11344_Tiểu luận Văn hóa Việt Nam – Tây Nguyên

luanvantotnghiep.com

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay nền kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc ngày càng trở thành trung tâm của sự chú ý. Văn hóa là một lĩnh vực đang ngày càng được quan tâm nghiên cứu nhiều trên thế giới và trong đó văn hóa của Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Nền văn hóa xuất hiện trong mọi mặt của cuộc sống với mối quan hệ hai chiều, mọi lĩnh vực đều mang trong mình tính văn hóa và văn hóa bao trùm mọi lĩnh vực và tác động đến mọi lĩnh vực. 
Chỉ xét riêng về khái niệm “Văn hóa là gì ?”, tuy rằng có những điểm chung nhưng mỗi khu vực, mỗi dân tộc, mỗi tổ chức lại có những định nghĩa khác nhau. Bài tiểu luận này mang tính chất so sánh về văn hóa các vùng trên đất nước Việt Nam, nhằm góp phần nhỏ bé trên con đường nghiên cứu về nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một văn hóa cho sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc toàn diện nhất toàn cầu hóa và hôi nhập, toàn cầu hóa như một tất yếu. Có thể khẳng định: Văn hóa là cốt hồn của dân tộc, một dân tộc, nếu không giữ được bản sắc văn hóa riêng thì dân tộc đó sẽ bị lu mờ thậm chí không còn dân tộc đó nữa. Vì thế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ là trách nhiệm của ngành văn hoá mà còn là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân và toàn xã hội. Tôi quan tâm và chọn đề tài : “ Văn hóa Tây Nguyên” để làm đề tài cho bài tiểu luận này

Mục Lục
I. Tây Nguyên(*)
Theo địa lý hành chính hiện nay, Tây Nguyên gồm có năm tỉnh, kể từ bắc vào nam : Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng.Tây Nguyên là một tiểu vùng, cùng với vùng Duyên hải Nam Trung Bộ hợp thành vùng Nam Trung Bộ, thuộc Trung Bộ Việt Nam. Thời Việt Nam Cộng hòa, nơi đây được gọi là Cao nguyên Trung phần. Hiện nay đôi khi được gọi là Cao nguyên Trung Bộ. Trước đó, thời Bảo Đại làm Quốc trưởng, vùng đất này còn được hưởng quy chế riêng là vùng Hoàng triều Cương thổ.
1. Vị trí địa hình
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,Bình Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía tâygiáp với các tỉnh Attapeu (Lào) và Ratanakiri và Mondulkiri (Campuchia).
(*). Tổng quát về Tây Nguyên – Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2y_Nguy%C3%AAn
Trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế. Tổng diện tích của 5 tỉnh ở đây rộng 54.639 km2.
Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800 m, cao nguyên M’Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 900-1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam).
Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia Lai, trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam.
Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so với mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển tại đây. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ. Và đang tiến hành khai thác Bô xít. Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật đa dạng,
trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng du lịch lớn, Tây nguyên còn được coi là mái nhà của miền trung.
2. Khí hậu
Khí hậu ở Tây Nguyên có hai mùa rõ rệt, mùa khô từ tháng 11 đến giữa tháng 5, và mùa mưa từ cuối tháng 5 đến tháng 10. Đất bazan là loại đất không giữ nước, nước mưa trượt đi trên bề mặt, , trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất, về mùa khô Tây Nguyên gần như hoàn toàn không có nước. Do ảnh hưởng của độ cao nên trong khi ở các cao nguyên cao 400-500 m khí hậu tương đối mát và mưa nhiều, riêng cao nguyên cao trên 1000 m (như Đà Lạt) thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm như vùng ôn đới.
3. Quá trình hình thành của Tây Nguyên
Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số, chưa phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh. Do đất rộng, người thưa, các bộ tộc thiểu số ở đây thỉnh thoảng trở thành nạn nhân trước các cuộc tấn công của vương quốc Champa hoặc Chân Lạp nhằm cướp bóc nô lệ. Tháng 2 năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Chà Bàn, bắt sống vua Chăm Pa là Trà Toàn, sáp nhập 3 phần 5 lãnh thổ Chăm Pa thời đó vào Đại Việt. Hai phần Chăm Pa còn lại, được Lê Thánh Tông chia thành các tiểu quốc nhỏ thuần phục Đại Việt. Phần đất Phan Lung (tức Phan Rang ngày nay) do viên tướng Chăm là Bồ Trì trấn giữ, được vua Lê coi là phần kế thừa của vương quốc Chiêm Thành. Một phần đất nay là tỉnh Phú Yên, Lê Thánh Tông phong cho Hoa Anh vương tạo nên nước Nam Hoa. Vùng đất phía Tây núi Thạch Bi, tức miền bắc Tây Nguyên ngày nay được lập thành nước Nam Bàn, vua nước này được phong là Nam Bàn vương.
Sau khi Nguyễn Hoàng xây dựng vùng cát cứ phía Nam, các chúa Nguyễn ra sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của Champa và cũng phái một số sứ đoàn để thiết lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các bộ tộc thiểu số ở đây dễ dàng chuyển sang chịu sự bảo hộ của người Việt, vốn không có thói quen buôn bán nô lệ. Tuy nhiên, các bộ tộc ở đây vẫn còn manh mún và mục tiêu của các chúa Nguyễn nhắm trước đến các vùng đồng bằng, nên chỉ thiết lập quyền lực rất lỏng lẻo ở đây. Trong một số tài liệu vào thế kỷ 16, 17 đã có những ghi nhận về các bộ tộc Mọi Đá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi, Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi Đá Hàm (Djarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Bồ Van (Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai) và Mọi Bà Rịa (Mạ) để chỉ các bộ tộc thiểu số sinh trú ở vùng Nam Tây Nguyên ngày nay.
Tuy sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn. Thời nhà Tây Sơn, rất nhiều chiến binh thuộc các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung tiến công ra Bắc xuân Kỷ Dậu (1789) . Tây Sơn thượng đạo, vùng đất phía Tây đèo An Khê là một căn cứ chuẩn bị lực lượng cho quân Tây Sơn thủa ban đầu. Người lãnh đạo việc hậu cần này của quân Tây Sơn là người vợ dân tộc Ba Na của Nguyễn Nhạc.
Sang đến triều nhà Nguyễn, quy chế bảo hộ trên danh nghĩa dành cho Tây Nguyên vẫn không thay đổi nhiều, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần lãnh thổ Tây Nguyên vào bản đồ Việt Nam (Đại Nam nhất thống toàn đồ – 1834). Người Việt vẫn chú yếu khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng miền Đông Nam Bộ ngày nay, đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây Nguyên (như trường hợp của bộ tộc Mạ). Trong cuốn Đại Việt địa dư toàn biên, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có viết: Thủy Xá, Hỏa Xá ở ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành. Bấy giờ trong Thượng đạo tỉnh Phú An có núi Bà Nam rất cao. Thủy Xá ở phía Đông núi ấy, … Hỏa Xá ở phía Tây núi ấy, phía Tây tiếp giáp với xứ Sơn Bốc sở nam nước Chân Lạp, phía Nam thì là Lạc man (những tộc người du cư). Phía trên là sông Đại Giang, phía dưới là sông Ba Giang làm giới hạn bờ cõi hai nước ấy…..
Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó, các nhà truyền giáo đã đi tiên phong lên vùng đất còn hoang sơ và chất phác này.
Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayréna sang Đông Dương, chọn Dakto làm vùng đất cát cứ và lần lượt chinh phục được các bộ lạc thiểu số. Ông ta thành lập Vương quốc Sedangcó quốc kỳ, có giấy bạc, có cấp chức riêng và tự mình lập làm vua tước hiệu Marie đệ nhất. Nhận thấy được vị trí quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayréna về châu Âu,chính phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn lên “đăng quang” thay Mayresna. Vùng đất Tây Nguyên được đặt dưới quyền quản lý của Công sứ Quy Nhơn. Sau đó vài năm, thì vương quốc này cũng bị giải tán.
Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra cao nguyên Lang Biang. Ông đã đề nghị với chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ mát tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát của triều đình Đại Nam. Vì vậy, năm 1896, khâm sứ Trung kỳ Boulloche đề nghị Cơ mật viện triều Nguyễn giao cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung kỳ. Năm 1898, vương quốc Sedang bị giải tán. Một tòa đại lý hành chính được lập ở Kontum, trực thuộc Công sứ Quy Nhơn. Năm 1899, thực dân Pháp buộc vua Đồng Khánh ban dụ trao cho họ Tây Nguyên để họ có quyền tổ chức hành chính và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số ở đây.
Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer đích thân thị sát Đà Lạt và quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát. Vùng đất cao nguyên Trung kỳ (Tây Nguyên) hoàn toàn thuộc quyền cai trị của chính quyền thực dân Pháp. Năm 1907, tòa đại lý ở Kontum đổi thành tòa Công sứ Kontum, cùng với việc thành lập các trung tâm hành chính Kontum và Cheo Reo. Những thực dân người Pháp bắt đầu lên đây xây dựng các đồn điền đồng thời cũng ngăn cấm người Việt lên theo, trừ số phu họ mộ được. Năm 1917, tại đó, thị xã Đà Lạt được thành lập.
4. Dân cư
Nhiều dân tộc thiểu số chung sống với dân tộc Việt (Kinh) ở Tây Nguyên như Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông… Chính quyền Việt Nam cộng hòa gọi chung những dân tộc này là “đồng bào sắc tộc” hoặc “người Thượng”; “Thượng” có nghĩa là ở trên, “người Thượng” là người ở miền cao hay miền núi, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống trên cao nguyên miền Trung.Năm 1976, dân số Tây Nguyên là 1.225.000 người, gồm 18 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 853.820 người (chiếm 69,7% dân số). Năm 1993 dân số Tây Nguyên là 2.376.854 người, gồm 35 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.050.569 người (chiếm 44,2% dân số). Năm 2004 dân số Tây Nguyên là 4.668.142 người, gồm 46 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.181.337 người (chiếm 25,3% dân số) . Riêng tỉnhĐắc Lắc, từ 350.000 người (1995) tăng lên 1.776.331 người (1999), trong 4 năm tăng 485% . Kết quả này, một phần do gia tăng dân số tự nhiên và phần lớn do gia tăng cơ học: di dân đến Tây nguyên theo 2 luồng di dân kế hoạch và di dân tự do. Người dân tộc đang trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ. Sự gia tăng gấp 4 lần dân số và nạn nghèo đói, kém phát triển và hủy diệt tài nguyên thiên nhiên (gần đây, mỗi năm vẫn có tới gần một nghìn héc-ta rừng tiếp tục bị phá ) đang là những vấn nạn tại Tây Nguyên và thường xuyên dẫn đến xung đột. Theo kết quả điều tra dân số 01/04/2009 dân số Tây Nguyên (gồm 05 tỉnh) là 5.107.437 người, như thế so với năm 1976 đã tăng 3,17 lần , chủ yếu lả tăng cơ học. Hiện nay, nếu tính cả những di dân tự do không đăng ký cư trú với cơ quan chính quyền ước lượng dân số Tây Nguyên thực tế vào khoảng 5,5 đến 6 triệu người.
Trước 1975, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia Cao nguyên Trung Phần thành các tỉnh: Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức và Lâm Đồng với tổng cộng gần một triệu dân với 50% dân số tập trung vào hai tỉnh Darlac và Tuyên Đức. Từ 1976 đến đầu thập niên 1990, Tây Nguyên gồm 3 tỉnh là Gia Lai-Công Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng. Sau đó tỉnh Gia Lai-Công Tum được chia thành hai tỉnh: Gia Lai và Kon Tum (thay đổi cả cách viết chính thức tên tỉnh). Tỉnh Đắc Lắc chia thành hai tỉnh: Đắk Lắk và Đắk Nông.
Hiện tại, địa bàn Tây Nguyên có 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.
II. Văn hóa- phong tục lễ hội
1. Bản sắc văn hóa Tây Nguyên (*)
Là nơi hội tụ nhiều nét văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc Êđê, Jarai, M’nông… cùng với những phong tục, tập quán, lễ hội đã tạo cho Tây Nguyên trở thành vùng văn hóa dân gian đa dạng và đặc sắc.
Các lễ hội của đồng bào dân tộc Tây Nguyên ra đời từ niềm tin mãnh liệt vào thần linh mà họ thường vẫn gọi là Yàng nên mang tính cộng đồng rất cao. Các nghi lễ, lễ hội vừa là những sinh hoạt văn hoá có tác dụng to lớn trong việc củng cố và tăng cường sức mạnh của tình đoàn kết, sự gắn bó của cộng đồng nhưng cũng đồng thời tạo môi trường diễn xướng của nhiều nhạc cụ dân tộc như: K’ni, Brố, đinh Tăk Tà, đinh Tút, đinh Năm… Ở đây có những nghi lễ, lễ hội đặc sắc, độc đáo như: lễ trưởng thành, lễ bỏ mả, lễ cúng bến nước, mừng lúa mới, nhà mới, lễ rước Kpan… mang đậm nét văn hóa riêng của dân tộc Tây Nguyên .
Âm nhạc của Tây Nguyên cũng thật đặc sắc với tiếng đàn T’rưng, đàn Klông pút. Nhưng cuốn hút hơn cả là những giàn cồng chiêng với những âm thanh có sức vang động sâu xa. Tiếng cồng chiêng gắn liền với rất nhiều lễ thức trong đời sống cộng đồng của các buôn làng Tây Nguyên. 
Những lễ hội được quan tâm giao thoa văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở đây, thể hiện qua những kiến trúc đặc sắc như nhà sàn dài, nhà rông, đời sống văn hóa, ẩm thực… Những họa tiết hoa văn được điểm xuyết khá tinh tế xuất hiện trên các ngôi nhà của dân tộc Tây Nguyên
(*).Bản sắc văn hóa Tây Nguyên – Nguồn: http://taynguyennews.net/TabID/87/EntryID/118/Ban-sac-van-hoa-Tay-Nguyen-trong-qua-trinh-hoi-nhap-.aspx
các dụng cụ của họ, trên từng bộ đồ của dân tộc Tây Nguyên.. Nghệ thuật dệt hoa văn, trang trí và điêu khắc của đồng bào cũng là một mặt rất đặc sắc của văn hoá Tây Nguyên. Đặc biệt đáng chú ý là truyền thống đẽo tượng mồ bằng những khúc gỗ tròn của các tộc người ở Bắc Tây Nguyên. 
Rồi đến ẩm thực là rượu cần, cơm lam, canh cà đắng đã bắt đầu vượt ra khỏi không gian của buôn làng trở thành những đặc sản mang thương hiệu riêng cho các dân tộc của một vùng đất Tây Nguyên này.
2. Luật tục của dân tộc Tây Nguyên(*)
Luật tục của dân tộc Tây Nguyên với quyền bình đẳng của phụ nữ và trẻ em
– Luật tục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên với nhiều tên gọi khác nhau như Phạtkđi hay Biđuê của người Ê Đê, Phạtkđuôi của người M Nông, Tơlơidjuat hay Tơlơiphian của người Gia Rai, Ađatmuca của người Ra Glai, Dâytơrônkđi của người Mạ, Nri của người S Rê… được coi là sự biểu hiện thái độ ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và cộng đồng xã hội.
Bên cạnh mặt hạn chế, nhìn chung các bộ luật trên trong một chừng mực nhất định, vẫn phát huy tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Luật tục đề cập tới nhiều vấn đề khác nhau trong đời sống tộc người từ môi trường tự nhiên, quan hệ sản xuất và sở hữu, tổ chức và các quan hệ xã hội, phong tục tập quán, hôn nhân và gia đình…
– Xã hội truyền thống của các dân tộc Ê Đê, M Nông, Gia Rai… là xã hội mẫu hệ.
Dòng họ mẹ thống trị mọi mặt trong đời sống xã hội như quyền thừa kế tài sản, hôn nhân và gia đình.
Do vậy, luật tục là công cụ hữu hiệu để bảo vệ xã hội mẫu hệ, khẳng định vai trò của dòng họ nữ, khẳng định vị trí to lớn của người phụ nữ trong xã hội.
Trong luật tục Ê Đê, mọi của cải trong gia đình do người phụ nữ quản lý, giữ gìn cho tổ tiên dòng họ.
Luật tục nói rõ : “Dù là cái chén sứ con, cái bát đồng nhỏ hay những đồ lặt vặt cũng không được cả gan đem bán đi để ăn mà phải mãi mãi cất giữ.
Từ những cái gùi Gia Rai (có nắp đậy) đến những cái sọt, cái túi, cái nải và những đồ lặt vặt, người chị cả đại diện cho người mẹ là người có nhiệm vụ chăm nom, giữ gìn.
Tất cả những cái bát vỏ bầu, cái thúng đựng tro, cái hòn để mài, các cái trã để luộc rau, người chị cả là người phải bảo quản.
Các ché tuk đỏ, các ché êbak Mnông, các vòng đeo tay, các chén bát đẹp bằng bạc bằng vàng là những của cải quý giá do tổ tiên xưa kia giàu có để lại, chính người chị cả là người phải giữ gìn”(1).
Tài sản trong gia đình đều thuộc về quyền quản lý của người mẹ hay người đại diện cho mẹ là chị cả. Việc thừa kế tài sản chỉ thực hiện theo dòng họ nữ. Khi vợ chết, mọi của cải và cả con cái đều thuộc về phía gia đình vợ (dì, bà ngoại) quản lý, còn người chồng phải trở về sinh sống với cha mẹ mình mà không được mang theo tài sản và con cái.

(1) Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn : Luật tục Êđê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 187 – 188
Trong trường hợp người chồng được gia đình bên vợ cho nối dây (lấy em vợ) thì cùng với vợ tiếp tục quản lý con cái và tài sản đó.Công việc quản lý và phân chia tài sản được tiến hành như sau : nếu gia đình có nhiều chị em sống chung với nhau, thì số tài sản, của cải đó do người con gái lớn nhất quản lý. Trường hợp có người đi lấy chồng và ra ở riêng thì mới phân chia cho họ một phần. Các anh em trai đều không được chia phần trong số tài sản đó. Nếu không có các con gái thì các con trai về ở với bà ngoại hoặc các dì và số tài sản do mẹ để lại thuộc về bà hoặc các dì.
Như vậy, luật tục Ê Đê về thừa kế tài sản có phần ưu ái với phụ nữ mà không bình đẳng giữa chồng và vợ, giữa trai và gái, gia đình chồng và gia đình vợ. Quy định này không phù hợp với pháp luật dân sự hiện hành.
– Ở các dân tộc Ê Đê, M Nông, Gia Rai… quan hệ hôn nhân theo chế độ mẫu hệ. Theo tập tục này, người phụ nữ đóng vai trò chủ động cưới chồng, người chồng sinh sống bên nhà vợ và con cái sinh ra mang họ mẹ.
Nhìn chung, quan hệ hôn nhân của các dân tộc thiểu số kể trên là tự nguyện. Trai gái đến tuổi trưởng thành tự do yêu đương, tự do tìm hiểu người bạn đời của mình mà không phải chịu sức ép nào cả. Đây là nét tiến bộ quan trọng trong quan hệ hôn nhân. Luật tục đã chỉ rõ điều đó : “Trâu bò không ai ép thừng, trai gái không ai ép duyên. Nếu hai người ưng nhau muốn lấy nhau thì vòng cứ đặt trên chiếu, tự họ họ sẽ cầm lấy, không một ai cầm trao cho họ”(1) .
Họ là đôi trai gái không ai ép phải nhận vòng đồng, chuỗi cườm của nhau. Ngay cả những người làm mai mối cũng không có quyền ép buộc : “Nếu anh bằng lòng lấy người ta thì cái vòng đồng để trên chiếu anh hãy cầm lấy. Chúng tôi là người hỏi người mối, chúng tôi không cầm trao tận tay anh đâu kẻo mai kia anh lại bảo những người mối kia ép anh”(2) .
Nhìn chung, hôn nhân trong xã hội mẫu hệ theo chế độ một vợ một chồng. Thế nhưng trong cuộc sống, những kẻ có thế lực, giàu có lại muốn lấy nhiều vợ. Trong trường hợp này, người chồng phải thực hiện việc đền bù vật chất cho vợ cả :
Ché tặng bên vợ phải đủ
Của tặng bên vợ phải đủ
Của chuộc vợ phải đầy đủ(3)
Người phụ nữ có quyền đòi người chồng nộp đầy đủ của cải đền bù về việc vi phạm phong tục truyền thống của mình.
Ở người Ê Đê, tục “nối nòi” (chuê nuê) được luật tục bảo vệ nghiêm ngặt, cũng giống như : “Dầm nhà gãy thì phải thay, dát sàn nát thì phải thế. Chết người này thì phải nối bằng người khác”(4). Theo đó, khi chồng chết, người đàn bà có quyền đòi hỏi nhà chồng một người em trai chồng để nối nòi. Ngược lại, người vợ chết, người chồng cũng có thể lấy em gái của vợ để nối nòi.Cũng có khi tục nối nòi truyền thống vượt ra ngoài phạm vi hôn nhân chị em vợ và hôn nhân anh em chồng. Chẳng hạn, khi cậu (amiêt) chết thì nối lại bằng cháu (a muôn), bà (a chuôn) chết cũng được nối lại bằng cháu.
Tập quán của người Gia Rai không để cho người đàn bà chịu cảnh góa bụa, bất hạnh suốt đời mà cho họ đi bước nữa “để nối lại sợi dây bị đứt”, “không để bếp lò rạn nứt, ngôi nhà bị thủng”, “không để nỗi buồn trùm lấp” :

(1) Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn : Luật tục Êđê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 114
(2) Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn : Luật tục Êđê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 127
(3) Ngô Đức Thịnh , Luật tục MNông, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, trang 368
(4) Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn , Luật tục Êđê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 115
Khi Bút chết, phải lấy Bang
Khi ngôi nhà lợp tranh dong đổ, phải dựng ngôi nhà lợp tranh …
Nếu cậu chết, phải lấy cháu
Những chiếc xà đỡ lấy sàn
Những chiếc xà đỡ lấy mái(1).
Luật tục Gia Rai cho phép người đàn bà có chồng chết được quyền lấy cháu ruột của người chồng đó. Việc lấy trong dòng họ tạo nên mối quan hệ bền chặt của dòng họ đó, cũng giống như mối quan hệ giữa các thanh xà với sàn nhà và mái nhà trong một ngôi nhà. Đó là quyền được duy trì nòi giống, huyết thống, duy trì sự tồn tại của dòng họ.
Tuy nhiên, tính khắt khe của tập tục nối nòi đã khiến cho nhiều người phụ nữ rơi vào tình trạng bất hạnh, chịu cảnh khốn khổ về chênh lệch tuổi tác. Đây quả là vấn đề hết sức phức tạp. Nếu không chịu “nối nòi” thì vi phạm luật tục.
Trong hôn nhân, sống thủy chung là đòi hỏi chính đáng : “Đã lấy vợ thì phải ở với vợ cho đến chết, đã cầm cần mời rượu thì phải vào cuộc cho đến khi rượu nhạt, đã đánh cồng thì phải đánh cho đến khi người ta giữ tay lại”(2).
Tập quán của các dân tộc thiểu số thường bênh vực, bảo vệ các cuộc hôn nhân hợp với phong tục, trị tội những kẻ làm trái, làm cản trở hôn nhân, đồng thời lên án, phê phán quyết liệt những cuộc hôn nhân không theo phong tục như cưới xin không báo cho buôn làng, không nộp đủ đồ lễ cưới… Còn nếu người chồng có ý định ly hôn thì việc đầu tiên anh ta phải nộp của cải, đền bù vật chất theo nguyên tắc một đền hai :
Kẻ nào gây ra việc này
Phải đền thịt, rượu cần, lễ cưới
Đồ vật một nó phải trả hai
Chém con trâu làm lễ ly hôn
Đối với những người chồng lười biếng, không chăm sóc vợ con, thì luật tục cho phép người vợ có quyền đi lấy chồng khác và tất nhiên, mọi của cải thuộc về người phụ nữ :
Lợn cưới sẽ mất
Ché cưới sẽ mất
Nhà chồng không được thắc mắc
Nhà chồng không được bắt tội
Sau đó vợ có quyền đi lấy chồng khác(3) .
Lễ trao vòng (ba kông hay dja kông) của người Gia Rai tương tự như lễ dạm hỏi của người Kinh (Việt), nhưng có ý nghĩa quan trọng hơn. Lễ này do nhà gái tiến hành, chủ động sang phía nhà trai dạm hỏi. Sau lễ trao vòng, đôi trai gái đã có thể ở với nhau với điều kiện không được có con trước khi tổ chức lễ cưới chính thức. Việc trả vòng đồng nghĩa với việc từ chối đám cưới và lúc này, hai bên có thể tự do tìm bạn tình mới, giao ước hôn nhân giữa hai gia đình coi như được xóa bỏ. Luật tục bênh vực quyền lợi chính đáng của người phụ nữ :
Của cải tôi sẽ lấy lại
Trâu bò lấy lại hết
Để tìm vợ tìm chồng không ai nói nữa
Tôi gặp ai yêu thương tôi
Tôi phải lấy làm chồng (4)

(1) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999,trang 182
(2) Ngô Đức Thịnh : Luật tục Ê Đê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 125
(3) Ngô Đức Thịnh : Luật tục M Nông, nxb chính trị quốc gia, Hà Nội,1998, trang 476
(4) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr 315
Nếu người con trai đơn phương không thực hiện lời giao ước sau lễ trao vòng, anh ta phải bồi thường danh dự cho cô gái đó, mức bồi thường có khi là cả một con bò.
Trường hợp hai vợ chồng đã có con với nhau nhưng vì lý do nào đó người chồng bỏ vợ, tập tục Gia Rai bênh vực quyền lợi của người phụ nữ trong việc đền bù vật chất của cải và xử phạt người chồng rất nặng vì anh ta không phải nuôi con :
Hai vợ chồng đã có một hai đứa con
Nếu chồng bỏ vợ
Đền cho mỗi đứa con một con bò
Đền cho vợ một bộ chiêng(1)
Hay :
Nay anh đã dẫm chân lên chiếu
Đã bước chân qua đầu tôi
Anh muốn lấy người khác
Anh sẽ phải đền
Bao nhiêu ché rượu, bao nhiêu heo anh phải trả(2)
Những quy định xử phạt nặng của luật tục đối với người chồng đã hạn chế tình trạng bỏ bê vợ con, chểnh mảng công việc làm ăn, hạn chế tình trạng ly hôn trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Điều đó có tác động tích cực trong việc củng cố quan hệ vợ chồng, gia đình, bảo vệ lợi ích của người phụ nữ.Luật tục các dân tộc thiểu số có nhiều điều bênh vực quyền và lợi ích của người phụ nữ.
(1),(2) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr 324, 401

Điều này thể hiện rất rõ trong những vụ xét xử có liên quan đến người phụ nữ, thì ý kiến của họ thường được khoa phạt kđi (người xử kiện) coi trọng.
Luật tục Ê Đê có câu : “Êbuh mniê djê êkei” (con gái ngã là con trai chết). Theo đó, nếu người phụ nữ đã khai thì dù có hay không, người đàn ông cũng bị quy tội là đã có quan hệ bất chính với chị ta.
Tiếp đó, nếu người đàn ông có vợ sẽ bị vợ phạt. Nói chung, người ta tin lời nói của người phụ nữ, mặc dù có khi sự thật là không có. Trong vấn đề ly hôn, lỗi của người phụ nữ bao giờ cũng được đánh giá nhẹ hơn so với đàn ông. Khi giải quyết các vụ kiện ly hôn, người ta vẫn có những quy định ưu tiên quyền lợi của phụ nữ.
Tập tục của người Ê Đê, Gia Rai cho phép người phụ nữ có quyền “đi bước nữa” trong trường hợp người phụ nữ đó có chồng đi vắng lâu năm, không còn chờ đợi được nữa. Trường hợp khác, khi người chồng bị cầm tù hay bị bắt làm nô lệ, luật tục không bắt buộc người vợ phải chờ mà có thể đi lấy chồng khác.
Điều này được luật tục Êđê biện luận như sau : “Chị ta đã mòn mỏi trông chờ, đã già đi, công việc nương rẫy lại không có người làm. Chòi không có ai đi thăm, rẫy không có ai đi phát, con két, con vẹt không có ai xua đuổi. Chị ta đã chờ hết năm này qua năm khác, hết mùa khô này đến mùa khô khác. Đã đến lúc phải thôi đi những năm tháng đợi, phải để chị ta kiếm người chồng khác, một đời chồng thứ hai”(1) . Phong tục cho phép người phụ nữ đó mời họ hàng đến để thưa chuyện và sau đó được quyền đi lấy chồng khác.
– Tập quán của nhiều dân tộc thiểu số rất quan tâm đến trẻ em bởi trẻ em là hình ảnh ngày mai của mỗi dân tộc.

(1) Ngô Đức Thịnh : Luật tục Ê Đê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 149
Do đó, nhiều tập tục thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với lớp người nhỏ tuổi này.
Luật tục phê phán những ông bố bà mẹ không biết nuôi dạy, chăm sóc con cái, thậm chí còn bỏ rơi hoặc đẩy những đứa trẻ đáng thương ra ngoài đường:
Chúng còn nhỏ còn bé
Anh chị bỏ rơi nó
Anh chị không thương chúng
Chúng nó đâu phải là dê con, là bò con mà chỉ biết ăn cỏ
Vì sao anh chị lại đuổi chúng ra ngoài đường(1)
Trách nhiệm của cha mẹ là phải làm lụng để nuôi dạy con cái nên người, chăm sóc chúng đến khi trưởng thành. Trong trường hợp trẻ con chưa có khả năng tự chủ, nuôi sống bản thân mà chẳng may cha mẹ mất sớm hoặc không có khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng, thì trách nhiệm đó thuộc về anh chị em ruột của người đó. Nếu không có anh em ruột hoặc có nhưng còn nhỏ thì bà con họ hàng bên phía mẹ phải có trách nhiệm chăm sóc, rồi đến họ hàng của bố.
Trong trường hợp họ hàng không còn ai thì buôn làng vận động người khác nhận làm con nuôi. Điều đó thể hiện sự quan tâm của gia đình và cộng đồng làng buôn đối với trẻ em.Trách nhiệm nuôi nấng, chăm sóc trẻ em là bổn phận của bậc làm cha mẹ, gia đình và cộng đồng làng buôn. Tập quán của đồng bào các dân tộc phê phán những ông bố, bà mẹ không làm trọn bổn phận của mình, thậm chí còn bỏ rơi con trẻ :
Ống cháo sao bỏ bãi cỏ
Ống cá sao bỏ giữa buôn

(1) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr 348
Có con sao bỏ cho ai
Cha mẹ bỏ rơi con, có tội(1)
Đối với những đứa trẻ lang thang, cơ nhỡ do nhiều hoàn cảnh khác nhau xô đẩy, có thể do cha mẹ chúng vô trách nhiệm, không thể nuôi nổi chúng vì quá nghèo khổ hoặc rơi vào hoàn cảnh éo le cha mẹ không may bị mất sớm khi tuổi chúng hãy còn nhỏ dại, luật tục cho phép quyền được nhận con nuôi :
Tôi thấy chuột ở ngoài rừng
Thấy kỳ nhông ở ngoài làng
Thấy mang ở trong bụi cây
Thấy rái cá ở trong nước
Thấy vượn ở trên núi
Đến cửa nhà tôi
Tôi phải nuôi nấng chúng thôi(2)
Luật tục cho phép mọi người dân có quyền nhận người khác làm con nuôi hoặc được người khác nhận làm con nuôi mà không phân biệt họ hàng dòng tộc. Việc nhận con nuôi chỉ cần có sự thỏa thuận giữa bà con họ hàng đôi bên và mặc nhiên được buôn làng chấp thuận. Con nuôi có đủ các quyền và nghĩa vụ như con đẻ, được tôn trọng và đối xử bình đẳng, kể cả quyền được nhận tài sản thừa kế :
Nếu nó sống hiền lành tử tế
Biết làm vựa lúa, làm rẫy tốt
Của cải tiền nong, sáp ong của người ta
Sẽ chia cho nó(3)
(1) Ngô Đức Thịnh : Luật tục Ê Đê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 490
(2) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr 356
(3) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr 356
Nhận con nuôi không phải được để bắt chúng làm việc như người hầu, đứa ở trong nhà, càng không được bán hoặc đổi lấy lúa, đổi lấy muối, mà phải đối xử tử tế, phải chăm sóc dạy dỗ đến nơi đến chốn, vì nuôi trẻ mồ côi không tử tế là mang tội.
Luật tục khuyên bảo những người có lòng tốt hãy ra tay làm phúc cứu vớt những trẻ mồ côi. Theo quan niệm dân gian, nếu nuôi những đứa trẻ mồ côi thì điều may mắn, tốt lành sẽ đến với người làm phúc.
Ta xem thường người mồ côi là có tội
Ta từ chối con nuôi sẽ nghèo
Ta đem nó về nuôi sẽ giàu
Ta đem nó về nuôi sẽ sang(1)
Có thể nói luật tục quy định về con nuôi là khá cụ thể và phù hợp với pháp luật hiện hành. Điều đó thể hiện trách nhiệm chung của cộng đồng làng buôn, của gia đình đối với trẻ em.
Một trong những tội bị luật tục lên án gay gắt nhất, mạnh mẽ nhất là tội hãm hiếp trẻ con và được khép vào loại tội lớn nhất, dơ dáy nhất mà không một vật chất nào đền bù thỏa đáng :
Hãm hiếp trẻ con là tội lớn
Trả bằng trâu chưa khớp
Trả bằng ché chưa đúng
Trả bản thân cũng chưa xong

(1) Ngô Đức Thịnh : Luật tục M Nông, nxb chính trị quốc gia, Hà Nội,1998, tr 512

Luật tục coi tội hãm hiếp trẻ con là tội không thể xóa sạch : Hãm hiếp trẻ con xóa không sạch(1) .
– Tập tục truyền thống của các dân tộc có nhiều điều đề cập đến quyền của người phụ nữ và trẻ em. Nhiều điều quy định đến nay vẫn có giá trị và phù hợp với pháp luật Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những điều luật đề cao và bênh vực người phụ nữ thì còn không ít những tập tục tỏ ra không phù hợp, thậm chí lạc hậu. Có những tập tục xử phạt người phụ nữ quá nặng như tội ngoại tình, loạn luân, hay quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Chẳng hạn, dân tộc Xê Đăng cư trú ở huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum quy định, nếu phụ nữ có thai trước khi cưới sẽ bị phạt heo và rượu để cả buôn làng cùng uống.
Còn theo tập quán của người Xê Đăng ở huyện Kon Plông, nếu người phụ nữ có thai trước khi cưới thì gia đình, họ hàng, buôn làng không giúp đỡ mà hai người tự tổ chức lấy, trường hợp không cưới sẽ bị phạt một con bò và 10 ché rượu(2) .
3. Nền ẩm thực của dân tộc Tây Nguyên
Ẩm thực trong ngày lễ Tết ở Tây Nguyên(*)
Tây Nguyên là nơi sinh sống của hàng chục dân tộc anh em, đông nhất là các dân tộc Ba Na, Gia Rai, Ê-đê, M’Nông, Xơ-đăng, H’rê…. Mỗi dân tộc đều có phong tục, tập quán riêng và hàng năm đều có tổ chức những ngày lễ Tết cho buôn làng sau khi gặt hái đã hoàn tất.

(1) Ngô Đức Thịnh : Luật tục M Nông, nxb chính trị quốc gia, Hà Nội,1998, tr 446
(2) Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 1048
Những ngày lễ Bỏ Mả, lễ Đâm trâu xây cột, Tết Cơm mới, Tết Giọt nước, Tết Lửa… diễn ra rộn rịp suốt mùa hanh khô. Đây là mùa lễ Tết ở Tây Nguyên.
Trong lễ Tết, ẩm thực của các dân tộc Tây Nguyên đều giống nhau, từ món thịt nướng cho đến rượu cần. Còn cách ăn uống và nấu nướng thế nào, thì đó là đặc điểm của mỗi dân tộc và của mỗi địa phương.
Ngày thường, đồng bào Tây Nguyên ăn cơm gạo tẻ với thức ăn nấu từ các loại rau rừng, mộc nhĩ, các loại củ, măng le. Thỉnh thoảng mới kiếm được con cá dưới sông, con thú từ trong rừng để cải thiện thêm bữa ăn.
Còn các loại gia súc, gia cầm nhà nào cũng có, họ nuôi bằng cách thả rong vào rừng, ra bờ sông, bờ suối, và chỉ làm thịt để dùng vào việc cúng tế thần linh hay để thiết đãi khách quí đến thăm làng.
Vào các ngày lễ Tết, cơm nếp được thay cơm gạo tẻ và được nấu theo cách thức của tổ tiên: Cơm Lam. Họ vào rừng chặt những ống lồ ô còn non, giữ lại mấu ở một đầu ống rồi cho gạo nếp và nước vào, xong nút lại đem đốt bằng lửa và than cho thật khéo. Những ống cơm lam, ngoài vỏ tuy đen đúa, lem nhem nhưng khi chẻ bỏ lớp vỏ ấy đi thì lộ ra lớp cơm nếp thơm ngon, hấp dẫn lạ thường. Hương vị nếp quyện với hương thơm của tre tươi qua lửa làm cho cơm lam có một hương vị đặc biệt, hơn hẳn cơm nếp nấu trong chõ, trong nồi.

Thịt là thực phẩm chủ yếu trong các món ăn ngày Tết. Người Tây Nguyên làm lông con vật bằng cách thui đốt. Họ không chế biến được các món ăn đặc biệt như ở miền xuôi. Đáng chú ý là món nướng và làm món như tiết canh, nem sống ở dạng thô sơ. Những món ăn này dùng để khoản đãi hay để dâng cúng thần linh.
(*). Ẩm thực trong ngày lễ tết ở Tây Nguyên http://www.taynguyennews.net/TabID/87/EntryID/967/Am-thuc-trong-ngay-le-Tet-o-Tay-Nguyen.aspx
Ngoài ra, họ còn dùng phèo lấy từ ruột con vật bốn chân để chế biến món ăn là một đặc điểm trong cách thức ngả món của đồng bào Gia Rai, Ba Na. Kỹ thuật băm sống và trộn bóp đóng vai trò quan trọng tạo ra nhiều món từ thịt trâu bò, dê, nguồn thịt chính trong lễ hiến tế thần linh. Có món thịt bóp với phèo. Có món thịt băm nhỏ trộn với muối đựng trong ống tre. Có món thịt trộn với phèo rồi gói lá. Có món thịt trộn với tiết, phèo và muối ớt để trên lá. Có món thịt, ruột non, gan, ruột già hỗn hợp đựng trong ống tre. Lại có món thịt băm, tiết, phèo, muối ớt trộn nhuyễn. Da bóp với phèo cũng thành một món. Món thường gặp là gan và lá sách thái miếng xiên xen kẽ vào que tre để nướng. 
Trong các món ăn kể trên họ đều dùng thịt sống, tuy không được nấu nướng nhưng có thể phèo là nguyên liệu có tác dụng làm tái các loại thịt tươi, giống như thính gạo trong món nem của người Kinh. Hơn nữa, tất cả những món sống ấy bao giờ cũng làm thành món đưa cay. Rượu cần là đồ uống không thể thiếu được trong các ngày lễ Tết. Thức nhắm, thậm chí được đặt gần bên các ghè rượu, có lót lá chuối đặt vào chiếc rá (rổ) để thực khách vừa nhâm nhi thưởng thức vừa chuyện trò, thỉnh thoảng đưa tay bốc một nhúm thức ăn đưa lên miệng…
Cùng với món sống, họ cũng làm các món nấu chín theo tập tục lâu đời. Trong các món này, thịt bao giờ cũng được nấu chung với bột gạo và rau đã giã nhỏ tạo thành món sền sệt đặc như cháo có thể bốc ăn được.
Món thịt nướng cũng là món thông dụng và được ưa thích. Có loại đem gói kín trong lá tươi rồi vùi vào than hay tro nóng. Có loại thì xâu thành từng xâu hơ trên than củi đang cháy.
Trong không khí cộng đồng ngày lễ Tết, việc ăn uống diễn ra với nhiều ý nghĩa, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu no bụng, ngon miệng mà còn đáp ứng nhu cầu về tình nghĩa chòm xóm láng giềng trong buôn làng, quan hệ giữa con người với nhau. Vượt lên trên thực đơn vừa kể, món ăn trong ngày lễ Tết không tách khỏi phần tâm linh, tín ngưỡng sâu sắc, kết nối giữa người sống kẻ chết, giữa con người với thần linh. Chính vì vậy mà các món ăn thức uống vào ngày lễ Tết của họ mang ý nghĩa thiêng liêng và hết sức trang trọng.
Phong tục uống rượu cần của người Tây Nguyên(*)

Rượu cần ở Tây nguyên là sản vật- nghi vật – lễ vật, nó có mặt ở mọi lúc, mọi nơi trong đời sống sinh hoạt xã hội, trong tinh cảm, tâm linh của mọi gia đinh hay cộng đồng.Không có rượu cần thì không có lễ lạt, cưới xin, ma chay, bè bạn…Rượu cầngiữ vai trò là lễ vật khi kinh dâng lên các Thần linh, giao tiếp với các đấng siêu linh. Với bạn bè, là phương tiện chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, hẹn hò, nhắn nhủ công việc, giao kết tình duyên đôi lứa… Trưóc khi thực hiện giao lưu tình cảm, rượu cần làm nghĩa vụ: thông báo, dâng mời, cầu xin các Thần linh chứng giám hoặc ban phước. Dù xử dụng trong thời gian nào, không gian nào, tục uống rượu cần cũng vẫn là một nét văn hóa đẹp trong đời sống của đồng bào các dân tộc Tây nguyên.
Rượu cần được làm thường xuyên, liên tục bất cứ vào tháng năm nào.Nhưng chủ yếu dùng vào những ngày “ có việc “ của buôn làng hay gia đình.Như: cúng Yàng, mừng thọ người già, lễ cưới, đám ma, làm nhà, có khách xa đến chơi.Đặc biệt là trong những lễ nghi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, những lễ hội của cả buôn làng.
Gia đình hay buôn làng nào “có việc” như vậy, liền được sự đóng góp của cả họ hàng, cả buôn. Mọi gia đình đều chuẩn bị ghè rượu to nhất, ngon nhất của mình để đem tới góp chung.
(*)Phong tục uống rượu cần của người Tây Nguyên – Nguồn: http://vozforums.com/showthread.php?t=1210548
Vừa xẻ chia, giúp đỡ, vừa tạo nên tình cảm gắn bó, thân tình đầm ấm trong cộng đồng.
Để có được ché rượu, phải tiến hành nhiều công đoạn, từ chuẩn bị nguyên liệu đến cách thức chế biến, tính toán thời gian phù hợp, sao cho vừa kịp xử dụng… để ghè rượu đạt chất lượng cao nhất.Gia đình Tây nguyên nào cũng biết làm rượu cần, nhưng tỷ lệ lại là bí quyết riêng chỉ được phép truyền trong mỗi nhà.Do đó rượu được tạo ra bởi những hương vị khác nhau theo sở thích của từng gia đình. Tuy nhiên có một điều ai cũng phải tuân theo là : trong thời gian làm men rượu, kể cả làm rượu, phải giữ cho thân thể được sạch sẽ, nhất là vợ chồng không được quan hệ sinh lý với nhau. Đồng bào cho rằng như thế sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, hương vị cuả men rượu.

1) Cách thức làm rượu cần
Để có được ghè rượu, phải tiến hành nhiều công đoạn, từ chuẩn bị nguyên liệu đến cách thức chế biến, tính toán thời gian sử dụng cho phù hợp để rượu đạt chất lượng cao nhất.
Rượu có thể làm quanh năm, nhưng men để làm rượu không phải lúc nào cũng làm được.
* Người Xê Đăng ở Kon tum chỉ làm men rượu một lần, vào một ngày duy nhất trong năm, gọi là “ hăl pro plao “ (ngày làm men).
Sau khi đã thu hoạch xong mùa màng (khoảng tháng 11, 12 dương lịch), người ta chọn ngày tốt và làm lễ cúng với một con gà, một ché rượu nhỏ để vào rừng tìm cây, củ làm men rượu. Các thứ cây, lá, củ dùng làm men đều phải được lấy trong buổi sáng sớm. Gồm có các thành phần như là:
– Vỏ cây hjam
– Hăng (ớt rừng)
-Lá cây `H`la xang (có vị đắng)
– Củ rơja
– Cuối cùng là bột nếp.
Những thứ này được trộn vào nhau theo một tỷ lệ nhất định, để được một thứ bột sền sệt, màu nâu đen, gọi là plô (men). Plô được nắm thành từng nắm bằng trái cam to, đem phơi nắng cho khô, cất đi để dùng trong cả năm. Mỗi nắõm men đủ cho một ché rượu. Đến mùa sang năm sau lại đi kiếm vào đúng ngày quy định đó.
* Người Hrê ở Quảng Ngãi dùng vỏ và củ cây kxi blo sao khô, giã nhỏ cùng với gừng, trộn chung với bột gạo, vắt trong thành từng nắm bằng quả trứng. Phơi khô ở trên gác bếp, có thể dùng liền hoặc để dành khi nào cần.
* Người Êđê dùng hoa, lá, rễ cây dong (có nhiều lọai dong: dong gak, dong kra nê, dong se…thứ nào cũng dùng được), rửa sạch, phơi khô, tán nhỏ.trộn thêm bột củ riềng hoặc gừng. Có nơi còn trộn thêm một ít ớt.
Khi cần để dành dùng lâu đông bào trộn thêm với bột gạo.Tất cả trộn đều, nắm thành nắm phơi khô.
Sau khi đã có men, người ta tiền hành làm rượu. Quy trình và cách thức làm tương đối giống nhau. Nguyên liệu chính và ngon nhất cũng vẫn là gạo nếp. Gạo tẻ hoặc bắp, củ mỳ… tùy theo khả năng kinh tế của từng gia đình.
Cách thức như sau: gạo hoặc bắp, mỳ nấu chín, trải ra nong phơi cho nguội bớt, chỉ còn âm ấm. Men giã nhỏ trộn đều với cơm hoặc bắp… Người xê Đăng ủ kín trong gùi chừng 4 ngày, khi đã dậy mùi mới đổ cơm rượu ấy vào ché. Người Êđê thì sau khi trộn men là bỏ ngay vào trong ché. Đáy ché có lót một lớp trấu. Sau khi đổ đầy cơm rượu, cũng lại phủ lên một lớp trấu. Trấu này có tác dụng ngăn cho bã rượu không chạy vào trong cần khi hút.
Đến đây việc làm rượu đã xong, người ta lấy lá chuối bịt miệng ché lại để khỏi bay mất mùi thơm của rượu. Các ghè rượu sau khi đã buộc kín miệng được xếp một dãy dài theo thứ tự lớn nhỏ, để ở góc nhà phía Đông. Rượu gạo có thể để lâu. Nếu đem chôn xuống đất, càng lâu càng ngấm, uống càng ngon hơn. Tuy nhiên rượu bắp, mỳ không thể để quá 10 ngày, lâu hơn sẽ bị chua. Nhưng nếu uống sớm (trước 10 ngày) rượu chưa ngấm có vị đắng ít ngon. Do đó mà phải tính toán thời gian cho phù hợp.Rượu đủ ngấm là sử dụng ngay, như thế mới ngon.

2) Uống rượu cần
Rượu cần uống ngay trong ché, không phải chưng cất hay chắt lọc gì nữa. Muốn uống rượu cần phải có sự chuẩn bị: Người ta dựng những cây cột dùng để buộc rượu thành vòng tròn hay hàng ngang, tùy theo tính chất của buổi uống rượu. Những cột này là cây tre cao khoảng chừng 2-3m, đưọc trang trí thêm những tua chỉ ngũ sắc, hoa, hay những thanh gỗ nhỏ đẽo gọt các hình con thú… cho rực rỡ và thêm đẹp. Các ghè rượu được buộc chặt vào từng cột. Rượu không đổ ngã, mà còn mang ý nghĩa : đường để các Yàng xuống uống rượu chung vui.
Hái những lá rừng không có nhựa và không độc nhét chặt vào trong ché, dùng những thanh nứa hoặc tre nhỏ găm chặt lớp lá phía dưới cổ ghè rượu, có nơi dùng cách xoắn lá thành một vòng tròn. Việc lót lá nhằm mục đích để khi đổ nước vào, bã rượu không bị trào ra ngoài, đồng thời tạo nên một khoảng trống từ cổ đến miệngché. Khoảng trống này là cữ cho người uống. Mối cữ khoảng 1/4 lít nước. Uống hết một cữ là phải tiếp thêm nước.
Sau đó đến việc chuẩn bị cần uống rượu. (Từ “rượu cần “ có lẽ bắt nguồn từ việc dùng cần để hút rượu uống này). Cần rượu được làm bằng cây trúc hoặc cành tre nhỏ, dài từ 1, 2 – 1, 5m, soi thông ruột. Đầu cần là mấu đã được khóet thành khe và đục 3-4 lỗ nhỏ, đủ để rượu thấm mà không mang theo bã hoặc trấu. Người Banar, Hrê dùng nhiều cần cắm chung trong một ché. Người Êđê, Xê Đăng chỉ dùng một cần, khi nào đám cưới mới sử dụng hai cần. Cắm vào ché sao cho vừa tầm của người ngồi uồng và cần không bị tắc, đó cũng là cái khéo của người cắm cần.
Sau khi gài lá là đổ nước vào cho đầy đến miệng ché. Nước uống rượu phải là nước suối tinh khiết lấy vào buổi sáng sớm. Đổ trước khi uống từ 5-7 tiếng để rượu đủ ngấm. Nước đã đổ, cần rượu đã cắm. Nhưng vẫn còn một nghi thức cuối cùng:
* Người Xê Đăng: bẻ một thanh nứa nhỏ đặt ngang lên miệng ché, ở giữa thanh nứa lại bẻ một cọng nhỏ gập xuống mặt nước khoảng chừng 2-3 đốt ngón tay làm cữ, gọi là “ keang drô”. Uống hết một keang là được tiếp thêm nước. Trước khi vào cuộc, chủ nhà hoặc chủ lễ đặt những miếng gan gà sống lên những tai ghè (tuôn võ) và đọc lời khấn xin phép các Yàng để mọi người được uống rượu.
Già làng hoặc chủ lễ uống keang rượu đầu tiên, sau đó lần lượt theo thứ tự già trẻ, lớn bé, nam nữ. Phụ nữ chủ yếu phục vụ chế nước là chính. Nếu có khách, người đó được mời cầm cần đầu tiên. Khách là người hiểu biết sẽ mời lại già làng và chủ lễ uống trước, sau đó mới đến mình.

* Người HRê: Mọi người đã ngồi quanh những ché rượu, chủ nhà đứng dậy rút một cọng tranh trên mái nhận vào ché, tượng trưng cho việc mời các Yàng và tổ tiên uống trước. Sau đó ông ta đổ thêm nước cho đầy ché. Nếu nước đổ đầy tận miệng ghè là chủ nhà hết sức tôn trọng, coi là khách quý. Nếu nước chỉ đổ lưng chừng, chưa đầy đến miệng, tức đó chỉ là những khách bình thường. Sau khi đổ nước, chủ lễ cắm các cần rượu, mỗi người khách một cần. Vị khách nào đáng trọng nhất, được đưa mời trước bằng tay trái. Khách tiếp nhận bằng tay phải, chủ nhà lần lượt mời tiếp những người khác. Cuối cùng mới đến ông ta. Trong khi đang cầm cần, khách nào vô ý vơ luôn cả cần của chủ nhà, bị coi như đó là sự khiêu khích, khinh rẻ gia chủ, có khi còn xảy ra xô xát giữa người khách đó với chủ.
Mọi người đều đã cầm cần, vợ chồng nhà chủ đặt tay lên miệng ché nói hai lần “rượu này mang đến cho người anh em nhiều sức lực và gặp nhiều điềù may mắn”. Rồi hai vợ chồng hút qua cần của mình một ngụm, nhổ đi. lại lần lượt làm như thế với các cần của khách. Đó là chứng tỏ thiện ý cuả gia đình ché rượu tốt, không độc.
Những người khách đáp lễ, cùng hút một ngụm, nhổ đi. Cuộc uống rượu chính thức bắt đầu.
Trong lúc uống, nếu chủ nhà muốn mời người khách nào uống nhiều hơn, ông sẽ xin phép đổi cần rượu của mình cho khách, và đổ thêm nước vào ché. Đổ thêm bao nhiêu, khách phải uống riêng cho hết phần đó, mới là quý nhau.Những người uống rượu muốn mời bạn mình uống thêm cúng làm như vậy. Khi rượu đã loãng sẽ thay ché khác, chủ nhà cũng lặp lại những nghi thức ban đầu.
* Người Êđê: Bất cứ một cuộc rượu cần nào cũng cử ra một người điều hành, gọi là “gai pe”.đây không phải là thày cúng, chủ lễ, mà là một người có hiểu biết, lịch thiệp. Gai pe có nhiệm vụ mời ai uống trước, uống sau theo thứ tự già trẻ, nữ nam. Sau nữ chủ nhân là người khách quan trọng nhất có mặt ở buổi lễ. Cần rượu được gai pe uống một ngụm rồi nhổ đi, sau đó đưa mời. Trong suốt cuộc uống rượu, chiếc cần chỉ được truyền từ tay này sang tay khác, mà không được để rời ra. Nếu không uống thì dùng ngón tay cái bịt đầu cần.
Người lịch sự là người được mời sẽ uống một vài hơi rồi hút ra các ống nứa hoặc ly, đưa mời những người cao tuổi hoặc phụ nữ có mặt trong cuộc rượu.
* Người Mnông : Trước khi chính thức uống rượu, tất cả mọi người có măt đều lần lượt uống thử một ngụm trước, sau đó mới mời theo thứ bậc chủ khách, già trẻ, nam nữ. ..
Uống rượu cần là một nét văn hóa đẹp của đời sống Tây nguyên. Ngoài nghĩa vụ với các thần linh, nó còn biểu hiện đầy đủ tính tập thể của cộng đồng, lòng mến khách của gia chủ. Trong khi uống rượu, nam nữ có thể múa hát, các nghệ nhân già kể chuyện cổ tích, trường ca, nói thơ về luật lệ của dân tộc mình. Men rượu cần nhẹ, nhưng cũng tạo nên cảm giác say la đà, rất dễ kích thích tâm trạng con người vui vẻ, cởi mở, hòa đồng với nhau. Sự góp rượu của các gia đình có việc là điều phổ biến trong mọi cộng đồng. Càng nhiều rượu cần, lễ càng vui.
Rượu cần có thể được coi là một trong những nét đặc trưng nghệ thuật ẩm thực (uống) rất riêng và độc đáo của các tộc người Tây Nguyên.
Trước đây người Tây nguyên không ăn Tết Nguyên đán, chỉ một vài dân tộc có lễ cúng Yàng cuối năm hoặc đầu năm. Nhưng ngày nay, do sự giao lưu văn hóa với cộng đồng các dân cư từ nhiều nơi khác đến, nên nhiều vùng, nhất là những thị trấn, thị xã, thành phố… đều đã có ăn Tết. Tất nhiên không thể vắng bóng những ché rượu cần cổ truyền. Mời các bạn làm một chuyến du lịch Tây nguyên, thưởng thức hương vị rượu cần và cùng múa Xoang với trai gái quê tôi. Đảm bảo bạn không dễ quên
Bài thơ về rượu cần
cũng liều uống rượu cùng em
bởi chưng người đẹp lại thêm rượu cần
cái ghè rượu hóa chứng nhân
chúng mình mỗi đứa một cần vít cong
một can cho má em hồng
hai can anh đã vội trồng cây si
ba can đừng bỏ anh đi
anh buồn. Ghè rượu có khi lây buồn
bốn can anh muốn chết luôn
năm can… em đã thúc dồn sáu can
đã liều chết cũng chẳng oan
bảy can anh uống. Em van anh rồi
thôi thì một can hai người
hai đôi môi khát một thời tìm nhau
chín can… rượu chẳng còn đâu
còn em hóa rượu. Cúi đầu, anh say…
Các món ăn đặc sản của Tây Nguyên(*)

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *