ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HỒ THỊ HẢI
TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP
TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Hà Nội, 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HỒ THỊ HẢI
TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP
TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM
Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng
Mã số: Thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN SINH PHÚC
Hà Nội, 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Sinh Phúc. Các số liệu, tài liệu trong luận
văn có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 6 tháng 10 năm 2019
Học viên
Hồ Thị Hải
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, các Qúy thầy cô phòng Đào
tạo đã tạo điều kiện để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Tâm lý học –
Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn cùng các thầy cô cộng tác với
Khoa đã tận tình định hướng cho đề tài luận văn của tôi thêm hoàn chỉnh.
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến
người thầy tận tâm là PGS. TS. Nguyễn Sinh Phúc, người đã hết lòng giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến toàn thể Ban
giám đốc và cán bộ, công nhân viên bệnh viện Nhi Trung ương đã nhiệt tình
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng đến gia đình, người thân và
bạn bè đã luôn động viên và chia sẻ với tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Hồ Thị Hải
iii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN …………………………………………………………………………………….. ii
MỤC LỤC
…………………………………………………………………………………………. iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT …………………………………………………………… vi
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………. 1
1. Lý do chọn ca lâm sàng ………………………………………………………………… 1
2. Nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………………………………………………. 2
3. Khách thể nghiên cứu …………………………………………………………………… 2
4. Phƣơng pháp sử dụng để thực hiện ca lâm sàng ……………………………. 2
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỊ LIỆU TRẦM CẢM CHO TRẺ
VỊ THÀNH NIÊN ………………………………………………………………………………. 3
1.1. Tổng quan về trị liệu tâm lý trầm cảm cho trẻ vị thành niên
……….. 3
1.1.1. Điểm luận một số nghiên cứu về trầm cảm ở trẻ vị thành niên
…….. 3
1.1.2. Các nghiên cứu về đánh giá và can thiệp trầm cảm ở trẻ vị thành
niên
……………………………………………………………………………………………….. 5
1.2. Một số vấn đề lý luận về trầm cảm ở vị thành niên
……………………. 10
1.2.1. Khái niệm trầm cảm
……………………………………………………………… 10
1.2.2. Khái niệm vị thành niên
………………………………………………………… 11
1.2.3. Các lý thuyết tiếp cận về trầm cảm
…………………………………………. 11
1.2.4. Các tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm ……………………………………….. 14
1.3. Các phƣơng pháp đánh giá và can thiệp rối loạn trầm cảm ở vị
thành niên sử dụng trong luận văn …………………………………………………. 19
1.3.1. Các phương pháp đánh giá ……………………………………………………. 19
1.3.2. Các liệu pháp can thiệp trầm cảm
…………………………………………… 23
CHƢƠNG 2 ĐÁNH GIÁ VÀ CAN THIỆP MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ
VỊ THÀNH NIÊN TRẦM CẢM
………………………………………………………… 29
2.1. Thông tin chung về thân chủ ……………………………………………………. 29
iv
2.1.1. Thông tin hành chính, các đặc điểm sinh lý, xã hội ………………….. 29
2.1.2. Lý do thăm khám …………………………………………………………………. 30
2.1.3. Hoàn cảnh gặp gỡ ………………………………………………………………… 30
2.1.4. Ấn tượng chung về thân chủ
………………………………………………….. 30
2.2. Các vấn đề đạo đức ………………………………………………………………….. 30
2.2.1. Đạo đức trong tiếp nhận ca lâm sàng
………………………………………. 31
2.2.2. Đạo đức trong việc sử dụng các công cụ đánh giá và thực hiện quy
trình đánh giá ……………………………………………………………………………….. 31
2.2.3. Đạo đức trong can thiệp trị liệu ……………………………………………… 32
2.3. Đánh giá ………………………………………………………………………………….. 32
2.3.1. Mô tả vấn đề………………………………………………………………………… 32
2.3.2. Kết quả đánh giá ………………………………………………………………….. 37
2.3.3. Định hình trường hợp …………………………………………………………… 39
2.4. Lập kế hoạch can thiệp
…………………………………………………………….. 42
2.4.1. Xác định mục tiêu ………………………………………………………………… 42
2.4.2. Kế hoạch can thiệp
……………………………………………………………….. 45
2.5. Thực hiện can thiệp………………………………………………………………….. 45
2.5.1. Buổi trị liệu thứ nhất …………………………………………………………….. 46
2.5.2. Buổi trị liệu thứ 2
…………………………………………………………………. 48
2.5.3. Buổi trị liệu thứ 3
…………………………………………………………………. 52
2.5.4. Buổi trị liệu thứ 4
…………………………………………………………………. 55
2.5.5. Buổi trị liệu thứ 5
…………………………………………………………………. 58
2.5.6. Buổi trị liệu thứ 6
…………………………………………………………………. 61
2.5.7. Buổi trị liệu thứ 7
…………………………………………………………………. 64
2.5.8. Buổi trị liệu thứ 8
…………………………………………………………………. 65
2.6. Đánh giá hiệu quả can thiệp
……………………………………………………… 66
2.6.1. Cách thức đánh giá và công cụ lâm sàng sử dụng để đánh giá …… 66
v
2.6.2. Kết quả đánh giá ………………………………………………………………….. 66
2.7. Kết thúc ca và theo dõi sau can thiệp
………………………………………… 67
2.7.1. Tình trạng hiện thời của thân chủ …………………………………………… 67
2.7.2. Kế hoạch theo dõi sau trị liệu ………………………………………………… 67
2.8. Bàn luận chung
………………………………………………………………………… 68
2.8.1. Bàn luận về ca lâm sàng đã thực hiện
……………………………………… 68
2.8.2. Tự đánh giá về chất lượng can thiệp trị liệu …………………………….. 69
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
……………………………………………………… 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………. 71
PHỤ LỤC …………………………………………………………………………………………. 75
vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Viết đầy đủ
BDI
Beck Depression Inventory
(Bảng câu hỏi trầm cảm Beck)
CBT
Congitive Behavior Therapy
( Liệu pháp nhận thức hành vi)
DSM – 5
Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders
Fifth Edition
( Sổ tay chẩn đoán và thống kê về các rối loạn tâm thần
tái bản lần thứ năm)
ICD – 10
International Classification of Diseases 10 th
( Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10)
WHO
Word Health Organization
( Tổ chức Y tế Thế giới)
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn ca lâm sàng
Trong xã hội ngày nay, tỉ lệ người gặp các vấn đề về sức khỏe tâm thần
ngày càng nhiều. Trong đó, trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ
biến và ngày càng gia tăng. Theo tổ chức Y tế thế giới ( WHO), 3-5% dân số
thế giới hiện nay có các triệu chứng trầm cảm ở một giai đoạn nào đó trong
cuộc đời. Theo WHO, trầm cảm đang ngày càng gia tăng và là nguyên nhân
hàng đầu gây ra các tình trạng khuyết tật về thể chất và tinh thần. Ở Việt Nam,
tỉ lệ trầm cảm trong những năm gần đây tăng lên rõ rệt. Tỷ lệ trầm cảm ở trẻ vị
thành niên là 6%- 8%, có nhiều nghiên cứu cho rằng tỷ lệ này có thể lên đến
14% [11]. Các nghiên cứu cho thấy, trầm cảm xuất hiện ở mọi lứa tuổi. Ở trẻ vị
thành niên, rối loạn này có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập, xây dựng và
phát triển quan hệ xã hội, tính cách, quá trình hình thành và phát triển hoàn
thiện thể chất, tinh thần.
Ngoài ra, trầm cảm cũng là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến tự sát, đó là vấn đề lo ngại trong dư luận về tâm lý của giới trẻ. Lứa tuổi
học sinh trung học cơ sở là lứa tuổi có nhiều biến đổi đang phát triển mạnh cả
về thể chất và tâm thần nên trước những tác động của môi trường không thuận
lợi dễ dẫn đến những phản ứng cảm xúc- hành vi lệch lạc. Thực trạng trầm cảm
ở tuổi vị thành niên ngày càng gia tăng, chúng tôi nhận thấy việc đánh giá và
can thiệp, trị liệu đối với trẻ vị thành niên có ý nghĩa quan trọng. Bên cạnh việc
can thiệp bằng thuốc thì can thiệp bằng tâm lý đã và đang được áp dụng ngày
càng có hiệu quả.
Việc can thiệp tâm lý cần phải do những người được trang bị không chỉ
là kiến thức mà còn phải có được những kỹ năng thực hành lâm sàng và sau
này làm việc dưới sự giám sát của những nhà lâm sàng có kinh nghiệm lâu
2
năm. Mặc dù đã có một số người nghiên cứu các đề tài lâm sàng về trầm cảm
nhưng nhận thấy đây là một vấn đề ảnh hưởng nhiều đến thanh thiếu niên. Vì
vậy mà chúng tôi đã chọn một trường hợp cụ thể để làm luận văn thạc sĩ với
tên đề tài: “ Trị liệu tâm lý cho một trường hợp trẻ vị thành niên có triệu
chứng trầm cảm”.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận
Tổng quan những nghiên cứu, báo cáo đánh giá can thiệp trầm cảm ở
trẻ vị thành niên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn
Đánh giá, chẩn đoán, thực hiện can thiệp cho một trường hợp trẻ vị
thành niên có rối loạn trầm cảm.
3. Khách thể nghiên cứu
Một trẻ vị thành niên có rối loạn trầm cảm.
4. Phƣơng pháp sử dụng để thực hiện ca lâm sàng
Trong luận văn này tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp,
trong đó có các kĩ thuật:
– Nghiên cứu tài liệu
– Quan sát
– Hỏi chuyện lâm sàng
– Phương pháp trắc nghiệm
– Phương pháp nghiên cứu trường hợp
3
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỊ LIỆU TRẦM CẢM
CHO TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
1.1. Tổng quan về trị liệu tâm lý trầm cảm cho trẻ vị thành niên
1.1.1. Điểm luận một số nghiên cứu về trầm cảm ở trẻ vị thành niên
Thế kỷ XX, rối loạn trầm cảm được nghiên cứu và hoàn thiện về khái
niệm bệnh học và hình thái. Trong Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10
(ICD-10) của Tổ chức Y tế Thế giới, trầm cảm được xếp trong nhóm các rối
loạn cảm xúc, mục F30 – F39. Trong lĩnh vực tâm lý học nói chung và tâm lý
học trị liệu, tâm lý học lâm sàng, tâm bệnh học nói riêng, trầm cảm được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, như xã hội, hành vi và nhận thức,
liên nhân cách… Có nhiều công trình nghiên cứu dịch tễ học trầm cảm đã cho
kết quả số lượng người có rối loạn trầm cảm khá lớn. Tỷ lệ trầm cảm ở trẻ vị
thành niên là 0,4 đến 8,3% , trong đó trầm cảm nặng chiếm khoảng 15- 20% [35].
Đã có nhiều công trình khảo sát trên diện rộng ở một số nơi trên thế
giới về thực trạng rối nhiễu trầm cảm. Theo thống kê của một số nước châu
Âu, rối loạn trầm cảm dao động từ 3 – 4% dân số. Một nghiên cứu ở Ucraina
của Tintle N (2011) cho kết quả 14,4% phụ nữ và 7,1% nam giới độ tuổi từ 50
trở lên bị trầm cảm.
Ở Hoa Kỳ, tỷ lệ mắc trầm cảm theo nhiều nghiên cứu vào khoảng 5 –
6%. Theo Pratt L.A. (2006), trong vòng 2 tuần lễ có 5,4% người từ 12 tuổi
trở lên bị trầm cảm. Người bị trầm cảm giảm sút rõ về thích thú hoặc thú vui
trong tất cả, hầu như tất cả các hoạt động hầu như suốt ngày, gần như mỗi
ngày. Điều đó ảnh hưởng đến khả năng làm việc, duy trì cuộc sống gia đình
và các hoạt động xã hội khác của họ.
Ở Canada, theo Patten S.B. (2006), tỷ lệ trầm cảm chung trong cả cuộc
4
đời là 12,2%, trầm cảm trong năm qua là 4,8%, trầm cảm trong 30 ngày qua
là 1,8%. Trầm cảm chủ yếu phổ biến ở phụ nữ (5%) hơn ở nam giới (2,9%).
Tỷ lệ mắc trầm cảm cao nhất ở nhóm tuổi từ 15 đến 25 tuổi. Tỷ lệ mắc trầm
cảm nặng không liên quan đến trình độ học vấn.
Nghiên cứu rối nhiễu trầm cảm ở lứa tuổi thanh thiếu niên có thể kể đến
các công trình nghiên cứu của các tác giả người Pháp. Điều tra năm 1994 về
sức khỏe của các thanh thiếu niên trên 14.000 học sinh phổ thông trung học ở
Choquet cho thấy, các rối loạn tâm thể (đau đầu, đau bụng, đau lưng, rối loạn
giấc ngủ, thức đêm) và các rối nhiễu xã hội khác (giảm đột ngột kết quả học
tập, trốn học, cắt đứt đột ngột quan hệ bạn bè…) cho phép xác định một cách
có hiệu quả tính trầm cảm và mức độ trầm cảm ở thanh thiếu niên cũng như
các rối loạn khác có liên quan đến vấn đề tự sát.
Tóm lại, các nghiên cứu về trầm cảm trên thế giới đã cho thấy một tỷ lệ
khá lớn dân số mắc chứng trầm cảm. Đây là một loại rối nhiễu khá phổ biến,
có thể xuất hiện ở bất kì lứa tuổi nào, ở bất cứ ai. Đặc biệt lứa tuổi thanh thiếu
niên được xác định là giai đoạn độ tuổi tương đối nhạy cảm với loại rối nhiễu
cảm xúc này. Trầm cảm lứa tuổi thanh thiếu niên có thể liên quan đến các rối
nhiễu tâm lý khác và có dẫn đến nhiều nguy cơ khác nhau ở trẻ.
Ở nước ta, trầm cảm thường được các phương tiện truyền thông nhắc
đến như là một hiện tượng xã hội. Nhiều nghiên cứu về trầm cảm cũng đã
được tiến hành ở những vùng dân cư khác nhau, với những độ tuổi và ngành
nghề khác nhau. Trầm cảm có thể gặp ở mọi vùng dân cư và mọi lứa tuổi, tần
suất trầm cảm thay đổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nghề nghiệp, giới tính,
trình độ, mức sống, văn hóa xã hội và lứa tuổi [6]. Nghiên cứu của Nguyễn
Văn Siêm (2010) tại xã Quất Động, Thường Tín, Hà Tây cho thấy tỷ lệ mắc
rối loạn trầm cảm trong nhóm dân số trên 15 tuổi ở địa phương này là 8,35%
[26]. Nghiên cứu của Hồ Ngọc Quỳnh (2009) trên nhóm sinh viên điều dưỡng
5
và y tế công cộng tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, tỷ lệ mắc trầm cảm ở
sinh viên y tế công cộng lên tới 17,6%, ở sinh viên điều dưỡng là 16,5%; trầm
cảm ở nhóm sinh viên này liên quan tới một số yếu tố như sự quan tâm của
cha mẹ, gắn kết với nhà trường, thành tích học tập, quan hệ xã hội, tự nhận
thức về bản thân [24].
Nhiều nghiên cứu về trầm cảm ở lứa tuổi thanh thiếu niên đã được thực
hiện. Theo nghiên cứu của Nguyễn Bá Đạt, tỷ lệ học sinh trung học phổ thông
Hà Nội bị trầm cảm trong năm học 2001 – 2002 ở mức độ trung bình (8,8%).
Trong đó có 6,7% trầm cảm nhẹ; 1,7% trầm cảm vừa; 0,5% trầm cảm nặng
[7]. Nguyễn Cao Minh và Đặng Hoàng Minh nghiên cứu lứa tuổi từ 12- 16 ở
một số tỉnh miền Bắc cho thấy thu mình và trầm cảm chiếm 6,6 % các vấn đề
sức khỏe tâm thần [17]. Theo nghiên cứu của Unicef cho thấy 8-29% trẻ em
và trẻ vị thành niên Việt Nam mắc các vấn đề về sức khoẻ tâm thần, 2,3% trẻ
vị thành niên tự tử [36].
Như vậy, đã có khá nhiều các nghiên cứu về trầm cảm nói chung và
trầm cảm ở vị thành niên nói riêng, được tiến hành ở Việt Nam. Tỷ lệ trầm
cảm được xác định hết sức đa dạng tùy theo địa bàn nghiên cứu và độ tuổi và
mức độ rối nhiễu. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu về một trường hợp cụ
thể có rối loạn trầm cảm. Nghiên cứu của chúng tôi tập trung đánh giá và lên
kế hoạch trị liệu cho một trường hợp rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên.
1.1.2. Các nghiên cứu về đánh giá và can thiệp trầm cảm ở trẻ vị thành niên
Những nghiên cứu về chẩn đoán đánh giá trầm cảm đã được một số tác
giả nghiên cứu trong những năm gần đây. Năm 1990, tên gọi liệu pháp nhận
thức hành vi bắt đầu được sử dụng. Tên gọi này chỉ tất cả những liệu pháp tâm
lý có định hướng đến nhận thức như liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý của
Ellis, liệu pháp nhận thức của Beck, liệu pháp hành vi hợp lý của Maultsby.
Những liệu pháp này nhằm biến đổi những niềm tin và ý nghĩ không hợp lý của
6
những người đang mắc bệnh như trầm cảm và nó được xem như là liệu pháp cơ
bản của trị liệu hành vi nhận thức cho trầm cảm [13].
Trong những báo cáo gần đây, Hollon ( 2005) đã nổi tiếng với một số
kết luận quan tâm đến mối liên quan hiệu quả của liệu pháp tâm lý và thuốc
trong điều trị trầm cảm. Đầu tiên, khi liệu pháp tâm lý được đưa vào thì hiệu
quả tác dụng như điều trị bằng hóa dược trong rối loạn trầm cảm. Mặc dù thuốc
có tác dụng mạnh trong những trường hợp cấp tính, nhưng thuốc không thể ngăn
chặn sự tái phát sau khi điều trị kết thúc, thuốc cũng không phải hiệu quả cho
mọi bệnh nhân và không phải tất cả bệnh nhân đều muốn dùng thuốc vì thuốc có
nhiều tác dụng không mong muốn khi sử dụng. Đã có nhiều nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng đã so sánh hiệu quả của liệu pháp
điều trị nhận thức hành vi trong điều trị giai đoạn cấp của rối loạn trầm cảm so
với các phương pháp điều trị tâm lý khác hoặc so sánh với các thuốc chống
trầm cảm.
Hollon và cộng sự ( 2005) khi nghiên cứu trên 106 bệnh nhân trầm cảm
trong thời gian 12 tuần nhận thấy liệu pháp nhận thức hành vi có hiệu quả
ngang với impramin. Oei và Yeoh ( 2003) khi nghiên cứu trên 71 bệnh nhân
trầm cảm trong đó có 25 bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp nhận thức
hành vi kết hợp với một loại thuốc chống trầm cảm và 46 bệnh nhân được
điều trị bằng liệu pháp nhận thức hành vi nhóm đều có đáp ứng rõ rệt với các
phương pháp điều trị. Tuy nhiên sự đáp ứng này không có sự khác biệt giữa
hai nhóm.
Thase và cộng sự khi nghiên cứu trên 48 bệnh nhân rối loạn trầm cảm
được điều trị bằng CBT trong 16 tuần, sau đó theo dõi dọc trong một thời gian
1 năm nhận thấy tỉ lệ tái phát chỉ là 32%. Fava và cộng sự cũng thực hiện
nghiên cứu về tỉ lệ tái phát của bệnh nhân trầm cảm sau khi điều trị bằng CBT
nhận thấy tỉ lệ tái phát sau bốn năm theo dõi là 35%. Trong khi đó, ở nhóm
7
bệnh nhân chăm sóc lâm sàng là 75%. Khi tiếp tục theo dõi thêm trong thời
gian hai năm nữa, các tác giả nhận thấy tỉ lệ tái phát ở lần lượt mỗi nhóm là
40% và 90%.
Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả của CBT hơn hẳn hoặc
bằng so với việc sử dụng thuốc, và CBT có tác dụng lâu dài hơn thuốc. Các cá
nhân sau khi tham gia trị liệu CBT thì có thể sử dụng được những kỹ năng đối
phó với nguy co tái phát trong tương lai.
Một nghiên cứu khác của Fourier và cộng sự ( 2008) so sánh hiệu quả
của thuốc và trị liệu nhận thức hành vi trên những đối tượng trầm cảm kết hợp
với rối loạn nhân cách hoặc không có rối loạn nhân cách cũng cho thấy rằng
có sự ảnh hưởng nhất định của các đặc điểm rối loạn nhân cách đến khả năng
đáp ứng với điều trị ở những bệnh nhân này trong thời điểm 16 tuần điều trị,
thể hiện ở 66% đáp ứng tốt với thuốc và 44% đáp ứng tốt với trị liệu nhận
thức hành vi với những người có trầm cảm kết hợp với rối loạn nhân cách.
Trong khi đó, 49% bệnh nhân đáp ứng với thuốc và 70% bệnh nhân đáp ứng
với trị liệu nhận thức hành vi ở nhóm bệnh nhân trầm cảm nhưng không đi
kèm các biểu hiện của rối loạn nhân cách. Từ kết quả tiếp tục theo dõi 2 nhóm
bệnh nhân này một năm sau đó, kết luận là trị liệu nhận thức hành vi có hiệu
quả hơn trị liệu bằng thuốc trên các nhóm đối tượng trầm cảm không kèm các
đặc điểm của rối loạn nhân cách.
Khi nghiên cứu 25 bệnh nhân trầm cảm điều trị nội trú tại bệnh viện
Derek R Hopko nhận thấy sau thời gian điều trị bằng liệu pháp kích hoạt hành
vi điểm trung bình của thang Beck trầm cảm từ 35,1(SD= 7,4) giảm xuống
còn 19,1 (SD=13,1) [33].
Theo Coffman, Martell, Dimidjian, Gallop, & Hollon, (2007),
Dimidjian, (2006), liệu pháp kích hoạt hành vi là một trị liệu có hiệu quả
trong điều trị trầm cảm, liệu pháp có hiệu quả tương đương với Paroxetine và
8
tốt hơn liệu pháp nhận thức trong trầm cảm mức độ trung bình đến mức độ
nặng trong một số lớn thử nghiệm ngẫu nhiên, dựa trên lý thuyết hành vi cơ
bản và những chứng cớ hiện tại để cấu thành hành vi có thể kích hoạt cơ chế
của sự thay đổi liệu pháp hành vi nhận thức trong lâm sàng trầm cảm. Liệu
pháp hành vi điển hình có từ 8-15 buổi. Trong những buổi đầu tiên nhà trị liệu
giải thích những hoạt động trầm cảm nào trở nên yếu đi để thỏa mãn hoạt
động và khí sắc trầm. Nhà trị liệu sẽ hướng dẫn bệnh nhân một cách có hiệu
quả để vượt qua sự tiến triển của bệnh dành cho hành vi sức khỏe, bệnh nhân
sẽ được khuyến khích để theo đuổi hành vi sức khỏe của mình. Nhà trị liệu
cũng khuyến khích bệnh nhân báo cáo những hoạt động mổi ngày và chọn lọc
những mục tiêu hành vi cuối tuần liên quan tới các mối quan hệ, giáo dục,
nghề nghiệp, sở thích, bài tập thể dục và những hành vi tinh thần khác [33].
Các nhà nghiên cứu đề xuất rằng can thiệp hành vi dành cho trầm cảm,
có đủ khả năng làm giảm nhẹ các triệu chứng trầm cảm, cải thiện chức năng
nhận thức và chất lượng cuộc sống. Khi gia tăng chương trình hoạt động sẽ
giúp bệnh nhân cảm thấy sức khỏe tốt hơn, bệnh nhân cảm thấy ít mệt hơn,
bệnh nhân có thể suy nghĩ rõ ràng hơn. Triết lý này là kết quả của sự phát
triển mô hình của liệu pháp kích hoạt hành vi hiện nay [32].
Trị liệu hành vi nhận thức đối với trầm cảm ở trẻ em được nghiên cứu
sâu rộng nhất, nhìn chung những phát hiện liên quan đến hiệu quả của phương
pháp này là tốt. Một ví dụ về một tiếp cận hành vi nhận thức là “ đối mặt với
thời kỳ trầm cảm dành cho trẻ vị thành niên”( Clarke, Debar &
Lewinsohn,2003; Lewinsohn và cộng sự, 1996). Can thiệp này bao gồm chơi
sắm vai nhằm dạy các kỹ thuật liên quan với người khác và giải quyết vấn đề,
xây dựng lại nhận thức tích cực nhằm đổi ngược lại các nhận thức đáp ứng sai
lệch và các kỹ thuật tự củng cố . Những nghiên cứu về hiệu quả của tiếp cận
này cho thấy rằng , 80% trẻ vị thành niên có cải thiện.
9
Các bằng chứng chỉ ra rằng liệu pháp nhận thức hành vi có hiệu quả nhất
định trong điều trị rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên. Trị liệu nhận thức
hành vi kết hợp với thuốc chống trầm cảm được xem là biện pháp hiệu quả
nhất trong điều trị các dạng bệnh trầm cảm nặng ở trẻ vị thành niên, liệu pháp
trị liệu nhận thức hành vi đơn lẻ có hiệu quả cao hơn trong điều trị các dạng
trầm cảm nhẹ và vừa. Ngoài ra, tỷ lệ tái phát sau khi kết thúc trị liệu bằng hóa
dược rất cao trong khi đó với trị liệu nhận thức hành vi, tỷ lệ tái phát bệnh nhỏ
hơn rất nhiều và các nhà nghiên cứu cho rằng trị liệu nhận thức hành vi có tác
động lâu dài ngay cả sau khi kết thúc trị liệu 1- 2 năm [10].
Một nghiên cứu trên nhóm đối tượng 439 trẻ vị thành niên trong độ tuổi
12-17 bị trầm cảm so sánh hiệu quả của các 4 nhóm liệu pháp: (a) hóa dược (
Fluoxetine); (b) trị liệu nhận thức hành vi; (c) nhận thức hành vi kết hợp với
hóa dược và (d) giả dược. Hiệu quả trị liệu được đánh giá dựa trên thang đo
trầm cảm dành cho trẻ em và vị thành niên. Kết quả cho thấy so với giả dược,
liệu pháp kết hợp giữa trị liệu bằng hóa dược và nhận thức hành vi cho kết quả
tốt nhất. So sánh với nhóm chỉ trị liệu bằng thuốc và nhóm chỉ can thiệp nhận
thức hành vi cũng thấy sự kết hợp của thuốc và nhận thức hành vi có hiệu quả
cao hơn rõ rệt. Và cuối cùng khi so sánh hiệu quả của hai nhóm chỉ điều trị
bằng thuốc và chỉ điều trị bằng nhận thức hành vi thì cho thấy nhóm chỉ điều trị
bằng thuốc có tỉ lệ đáp ứng ( giảm thiểu các triệu chứng) cao hơn nhóm trị liệu
nhận thức hành vi. Cụ thể là tỉ lệ đáp ứng với liệu pháp kết hợp thuốc và nhận
thức hành vi là 71,1%, thuốc là 60,6%, trị liệu nhận thức hành vi là 43,2% và
thuốc vờ là 34,8% trên thang đo trầm cảm dành cho trẻ em và vị thành niên.
Như vậy, trong can thiệp trầm cảm vị thành niên, liệu pháp kết hợp giữa thuốc
và trị liệu nhận thức hành vi có hiệu quả cao nhất, thứ đến là liệu pháp hóa
dược đơn lẻ và cuối cùng là trị liệu nhận thức hành vi [37].
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về liệu pháp tâm lý để điều trị cho bệnh nhân
10
trầm cảm còn chưa nhiều. Hầu hết các nghiên cứu chủ yếu tìm hiểu hiệu quả của
thuốc trong khi các nghiên cứu về hiệu quả của điều trị tâm lý còn rất ít.
Nghiên cứu “ Kết quả chẩn đoán trầm cảm ở học sinh trung học phổ
thông Hà Nội” của tác giả Nguyễn Bá Đạt (2003) cho thấy trong số những học
sinh gặp khó khăn học đường có một số học sinh rơi vào trạng thái trầm cảm –
rối loạn cảm xúc [8].
Tại thành phố Đà Nẵng và Khánh Hòa, với sự hỗ trợ chính của tổ chức quỹ
cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam, trong chương trình chăm sóc sức khỏe cộng
đồng từ năm 2009 đến năm 2011, liệu pháp hoạt hóa hành vi kết hợp với thuốc
chống trầm cảm đã được áp dụng để điều trị cho bệnh nhân trầm cảm tại cộng
đồng ở một số phường xã tại khu vực này [28]. Nghiên cứu này đã cho thấy liệu
pháp này có hiệu quả trong điều trị cho bệnh nhân trầm cảm tại cộng đồng.
Nghiên cứu của Trương Văn Lợi (2013) cho bệnh nhân trầm cảm điều trị
tại Bệnh viện tâm thần Trung ương I đã mô tả liệu pháp hoạt hóa hành vi cho
bệnh nhân trầm cảm; đồng thời đưa ra một số kinh nghiệm lâm sàng trong điều
trị cho bệnh nhân trầm cảm [16]. Nghiên cứu của Ngô Thị Minh Tâm (2013),
cho bệnh nhân có rối loạn trầm cảm ở bệnh viện Tâm thần Huế đã tìm ra những
yếu tố liên quan đến hiệu quả khi áp dụng trị liệu nhận thức hành vi đối với
bệnh nhân trầm cảm đồng thời đề xuất những biện pháp khắc phục những khó
khăn đó [27]. Nghiên cứu của Trần Thu Hằng (2011) cũng đã tìm ra những
điểm khó khăn khi áp dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa hành vi
trên trẻ vị thành niên có rối loạn trầm cảm [10].
1.2. Một số vấn đề lý luận về trầm cảm ở vị thành niên
1.2.1. Khái niệm trầm cảm
Theo Bảng phân loại bệnh tâm thần lần thứ 5 của hiệp hội tâm thần học
Mỹ ( DSM –5) thì: “ Rối loạn trầm cảm bao gồm trầm cảm chủ yếu, loạn khí
sắc, trầm cảm do một chất và trầm cảm do một bệnh thực tổn. Rối loạn trầm
11
cảm bao gồm được đặc trưng bởi khí sắc trầm buồn, mất hầu hết các hứng
thú/sở thích, có suy nghĩ và hành vi tự tử”.
Nguyễn Đăng Dung và Nguyễn Văn Siêm đã định nghĩa về trầm cảm
như sau: “ Trầm cảm là trạng thái giảm khí sắc, giảm năng lượng và giảm
hoạt động. Trong các cơn điển hình có biểu hiện ức chế toàn bộ hoạt động
tâm thần. Bệnh nhân có khí sắc buồn rầu, ủ rũ, giảm hứng thú và quan tâm,
cảm thấy tương lai ảm đạm, tư duy chậm chạp, liên tưởng khó khăn, tự cho
mình là hèn kém, giảm sút lòng tự tin, thường hoang tưởng bị tội, dẫn đến tự
sát, giảm vận động, ít nói, thường nằm hoặc ngồi lâu ở một tư thế, kèm theo
sự rối loạn các chức năng sinh học ( mất ngủ, chán ăn, mệt mỏi…)” [6].
1.2.2. Khái niệm vị thành niên
Theo Từ điển tiếng Việt thì “Vị thành niên là những người chưa đến
tuổi trưởng thành để chịu trách nhiệm về những hành động của mình”. Trong
các văn bản pháp luật hiện hành ở nước ta (như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao
động) có dùng thuật ngữ “người chưa thành niên” và có quy định cụ thể về độ
tuổi và mức độ mà người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm về hành vi
của mình.
1.2.3. Các lý thuyết tiếp cận về trầm cảm
1.2.3.1. Thuyết phân tâm học về trầm cảm
S.Freud cho rằng rối loạn trầm cảm là một quá trình tương tự như đau
buồn. Khi quá đau buồn cá nhân có thể thoái lui về giai đoạn môi miệng của
sự phát triển, như là một cơ chế phòng vệ chống lại những nỗi đau quá lớn.
Điều này dẫn cá nhân sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào người mà họ yêu quý; hậu
quả khiến họ đồng nhất mình với những người đó và từ đó họ sẽ giành lại
được mối quan hệ đã mất. Tiếp theo, qua một quá trình gọi là tiếp nhận, cá
nhân hướng những cảm nhận về người họ yêu quý đến chính bản thân. Những
cảm xúc này có thể là sự giận dữ, kết quả của các xung đột không giải quyết
12
được. Phản ứng như thế có thể trở thành bệnh lý nếu cá nhân tiếp tục trong
một thời gian dài, dẫn đến tự căm ghét bản thân và trầm cảm. Ông cũng cho
rằng trầm cảm “ bình thường” là kết quả của những mất mát có tính tượng
trưng hay tưởng tượng. Sự việc nghiêm trọng khi nó lấy mất của cá nhân tình
yêu hoặc sự đánh giá của những người quan trọng theo một cách nào đấy và
cá nhân lại hướng những cảm xúc đó về mình và tiếp nhận chúng. Những
người không thể thỏa mãn quá nhiều mà cũng không thể thỏa mãn ít được là
những người dễ bị trầm cảm nhất. và họ sẽ còn phụ thuộc vào tình thương và
sự chấp nhận của người khác, họ còn rất nhạy cảm với những sự kiện gây ra
lo lắng hoặc những trải nghiệm mất mát [25].
Rene’ Spitz đưa ra thuật ngữ “ trầm cảm thiếu chỗ dựa” để chỉ một
phản ứng đặc biệt của trẻ em do thiếu sự chăm sóc của mẹ. Rene’ Spitz mô tả
hành vi của trẻ em tuổi 6-18 tháng khi bị tách mẹ đột ngột bao gồm: bé kêu
khóc, thu mình, thờ ơ với xung quanh, thoái lui về phát triển và có triệu chứng
về thân thể như rối loạn giấc ngủ, chán ăn, sụt cân, giảm vận động. Các triệu
chứng trên có thể hồi phục hay không hồi phục [25].
Theo Sandler và Joffe, đáp ứng trầm cảm là phản ứng cảm xúc cơ bản phản
ánh đáp ứng với một trạng thái đau. Nhưng nó không hòa lẫn với trạng thái đau và
cũng không phải là đáp ứng duy nhất có thể xảy ra. Phản ứng trầm cảm là phản
ứng cuối cùng để tránh sự bất lực trước trạng thái đau thể chất và tâm lý [20].
1.2.3.2. Thuyết nhận thức về trầm cảm
Aron Beck đã có nghiên cứu về trầm cảm, ông đã tiến hành nhiều quan
sát lâm sàng đối với bệnh nhân trầm cảm và quan sát thấy những định kiến
tiêu cực trong quá trình nhận thức của họ. Beck đã phát triển ra lý thuyết về
rối loạn cảm xúc và mô hình nhận thức của trầm cảm từ việc liên tục quan sát
lâm sàng và kiểm nghiệm thực tế. Theo Beck, trầm cảm được đặc trưng bởi
một tam giác nhận thức. Cá nhân trầm cảm có cái nhìn tiêu cực về cái tôi, về
13
thế giới và về tương lai, họ nhìn nhận bản thân là không có giá trị, không
tương ứng. Quan điểm tiêu cực nổi bật trong lòng tin của họ rằng có một lực
lượng lớn các nhu cầu đang tồn tại và có những rào cản lớn ngăn cản con
đường đi đến mục tiêu. Những người bị trầm cảm thường có cái nhìn bi quan,
chán nản, phản ánh niềm tin rằng các vấn đề hiện tại sẽ không cải thiện được,
và sự bi quan tuyệt vọng này có thể dẫn đến ý tưởng tự sát. Các triệu chứng
động cơ, hành vi, cảm xúc và cả thân thể của rối loạn trầm cảm cũng đồng
thời được hoạt hóa dưới chế độ của trầm cảm [23].
1.2.3.3. Thuyết hành vi về trầm cảm
Các lý thuyết hành vi về trầm cảm tập trung chủ yếu vào các quá trình
điều kiện hóa quan sát được. Lewinshon và cộng sự (1979), đã chỉ ra rằng
trầm cảm là kết quả của tỉ lệ thấp các củng cố xã hội tích cực dẫn đến khí sắc
chán nản và thu hẹp những hành vi mang tính xu hướng được xã hội tán
thưởng. Cá nhân tự tách mình ra khỏi các liên hệ xã hội, một hành động mà
trên thực tế có thể làm tăng tạm thời các liên hệ xã hội bởi họ có thể có được
sự cảm tình chú ý nhờ hành vi của mình. Điều này có thể tạo ra củng cố khác,
được biết đến như là lợi ích thứ cấp mà trong đó cá nhân được tán thưởng nhờ
những hành vi có trầm cảm của mình. Tuy nhiên, giai đoạn này lại thường đi
cùng với sự thu hẹp về chú ý ( tần suất tán thưởng từ phía môi trường giảm
đi) và khí sắc [20].
1.2.3.4. Sự tuyệt vọng tập nhiễm
Theo lý thuyết về sự tuyệt vọng tập nhiễm của Seligman, trầm cảm bắt
nguồn từ việc người ta được học rằng môi trường sinh lý và xã hội nằm ngoài
khả năng kiểm soát của cá nhân. Trong những thực nghiệm trên động vật, các
con vật được đặt ở trong một khu vực mà chúng có thể chạy trốn. Sau khi trải
qua một lần sốc điện nhẹ, các con vật sẽ nhanh chóng học được cách nhảy qua
hàng rào để tránh bị sốc. Tuy nhiên, khi người ta ngăn chúng là điều đó bằng
14
cách nhốt chúng trong một cái cũi, cuối cùng thì chúng không cố tránh sốc
điện nữa, ngay cả khi cơ hội trốn thoát luôn rộng mở đối với chúng. Chúng đã
học được rằng, chúng không thể trốn tránh được sốc điện và thể hiện nỗi tuyệt
vọng của mình bằng sự trì trệ, không cố gắng thay đổi hoàn cảnh. Nhiều
nghiên cứu đã sử dụng quy trình khác để tìm ra sự tuyệt vọng do học tập/ tập
nhiễm ở cả người và động vật. Những người trải qua các thực nghiệm này đều
biểu hiện những “triệu chứng” tương tự như các cá nhân bị trầm cảm bệnh lý,
bao gồm việc thiếu động cơ hoạt động, bi quan và quá trình tiếp thu bị phá vỡ
[20].
1.2.4. Các tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm
* Chẩn đoán xác định bệnh nhân có rối loạn trầm cảm dựa trên các
triệu chứng theo ICD – 10.
– Ba triệu chứng đặc trưng chủ yếu:
+ Khí sắc trầm
+ Mất quan tâm, thích thú và mọi ham muốn
+ Tăng mệt mỏi, giảm hoạt động chỉ sau một cố gắng nhỏ
– Bảy triệu chứng phổ biến khác:
+ Giảm sút tập trung chú ý
+ Giảm sút lòng tự trọng và lòng tự tin
+ Có ý tưởng bị tội và không xứng đáng
+ Bi quan về tương lai
+ Có ý tưởng và hành vi tự hủy hoặc tự sát
+ Rối loạn giấc ngủ
+ Ăn ít ngon miệng
Tiêu chuẩn xác định các mức độ trầm cảm.
– Trầm cảm nhẹ
+ Có ít nhất hai triệu chứng chủ yếu của trầm cảm
15
+ Có ít nhất hai triệu chứng phổ biến khác
+ Không có triệu chứng nào ở mức độ nặng
+ Thời gian rối loạn trầm cảm kéo dài tối thiểu hai tuần
+ Có hoặc không có các triệu chứng cơ thể của trầm cảm
+ Trẻ khó tiếp tục các công việc hằng ngày, các hoạt động xã hội.
– Trầm cảm vừa
+ Có ít nhất hai triệu chứng chủ yếu của trầm cảm
+ Có ít nhất 3 hoặc 4 triệu chứng phổ biến khác
+ Có thể có một số triệu chứng ở mức độ nặng
+ Thời gian rối loạn trầm cảm kéo dài tối thiểu hai tuần
+ Có hoặc không có các triệu chứng cơ thể của trầm cảm
+ Khó khăn trong các hoạt động xã hội học tập
– Trầm cảm nặng
+ Có cả 3 triệu chứng chủ yếu của trầm cảm
+ Có nhiều hơn 4 triệu chứng phổ biến khác
+ Phần lớn các triệu chứng ở mức độ nặng
+ Thời gian rối loạn trầm cảm kéo dài tối thiểu hai tuần
+ Các triệu chứng cơ thể của trầm cảm hầu như luôn có mặt
+ Ít khả năng tiếp tục các công việc học tập, sinh hoạt xã hội
* Chẩn đoán trầm cảm theo DSM – 5
A. Ít nhất 5 trong những triệu chứng sau, xuất hiện cùng lúc, kéo dài 2
tuần làm thay đổi so với hoạt động trước đó; ít nhất một trong các triệu chứng
phải là: (1) khí sắc trầm cảm, (2) mất hứng thú hoặc mất vui.
Ghi chú: các triệu chứng này không phải do một bệnh khác gây nên.
(1) Khí sắc trầm cảm gần như suốt ngày, hầu như mỗi ngày được khai
báo bởi bệnh nhân (ví dụ:cảm thấy buồn hay trống rỗng, tuyệt vọng) hoặc
thông qua quan sát của người khác (ví dụ: khóc).
16
Chú ý:ở trẻ em và vị thành niên khí sắc có thể bị kích thích.
(2) Giảm sút rõ về thích thú hoặc thú vui trong tất cả, hầu như tất cả các
hoạt động hầu như suốt ngày, gần như mỗi ngày (được nhận thấy bởi bệnh
nhân hoặc thông qua quan sát của người khác)
(3) Giảm cân đáng kể không phải do ăn kiêng hoặc tăng cân (ví dụ:
thay đổi trọng lượng cơ thể quá 5% trong 1 tháng) hoặc tăng hay giảm cảm
giác ngon miệng gần như mỗi ngày. Ghi chú: ở trẻ em có thể không đạt mức
tăng cân như dự đoán.
(4) Mất ngủ hay ngủ nhiều hầu như mỗi ngày.
(5) Kích động hay chậm chạp tâm thần vận động hầu như mỗi ngày
(được nhận thấy bởi người khác chứ không phải chỉ là cảm giác của bệnh
nhân về việc bứt rứt hoặc chậm chạp bên trong cơ thể).
(6) Mệt mỏi hoặc mất năng lượng hầu như mỗi ngày.
(7) Cảm giác bị mất giá trị hoặc cảm giác tội lỗi quá mức hoặc không
thích hợp (có thể đạt đến mức hoang tưởng) hầu như mỗi ngày (không chỉ là
việc tự trách móc hoặc có cảm giác tội lỗi do bị bệnh).
(8) Giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung chú ý hoặc thiếu quyết đoán
hầu như mỗi ngày (do bệnh nhân khai báo hoặc được quan sát bởi người khác).
(9) Ý nghĩ về cái chết tái diễn (không chỉ là sợ chết), các ý tưởng tự tử
tái diễn nhưng không có kế hoạch tự tử, hoặc có mưu toan tự tử hoặc có kế
hoạch tự tử cụ thể.
B.Các triệu chứng không thỏa mãn cho một giai đoạn hỗn hợp.
C. Các triệu chứng được biểu hiện rõ ràng, là nguyên nhân ảnh hưởng
đến các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc trong các lĩnh vực quan trọng khác.
D. Các triệu chứng không phải là hậu quả sinh lý trực tiếp của một chất
( ví dụ: ma túy, thuốc) hoặc do một bệnh cơ thể ( ví dụ: bệnh nhược giáp).
E. Các triệu chứng không được giải thích tốt bởi có tang, nghĩa là sau
17
khi mất người thân, các triệu chứng bền vững hơn hai tháng, được đặc trưng
bởi rối loạn chức năng rõ ràng, có ý nghĩ mình là vô dụng, ý tưởng tự sát, các
triệu chứng loạn thần hoặc vận động tâm thần chậm.
Chẩn đoán phân biệt:
– Giai đoạn hưng cảm kèm theo những phản ứng cáu gắt hoặc pha hỗn hợp.
– Rối loạn khí sắc do một bệnh cơ thể khác.
– Rối loạn trầm cảm do một chất, thuốc hoặc rối loạn lưỡng cực.
– Rối loạn tăng động/ giảm chú ý.
– Rối loạn thích ứng có khí sắc trầm cảm.
* Trầm cảm ở trẻ vị thành niên:
Với những đặc thù phát triển ở tuổi vị thành niên, ngoài những đặc
điểm chung của trầm cảm, lâm sàng ở lứa tuổi này cũng có những đặc điểm riêng.
Ở một số trẻ có rối loạn trầm cảm, tâm trạng nổi trội là khó chịu như cáu gắt, bực
bội, kích thích gây hấn hơn là nỗi buồn ( đây là điểm khác biệt giữa trẻ em và
người lớn). Sự khó chịu liên quan đến trầm cảm ở trẻ có thể biểu hiện như là hành
vi hiếu chiến, bất hợp tác…
Sau đây là một số biểu hiện có thể có của trẻ em và thanh thiếu niên bị
trầm cảm:
– Cảm thấy tức giận hầu hết thời gian: Khi cảm thấy chán nản, trẻ
thường có xu hướng trở nên nóng tính và thể hiện sự tức giận bằng cách la
hét, đập cửa hay những điều tương tự.
– Cảm thấy vô dụng hay vô giá trị: Khi ở tuổi này mà trẻ bắt đầu xem
cuộc sống của mình vô vị, chẳng có giá trị nào, thường nói mình cảm thấy vô
dụng thì đây là dấu hiệu cho thấy trẻ đang hướng tới thế giới của trầm cảm.
– Cảm thấy buồn mà không có lý do: Người lớn khi thấy trẻ có sự ảm
đạm, trầm lắng mà không có lý do chính đáng. Tần suất xảy ra ngày một
thường xuyên hơn. Đây là lúc cần dành nhiều thời gian tìm hiểu và giúp trẻ