thế hệ tương lai.
Ở một số địa phương, cộng đồng người dân vẫn kết hôn theo độ tuổi trong tập quán dẫn tới tình trạng tảo hôn vẫn còn tồn tại trong cộng đồng này. Thực tế cho thấy, mặc dù đã được tuyên truyền pháp luật về hôn nhân và gia đình, bà con hiểu được những quy định của pháp luật về độ tuổi kết hôn, song do phong tục tập quán lạc hậu đã đi vào cuộc sống của người dân từ rất lâu đời, các gia đình “dựng vợ, gả chồng” cho con của họ từ rất sớm nên tình trạng tảo hôn vẫn diễn ra. Vì chưa đủ tuổi theo luật định, nên việc đăng ký kết hôn không được thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng hai bên gia đình vẫn tổ chức đám cưới theo phong tục; họ hàng hai bên, cộng đồng dân cư của cả bản vẫn mặc nhiên công nhận đó là một cặp vợ chồng.
Thứ hai, do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế – xã hội và đô thị hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, con người dần biến đổi để thích nghi với những điều kiện mới. Quan điểm sống của họ cũng trở nên cởi mở, đơn giản hơn, không bị gò bó bởi những quan niệm, thành kiến đạo đức xưa. Giới trẻ ngày nay rất “thoáng” trong vấn đề hôn nhân và tình cảm. Họ dễ dàng thiết lập các mối quan hệ với nhau. Một trong những hệ lụy đó là việc chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ là chuyện hết sức bình thường.
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, về giáo dục:
Giáo dục là một yếu tố quan trọng nhất, phổ biến nhất làm ảnh hưởng tới tảo hôn. Ở các nước đang phát triển trên thế giới, số trẻ đi học ngày càng tăng trong suốt những năm qua. Giáo dục có liên quan mật thiết với tảo hôn, liên quan đến cơ hội cho các thanh, thiếu niên học tiếp ở bậc trung học cơ sở hay trung học phổ thông hoặc bậc cao hơn nữa. Tuy đã đạt được những thành tựu nhất định về phổ cập giáo dục tiểu học, nhưng đối với vùng dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn, tiếp cận giáo dục vẫn đang là một thách thức lớn đặt ra với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tại các nước đang phát triển, nhiều trẻ em không đến trường, kể cả bậc tiểu học, là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tảo hôn với tỉ lệ cao. Hơn nữa, giáo dục làm hẹp phạm vi kết hôn của phụ nữ, bởi lẽ nhìn chung, phụ nữ mong muốn kết hôn được với người đàn ông ít nhất là có sự giáo dục tương đương với họ. Mặt khác, phụ nữ (hoặc đàn ông) có nền giáo dục tốt hơn sẽ nhận thức tốt hơn về vấn đề kết hôn, về luật pháp, về khả năng sinh sản và sức khỏe. Điều này làm ảnh hưởng lớn tới quyết định kết hôn của họ, khuyến khích họ trì hoãn kết hôn và mang thai.
Nạn tảo hôn đối với tuổi học đường cũng có nguồn cơn từ nhà trường. Nhiều nhà trường ở vùng cao đã không chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh một cách thường xuyên.
Điều đó đã không tác động tích cực vào nhận thức của học sinh về hôn nhân, gia đình và sức khỏe sinh sản. Đồng thời, hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở nhiều nhà trường còn đơn điệu, chưa khéo léo lồng ghép kiến thức về hôn nhân gia đình trong các hoạt động ngoại khóa.
Nhiều nhà trường quan niệm rằng, nếu nói nhiều, khuyên bảo nhiều, dạy cách phòng tránh nhiều thì không khác gì “vẽ đường cho hươu chạy”. Nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao và các phong trào để tạo sân chơi bổ ích, mang tính giáo dục cao cho học sinh ở nhiều nhà trường còn thiếu hoặc chưa sôi nổi.
Thứ hai, do hoạt động tuyên truyền pháp luật đến các địa phương, đặc biệt là đến vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn còn gặp nhiều hạn chế và chưa được phổ biến.
Tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người dân là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt là công tác tuyên truyền về vấn đề dân số kế hoạch hóa gia đình. Nhưng công tác tuyên truyền gặp nhiều khó khăn do trình độ nhận thức của người dân có nhiều chênh lệch. Ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, họ không biết tiếng kinh nên rất khó để tiếp thu được những chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng cũng làm khó khăn cho công tác tuyên truyền vì ở những vùng giao thông đi lại hết sức khó khăn. Ngoài ra, công tác tuyên truyền không đạt hiệu quả cao một phần do đội ngũ tuyên truyền không nhiệt tình.
Thứ ba, do sự can thiệp của chính quyền địa phương đối với các trường hợp tảo hôn còn chưa mạnh mẽ, thiếu kiên quyết, thậm chí việc tảo hôn còn diễn ra ngay trong gia đình của những cán bộ đứng đầu chính quyền địa phương.
Tại xã Nậm Có, huyện Mù Căng Chải, tỉnh Yên Bái chính chủ tịch xã lại đồng tình với lệ tảo hôn mà không ai khác chính ông là bố của chú rể ” tảo hôn”, đối với những trường hợp vi phạm như vậy, UBND xã tiến hành lập biên bản và xử phạt hành chính, nhưng nộp phạt xong rồi họ sẽ tiếp tục ở với nhau. Có trường hợp sau khi bị cấm, người phụ nữ đã tìm đến cái chết bằng lá ngón nên chính quyền xã cũng thôi, không cấm nữa. Việc loại bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu nói chung, loại bỏ tục tảo hôn nói riêng ra khỏi xã hội sẽ có hiệu quả cao hơn nếu có sự nhiệt tình can thiệp của chính quyền địa phương một cách mạnh mẽ và kiên quyết.
Hậu quả của nạn tảo hôn gây ra
Về sức khỏe: Trước hết, việc kết hôn sớm ảnh hưởng đến thể chất của các em, nhất là các em gái. Tảo hôn sẽ làm cho sức khỏe của trẻ em bị ảnh hưởng đặc biệt là trẻ em gái dưới độ tuổi 15 mang thai sẽ có nguy cơ chết do mang thai và sinh đẻ cao so với phụ nữ trên 20 tuổi. Những đứa trẻ có mẹ dưới 18 tuổi có nhiều khả năng nhẹ cân hoặc chết non hơn những đứa trẻ khác. Đây chính là sự cảnh báo thầm lặng về sức khỏe, bởi các nguyên nhân cốt lõi của tử vong và bệnh tật của người mẹ không được quan tâm đúng mức. Khi chưa đủ tuổi trưởng thành, cơ thể chưa phát triển hết, việc quan hệ tình dục sớm, mang bầu, rồi nuôi con khiến sự phát triển đầy đủ của người phụ nữ bị chậm lại, thoái hóa. Nhiều trường hợp để lại di chứng nặng nề, thậm chí có nhiều trường hợp tử vong. Bên cạnh đó, việc nuôi con thiếu hiểu biết cũng như ý thức trách nhiệm chưa có khiến đứa trẻ bị suy dinh dưỡng, còi cọc, dễ mắc bệnh…
Về môi trường giáo dục: Trẻ em buộc phải kết hôn sớm ít khi được tiếp tục việc học hành. Có rất nhiều người đã phải dừng lại việc học tập của mình khi lấy chồng ở tuổi còn đi học. Họ phải lo và chăm sóc cho gia đình, chăm lo cho cuộc sống mới vì vậy không có thời gian dành cho việc hoc. Điều đó cản trở họ có hy vọng về sự độc lập, cản trở họ được học tập, rèn luyện, phấn đấu để trưởng thành tiếp thu những nền giáo dục tiên tiến, hiện đại nhằm phát triển tối đa nhân cách, tài năng, các khả năng về trí tuệ và thể chất. Điều đó cũng có nghĩa là tương lai của họ sẽ không đi về đâu.
Về kinh tế: Tảo hôn khiến khả năng kiếm sống hoặc đóng góp về kinh tế cho gia đình là rất thấp dẫn đến tỷ lệ đói nghèo ngày càng tăng cao.gia đình phải chăm lo sức khỏe cho con nhiều hơn, tốn kém nhiều tiền của hơn và sẽ rất khó thoát khỏi đói nghèo, dòng dõi gia đình sẽ bị thoái hóa, các thế hệ sau ngày càng nhỏ đi, dòng dõi càng ngày càng bị suy thoái.
Không những thế, sau các đám cưới tảo hôn nhiều khi cũng khiến bố mẹ và các gia đình “trẻ con” phải còng lưng trả nợ. Nhiều gia đình phải vay mượn, cầm cố nhà cửa, ruộng nương để làm đám cưới. Xong việc chưa kịp vui mừng đã phải mang trâu, mang thóc đi trả nợ. Có nhà phải bán ruộng rồi kéo nhau đi làm thuê, làm mướn. Đáng buồn hơn có gia đình phải bán cả nhà để trả nợ rồi dắt díu nhau ra bìa rừng dựng lều ở tạm. Một vấn đề nữa là ở những vùng dân tộc, miền núi, đi kèm với nạn tảo hôn là tình trạng đẻ nhiều, đẻ dày. Không hiếm những gia đình bố mẹ mới chỉ ngoài 20 tuổi mà lít nhít 3 – 4 đứa con. Từ vấn nạn này thì chuyện thiếu ăn, thiếu mặc, trẻ con không được đi học, không được chăm sóc đầy đủ về dinh dưỡng, y tế, văn hóa tinh thần là chuyện tất yếu.
Về tinh thần: Khi kết hôn sớm trẻ em sẽ không được nghỉ ngơi và thư giãn, không được tham gia vui chơi, tham gia những hoạt động giải trí và được tự do tham gia các sinh hoạt văn hóa và nghệ thuật phù hợp với lứa tuổi…. Hầu hết cuộc sống của những gia đình trẻ này lâm vào cảnh khó khăn do chưa có kiến thức và hiểu biết để tự lo cho cuộc sống gia đình. Nhiều trường hợp mâu thuẫn, cãi vã, thậm chí đánh đập nhau rồi ai đi đường nấy. Đau lòng hơn, còn có những cặp vợ chồng lấy nhau quá sớm nên sự hiểu biết, suy nghĩ chưa chín chắn. Chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt, hiểu lầm nhau mà dẫn đến việc ăn lá ngón để kết liễu cuộc đời, bỏ lại những đứa con bơ vơ không cha, không mẹ. Bên cạnh đó, phải làm vợ, làm mẹ khi còn quá trẻ, họ chưa phát triển đầy đủ về cả sinh lý và tâm lý, chưa đủ khả năng để chăm sóc con phát triển một cách bình thường, khỏe mạnh, toàn diện khiến không ít các “bà mẹ trẻ” rơi vào tình trạng khủng hoảng dẫn đến trầm cảm.
Về mặt xã hội: Hiện tượng tảo hôn là vi phạm pháp luật về hôn nhân, ảnh hưởng xấu đến cộng đồng.
Tảo hôn có nguy cơ gây hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển xã hội do ảnh hưởng của chất lượng dân số, một xã hội mà tỷ lệ người thiểu năng về thể chất, thiểu năng về trí tuệ, người tàn tật, khuyết tật lớn sẽ là gánh nặng cho xã hội. Nhiều cặp đi đến phá vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của trẻ em.
Đây chính là những ảnh hưởng lớn đối với trẻ em không chỉ hiện tại mà cả tương lai. Vì một tương lai tươi sáng cho các em, để cho các em có được sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần cũng như tâm sinh lý, được tham gia học tập, giao tiếp với với cộng đồng và xã hội… mỗi chúng ta cần phải có những hành động thiết thực như tuyên truyền, vận động cùng với các biện pháp xử lý nghiêm theo các quy định của pháp luật mới có tác dụng vừa giáo dục, vừa dăn đe đối với những trường hợp vi phạm. Có như vậy mới hạn chế thấp nhất tình trạng tảo hôn đang diễn ra hiện nay.
Vấn nạn tảo hôn ở đồng bào dân tộc thiểu số đang là một thực trạng nhức nhối ở một số địa phương. Điều này không những vi phạm pháp luật mà còn để lại những hệ luỵ khó lường đối với cuộc sống của các cặp vợ chồng trẻ. Chính vì vậy, đây là một tập tục lạc hậu cần phải loại bỏ trong đời sống xã hội hiện nay.
Giải pháp
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật trong người dân
Đây là biện pháp quan trọng nhất nhằm đẩy lùi nạn tảo hôn. Để hạn chế được điều này cần:
Thứ nhất, phải đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục các kiến thức về pháp luật, về hôn nhân gia đình, về sức khỏe sinh sản cho người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, người dân ở vùng sâu vùng xa, miền núi, hải đảo. Chính quyền địa phương cần tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng tuyên truyền. Các ban ngành, đoàn thể phải phát huy vai trò của mình trong việc tuyên truyền phòng tránh nạn tảo hôn. Thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục phải mở rộng theo hướng xã hội hóa.
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, cung cấp thông tin, kiến thức pháp luật về hôn nhân và gia đình trong trường học: Đưa nội dung giáo dục giới tính; các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình (như điều kiện về độ tuổi kết hôn, những điều cấm trong hôn nhân…); về tác hại, hậu quả của tảo hôn vào trong chương trình giáo dục ở trường phổ thông trung học và phổ thông dân tộc nội trú. Tăng cường công tác hướng nghiệp, hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt đoàn, đội, câu lạc bộ, tổ, nhóm… trong trường học để tuyên truyền, cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về hôn nhân và gia đình đối với học sinh.
Triển khai các hoạt động phù hợp với các yếu tố về văn hóa, giới tính, lứa tuổi và dân tộc để tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức, vận động xóa bỏ những hủ tục lạc hậu và phòng chống tảo hôn: Tuyên truyền, vận động trực tiếp, trực diện thông qua các điểm truyền thông; qua các hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý miễn phí tại cộng đồng và lưu động tại các bản. Về thực hiện nhiệm vụ này, phòng tư pháp huyện, công chức tư pháp các xã và 8/8 câu lạc bộ pháp lý của 08 xã trên địa bàn huyện cần tập trung huy động nguồn lực, vật lực để thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động và trợ giúp pháp lý. Lồng ghép các hoạt động tuyên truyền, vận động với các hoạt động văn hóa, lễ hội tại cộng đồng, các cuộc họp, hội nghị, sinh hoạt của chính quyền, đoàn thể, các câu lạc bộ, các tổ, nhóm. Phát huy vai trò của người uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số; nêu gương người tốt, việc tốt trong việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình và công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình; tuyên truyền, vận động xóa bỏ những hủ tục lạc hậu tồn tại ở một số dân tộc thiểu số trong hôn nhân.
Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động: Xây dựng và nâng cao năng lực cán bộ truyền thông trên cơ sở là những công chức tư pháp xã, cán bộ, đảng viên là người dân tộc và đội ngũ cộng tác viên dân số bản. Khảo sát, đánh giá, lựa chọn địa bàn, dân tộc và cam kết của địa phương để xây dựng và triển khai thực hiện dự án truyền thông, mô hình can thiệp đối với dân tộc Mông (là dân tộc có tỉ lệ tảo hôn cao nhất huyện).
Thứ hai, phải nâng cao trình độ dân trí cũng như ý thức pháp luật cho người dân. Đây là một giải pháp vừa quan trọng vừa khó khăn nhất. Mọi hủ tục lạc hậu đều xuất phát từ sự kém hiểu biết, đặc biệt ở miền núi, biên giới, vùng sâu vùng xa, nơi có tình trạng tảo hôn diễn ra phổ biến.
Huy động trẻ em đến lớp, bảo đảm 100% trẻ em được phổ cập tiểu học và phổ cập trung học cơ sở.
Đưa các nội dung hướng nghiệp dạy nghề vào nội dung giảng dạy cho học sinh, đặc biệt hướng tới các nghề mà địa bàn huyện đang còn thiếu như sửa chữa xe máy, xây dựng.
Huy động tối đa các nguồn lực: Nguồn lực từ ngân sách nhà nước, nguồn xã hội hóa và các nguồn tài trợ khác, tạo sự đồng thuận trong xã hội cùng chung tay góp phần giảm thiểu tỉ lệ tảo hôn trên địa bàn. Hiện nay, nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cấp cho Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật huyện và công chức tư pháp xã là quá ít để phục vụ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về hôn nhân và gia đình nói riêng.
Cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt là nhân dân miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa.
Theo quan niệm của những người dân miền núi, họ không coi trọng việc học hành, giáo dục mà chỉ quan tâm đến việc kiếm miếng cơm manh áo hàng ngày dẫn đến tình trạng nhiều em bỏ học giữa chừng, thậm chí là bị bố mẹ bắt ở nhà không cho đi học, không cho đến trường, ở nhà làm việc. Đây vừa là nguyên nhân dẫn đến hiểu biết lạc hậu, vừa khiến cho công tác tuyên truyền giáo dục không phát huy hiệu quả đến cùng. Do đó, phải kết hợp giữa nâng cao đời sống vật chất, tinh thần với công tác phổ cập kiến thức.
Thứ nhất, cần có sự triển khai đồng bộ các chính sách phát triển kinh tế gia đình của nhà nước. Song song với đầu tư cho các vùng kinh tế động lực, cần quan tâm đầu tư cho nông thôn. Ưu tiên hỗ trợ cho gia đình người dân chính sách, gia đình đồng bào dân tộc, thiểu số, gia đình nghèo, gia đình vùng sâu vùng xa nhằm xóa bỏ sự chệnh lệch giữa các vùng, nâng cao đời sống nhân dan, xóa bỏ tư tưởng lạc hậu
Thứ hai, phải đảm bảo cho tất cả gia đình dân tộc thiểu số có đất để sản xuấ và việc làm. Góp phần hiệu quả cho công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao hiểu biết về pháp luật.
Thứ ba, đầu tư cơ sở hạ tầng, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Xây dựng và nâng cấp các tuyến đường, các trụ sở văn hóa. Tiếp tục mở các tuyến đường tới các bản, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Xây dựng, nâng cấp một số trường học trên địa bàn, xóa các lớp học tranh tre lứa lá.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung và những quy định về nạn tảo hôn nói riêng.
Cần phải quy định các chế tài xử phạt hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn phù hợp với thực tế. Pháp luật cần giữ nguyên hình thức phạt tiền và tăng mức tiền phạt để hạn chế nạn tảo hôn. Bên cạnh đó, cần phải bổ sung thêm các hình thức xử phạt khác sao cho phù hợp với khả năng thực hiện của địa phương, của đối tượng vi phạm. Các chế tài xử phạt phải nghiêm khắc hơn, có tính chất răn đe mọi đối tượng, tránh tình trạng “nộp phạt chống đối” của người dân.
Ngoài ra, pháp luật cần xây dựng các quy phạm pháp luật quy định danh mục các phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình không được áp dụng; tập hợp các quy phạm pháp luật về các chế tài đối với các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói chung và tảo hôn nói riêng theo một hệ thống văn bản thống nhất, cụ thể. Tránh tình trạng “lách luật”.
KẾT LUẬN
Giảm thiểu tình trạng tảo hôn, đặc biệt trong đồng bào dân tộc thiểu số là một cuộc chiến lâu dài và nhiều thách thức. Để giải quyết vấn đề tảo hôn thì phải đi liền với giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội khác, tuy nhiên không thể nóng vội, mà cần có cách tác động phù hợp, hiệu quả đối với các dân tộc và vùng miền khác nhau, trong đó có cả người Kinh.
Để giải quyết tình trạng tảo hôn, cần phải có sự vào cuộc mạnh mẽ từ các bộ, ngành và các địa phương. Đồng thời, phải có sự tham vấn của các tổ chức quốc tế, các tổ chức xã hội, để chấm dứt tình trạng tảo hôn. Tập trung vào việc tuyên truyền đến các đối tượng không chỉ cha mẹ mà cả trẻ em. Tất cả mọi người cần phải chung tay giúp mang lại ước mơ, hoài bão cho trẻ em.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật Hôn Nhân và gia đình 2014, Nxb. Lao động, Hà Nội.
Bộ luật hình sự 2015, Nxb. Chính trị quốc gí, Hà Nội.
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Thu Hường, Hệ lụy nặng nề do tảo hôn, Báo điện tử gia đình và xã hội, 18/12/2015.
Mai Tâm, Nạn tảo hôn ở Sơn La: Những điều vui buồn, Báo Công an Nhân dân điện tử, 26/08/2012
An Hồng, Tình hình tảo hôn trên địa bàn tỉnh Lào Cai, Đài phát thanh – truyền hình tỉnh Lào Cai
Trung Kiên, Yên Bái nỗ lực giảm tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, Báo dân tộc và miền núi, 14,09,2015.
Nguyễn Thị Vân Anh, Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc – Thực trạng và một số giải pháp, kiến nghị, Tạp chí dân chủ và pháp luật, 27/02/2017.
Phan Hòa, Sớm loại bỏ nạn tảo hôn ở Tây Nguyên, Báo Nhân dân điện tử, 15/07/2015.