1
I.
Phần mở đầu:
Arixtốt là nhà triết học, nhà giáo dục và nhà khoa học đã tạo nên ảnh hưởng hết sức
lớn lao trong nền Văn Minh Tây Phương. Cùng với Platông, Arixtốt được coi là một
trong các nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất. Arixtốt hiểu rõ toàn thể học thuật
Hy Lạp của các thời đại trước, đã cứu xét, tóm tắt, nhận xét và làm phát triển kiến
thức của nhân loại, gây ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ về sau. Nhưng do những hạn
chế của lịch sử và bản thân cũng là nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô quý tộc, nên về
mặt triết học ông còn do dự giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; về mặt
chính trị ông chỉ bảo vệ giai cấp chủ nô trung lưu của chính mình. Đã hơn 2000
năm với nhiều biến đổi lớn lao về mặt lịch sử, văn hóa tinh thần cũng như là khoảng
thời gian đủ dài để chứng minh những ảnh hưởng của tư tưởng triết học của Arixtốt
đến đời sống tinh thần của thời đại. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Tư tưởng
triết học của Arixtốt và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần
của thời đại” là điều cấp thiết.
II.
Tư tưởng triết học của Arixtốt:
1.
Thuyết nguyên nhân – cơ sở của siêu hình học.
Arixtốt cho rằng tồn tại nói chung phải xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ bản: vật chất
(vật liệu), hình thức (hình dạng), vận động (thao tác) và mục đích (cứu cánh); trong
đó, hình thức và vật chất giữ vai trò quan trọng nhất (nhị nguyên luận). Tuy nhiên,
theo ông hình thức giữ vai trò quyết định so với vật chất (nhất nguyên luận duy
tâm); bởi vì, nếu không có hình thức thì vật chất chỉ là khả năng thụ động chứ không
phải là hiện thực. Hình thức là thực chất của tồn tại, là bản chất tích cực của sự vật;
nó hàm chứa trong mình vận động và mục đích. Nhờ tính tích cực của hình thức mà
mọi sự vật vận động được; còn vận động của sự vật là một quá trình khách quan
diễn ra theo những trình tự xếp đặt trước, tức có mục đích của Thượng đế. Arixtốt
còn cho rằng, tồn tại cả vật chất ban đầu phi hình thức (cái khả năng thụ động) lẫn
hình thức ban đầu phi vật chất (hình thức của mọi hình thức, lý tính thuần túy,
Thượng đế, động cơ đầu tiên của thế giới, nguyên nhân tận cùng, mục đích tối
thượng của mọi hiện tượng).
2
Thuyết nguyên nhân là nền tảng của Siêu hình học (triết học thứ nhất) mang tính
thần thánh của Arixtốt. Siêu hình học là cơ sở lý luận để Arixtốt xây dựng Vật lý
học (triết học thứ hai) mang tính tự nhiên bàn về vũ trụ, giới tự nhiên và quá trình
vận động của chúng.
2.
Thuyết vận động – cơ sở của Vật lý học
Arixtốt cho rằng giới tự nhiên là toàn bộ các sự vật, quá trình luôn vận động có lien
hệ với nhau và được cấu thành từ một bản thể vật chất. Vận động không thể bị tiêu
diệt và cũng không thể tách ra khỏi sự vật, quá trình tự nhiên. Có 6 hình thức vận
động là phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí. Arixtốt
đã dừng lại trước quan niệm vận động tự thân của vật chất mà thừa nhận cái hích
đầu tiên của thượng đế nằm bên ngoài giới tự nhiên là nguồn gốc thần thánh của mọi
vận động xảy ra trong giới tự nhiên.
Arixtốt cho rằng, vũ trụ là hữu hạn, lien tục và khép kín trong không gian nhưng
vĩnh viễn về thời gian. Vạn vật trong vũ trụ đều được cấu thành từ 5 yếu tố: đất,
nước, lửa, không khí (từ mặt trăng trở xuống trái đất) và éther (bên ngoài mặt trăng
bao trùm toàn vũ trụ). Xuất phát từ quan điểm cho rằng vật nặng rơi nhanh hơn vật
nhẹ, và mỗi yếu tố có một xu hướng vận động riêng, chiếm giữ một vị trí riêng nhất
định trong trật tự cấu trúc vũ trụ, Arixtốt đặt nền móng cho thuyết vũ trụ địa tâm.
3.
Quan niệm về sinh thể, con người và linh hồn
Khi phủ nhận quan điểm của Platông coi thể xác là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn
bất tử, Arixtốt dựa trên thuyết nguyên nhân cho rằng, cũng giống như sự vật được
hình thành từ hình thức và vật chất, sinh thể và con người được cấu thành từ thể xác
và linh hồn. Không có linh hồn bất tử, không có linh hồn trong cơ thể chết và cũng
không có linh hồn năm bên ngoài thể xác vật chất. Nhưng tùy theo cấp độ, Arixtốt
chia linh hồn ra thành 3 loại là: linh hồn thực vật khả ử thực hiện chức năng nuôi
dưỡng và sinh sản, linh hồn động vật khả tử thực hiện chức năng cảm ứng với môi
trường xung quanh và linh hồn lý tính ( một bộ phận linh hồn con người) bất tử thực
3
hiện chức năng hoạt động nhận thức. Trong thể xác con người có đủ 3 loại linh hồn
trên, khi con người chết đi linh hồn thực vật và linh hồn động vật mất đi cùng với sự
tan rã của thể xác nhưng linh hồn lý tinh chứa tri thức vẫn tồn tại bất diệt. Theo ông,
con người là một sinh thể có lý trí.
4.
Quan niệm về nhận thức
Khi vạch ra tính vô dụng của thuyết ý niệm và tính bịa đặt chứa trong quan niệm về
nhận thức của Platông, Arixtốt cho rằng:
Bản chất của con người là khát vọng hướng đến tri thức, con người sinh ra để nhận
thức, kẻ nào không nhận thức kẻ đó không là con người. Nhận thức là một quá trình
xuất phát từ thực tại khách quan trải qua giai đoạn cảm giác, biểu tượng để đến tư
duy, lý luận. Đối tượng nhận thức là hiện tượng khách quan, cảm giác là cơ sở của
nhận thức. Không có sự tác động của hiện thực khách quan vào giác quan thì sẽ
không có một tri thức nào, nhưng nhận thức cảm tính không có khả năng đi sâu vào
bản chất sự vật, chỉ có nhận thức cảm tính không có khả năng đi sâu vào bản chất sự
vật, chỉ có nhận thức lý tính mới khám phá được cái chung, cái phổ biến, cái tất yếu,
cái quy luật. Bản chất của sự vật được phát hiện ra nhờ vào quá trình khái quát, trừu
tượng hóa…..
Mặc dù nhận thức là hoạt động bản tính của linh hồn con người, nhưng trong linh
hồn con người không tồn tại tri thức bẩm sinh như Platông thừa nhận. Linh hồn của
con người mới vừa sinh ra như một tấm bảng trắng. Nhận thức là quá trình phản
ánh hiện thực khách quan bên ngoài vào bên trong linh hồn, tức là ghi chép lên linh
hồn những dòng chữ tri thức. Nhiệm vụ của khoa học là khám phá ra cái tất yếu tổng
quát, tức là cái bản chất, cái quy luật trong các sự vật, hiện tượng riêng lẻ nhằm tích
lũy tri thức.
Với bộ óc bách khoa toàn thư của mình, Arixtốt vươn lên bao quát nắm bắt được
mọi tri thức khoa học có được lúc bấy giờ. Đối với ông, khoa học là một hệ thống tri
thức phức tạp nhằm hướng tới 3 mục đích là: hoạt động đời sống, sáng tạo và tự
biện. Vì vậy có 3 nhóm khoa học là: khoa học thực hành (đạo đức học, chính trị
4
học…), khoa học sáng tạo (hùng biện, thi ca, nghệ thuật…) và khoa học tự biện – lý
thuyết (siêu hình học, vật lý học, toán học, logic học…). Càng ngày, khoa học càng
nhận thức đầy đủ thế giới và càng đạt được nhiều chân lý, nghĩa là càng có nhiều tri
thức hay tư tưởng phù hợp với hiện thực khách quan, còn thực tiễn hay cuộc sống
tiêu chuẩn để xác định sự phù hợp đó.
Muốn đạt được chân lý, tránh sai lầm trong quá trình tìm hiểu bản chất, khám phá
quy luật của hiện thực khách quan thì linh hồn lý tính phải được trang bị các phương
pháp suy nghĩ đúng đắn, nghĩa là phải tuân thủ những yêu cầu của logic học. Đó là
tuân theo yêu cầu của quy luật đồng nhất, quy luật phi mâu thuẫn, quy luật triệt tam,
hướng tư duy theo các quy tắc tam đoạn luận… Bộ Organon của Arixtốt đã đặt nền
móng vững chắc cho bộ môn logic hình thức.
5.
Quan niệm về đạo đức, chính trị – xã hội
Cũng giống như Platông Arixtốt coi sự mở rộng nhận thức luận vào trong hành vi
của con người tạo nên đạo đức học. Còn chính trị học của ông là sự khai triển đạo
đức học vào trong đời sống xã hội. Khi phủ nhận quan điểm Platông coi hạnh phúc
của con người gắn liền với thế giới ý niệm, Arixtốt cho rằng:
Lý trí và lẽ phải đời thường là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh con
người, còn ngu dốt, sai lầm là nguồn gốc của cải qua giáo dục và đào tạo) hay lẽ
phải đời thường (thông qua tập quán lâu đời của cộng đồng) và làm theo lời chúng
một cách tự nhiên, không gò bó. Vì vậy, có hai loại phẩm hạnh, phẩm hạnh lý tính là
hành động dựa theo cái tất yếu và phổ biến. Phẩm hạnh luân lý chính là hành động
dựa theo cái trung dung, tức là không thái quá. Con người cảm thấy khoái lạc khi
bản thân sống có đức hạnh, khi mình làm điều thiện một cách tự nhiên. Khoái lạc
chỉ là một cơ sở của cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc thật sự của con người phải
gắn liền với cuộc sống trần gian gắn liền với bản tính tự nhiên của mình. Hạnh phúc
của con người không bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan như sự khôn ngoan của lý
trí, đức hạnh trong hành vi, sự khoái lạc trong trạng thái…mà còn bị chi phối bởi các
điều kiện khách quan như tiền bạc, sức khỏe, tình bạn, xã hội công bằng.
5
Vậy theo Arixtốt, đời sống đạo đức, hạnh phúc của con người không năm trong thế
giới ý niệm trên trời mà nằm trong thế giới hiện thực dưới đất, nơi trần gian, đồng
thời chúng phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu của từng người trong cộng
đồng xã hội.
Khi phê phán lý luận về nhà nước lý tưởng của Platông là xa rời thực tế, quá đề cao
công ích coi thường lợi ích và sáng kiến cá nhân…, Arixtốt vận dụng thuyết trung
dung xây dựng lý luận chính trị – xã hội của riêng mình. Trung tâm của lý luận này
là học thuyết về nhà nước. Theo Arixtốt, con người không chỉ là sinh thể biết nhận
thức, biết sống có đạo đức mà còn là một động vật chính trị. Con người không thể
sống ngoài cộng đồng, bên ngoài sự giao tiếp. Nhà nước là một hình thức giao tiếp
cộng đồng cao nhất, trên cả gia đình, dòng họ, làng xã. Con người về bản chất phải
thuộc về nhà nước. Chỉ có động vật thuần túy hay Thượng đế mới tồn tại bên ngoài
nhà nước.
Sứ mạng của nhà nước là đảm bảo cho mọi người (trừ nô lệ, vì nô lệ không phải là
con người mà chỉ là công cụ biết nói) trong cộng đồng một cuộc sống hạnh phúc với
mức độ phúc lợi ngày càng cao. Để thực hiện sứ mạng này nhà nước phải tiến hành
hoạt động trên 3 lĩnh vực lập pháp, hành chính và xét xử. Theo ông, chính quyền
không nên thuộc về người giàu mà cũng chẳng nên thuộc về tầng lớp chủ nô trung
lưu. Chế độ chính trị tốt nhất không phải là chế độ dân chủ hay chế độ quân chủ mà
là chế độ cộng hòa quý tộc.
Trật tự xã hội bấy giờ (chiếm hữu nô lệ) đối với Arixtốt là một trật tự xấu, nhưng đó
lại là một trật tự cần thiết, vì vậy cần phải bảo vệ nó. Arixtốt xem xét cả mối lien hệ
giữa đạo đức và kinh tế trên bình diện xã hội và bình đẳng giữa các cá nhân trong
cộng đồng. Arixtốt đòi hỏi phải quan tâm đến lao động và phân công lao động.
Là một con người khổng lồ về tư tưởng Arixtốt đã mở ra một chân trời mênh mông
cho khoa học phương Tây phát triển và lý trí Hy Lạp nẩy nở. Nhưng do hạn chế của
lịch sử, và bản thân là nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô quý tộc nên về mặt triết học
ông do dự giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, về mặt chính trị ông chỉ
bảo vệ lợi ích cho tầng lớp chủ nô trung lưu của chính mình.
6
III.
Sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học của Arixtốt đến đời sống văn hóa
tinh thần của thời đại:
Sau khi nhà Đại Hiền Triết Arixtốt qua đời, nền Triết Học của ông được giảng dạy
tại Trường Lyceum do các môn đệ thuộc nhiều thế hệ sau. Một trong các nhà triết
học này là Critolaus đã qua kinh thành Rome vào năm 155 trước Tây Lịch nhờ đó
người La Mã được biết tới nền Triết Học Hy Lạp. Vào năm 50 trước TL,
Andronicus người đảo Rhodes, đã ấn hành các tác phẩm của Arixtốt nhờ đó nhiều
học giả đã học tập và phân tích nền Triết Học kể trên, đặc biệt tại xứ Alexandria.
Sau khi Đế Quốc La Mã suy tàn, kiến thức về nền Triết Học của Arixtốt bị hầu như
quên lãng, nhất là trong khoảng thời gian từ năm 500 sau TL tới thế kỷ thứ 9. Sang
thế kỷ 9 này, các học giả người Ả Rập đã dịch các tác phẩm của Arixtốt sang ngôn
ngữ của họ và đưa chúng vào thế giới Hồi giáo. Nhà triết học người Tây Ban Nha
gốc Ả Rập tên là Averroes thuộc thế kỷ 12 là học giả danh tiếng nhất, đã nghiên cứu
và nhận xét về Arixtốt. Qua thế kỷ 13, các tác phẩm của Arixtốt lại được quan tâm
do các học giả Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo, và Thánh Thomas
Aquinas, một trong các nhà triết học gây ảnh hưởng lớn mạnh nhất, đã dùng nền
Triết Học của Arixtốt làm căn bản cho các tư tưởng Thiên Chúa giáo thời đó. Dante
Alighieri, nhà thơ bậc nhất của thời Trung Cổ, đã gọi Arixtốt là “Bậc thầy của
những người hiểu biết”.
Lý thuyết về ngành Động Vật Học của Arixtốt đã không thay đổi và được giảng dạy
tại tất cả các trường học trong nhiều thế kỷ cho tới khi nhà khoa học người Anh
Charles Darwin đề cập tới Thuyết Tiến Hóa vào thế kỷ 19. Học thuyết của Arixtốt
cũng giữ một vai trò quan trọng trong bộ môn Thần Học và trước thế kỷ 20, môn
Luận Lý (Logic) được coi là của Arixtốt.
Ảnh hưởng của các ý tưởng, học thuyết và triết học của nhà Đại Hiền Triết Arixtốt
đã tỏa rộng, thấm nhập vào ngôn ngữ Khoa Học và Triết Học của nhân loại, giúp ích
vào công cuộc tìm hiểu kiến thức và lương tri.
7
1.
Hệ thống phạm trù trong triết học của Arixtốt và giá trị của nó:
Trong lịch sử triết học Arixtốt là người đầu tiên đã đưa ra một hệ thống các phạm
trù. Đây là điểm khởi đầu cho tất cả các học thuyết tiếp theo về phạm trù. Hệ thống
phạm trù của Arixtốt là sự khái quát và kế tục những thành quả của toàn bộ nền triết
học Hy Lạp cổ đại giai đoạn trước ông. Nó chiếm một vị trí rất quan trọng trong lịch
sử triết học và ngày nay nhiều phạm trù của nó vẫn còn giữ nguyên giá trị bởi vì đó
là những phạm trù cơ bản nhất trong tư duy của nhân loại.
Phạm trù là những khái niệm cơ bản biểu hiện những mặt chung nhất và bản chất
nhất của hiện thực, những mối liên hệ, quan hệ chung nhất và bản chất nhất của sự
vật. Trong mỗi khoa học có những phạm trù của mình như “khối lượng”, “vật chất”,
“ánh sáng”, “năng lượng”, “nguyên tử”… trong vật lý học; “sự sống”, “loài”, “tính di
truyền”, “tính biến dị”… trong sinh vật học; “”giá trị”, “quyền lực”, “sản xuất”…
trong kinh tế-chính trị học; “cái đẹp”, “cái hài”, “cái bi”… trong mỹ học. Phạm trù
trong triết học là những khái niệm mang tính phổ biến nhất, phổ biến cực độ cho bất
cứ sự vật hay quá trình nào giúp cho chúng trở thành phương pháp luận cho việc
nhận thức, nghiên cứu thế giới khách quan.
Những phạm trù cơ bản trong hệ thống Arixtốt là: vật chất, bản chất, số lượng, quan
hệ, thời gian, không gian, vận động, tất nhiên, ngẫu nhiên, hình thức, nội dung, khả
năng, hiện thực, cái chung, cái riêng, mục đích…
Về cơ bản hệ thống phạm trù của Arixtốt mang tính chất duy vật. Vật chất và sự vận
động của vật chất luôn được ông xem xét như nguồn gốc nội dung của các phạm trù.
Lênin đã nhận xét rằng: “Arixtốt tiến sát tới chủ nghĩa duy vật”(8), khi ông nói rằng
“cảm giác trong hoạt động nhằm vào cái đơn nhất, còn tri thức nhằm vào cái
chung”(9). Trong lúc Platôn thừa nhận đối tượng nhận thức cái chung tách biệt với
các hiện tượng cụ thể thì Arixtốt lại tìm nó trong các hiện tượng cụ thể. Chính vì lẽ
8
đó mà Lênin đã thốt lên rằng: “Tuyệt! Không ai có nghi ngờ gì về tính thực tại của
thế giới bên ngoài cả. Con người bị rối lên chính là ở trong phép biện chứng của cái
chung và cái riêng, của khái niệm và cảm giác, của bản chất và hiện tượng…”(10).
Như vậy, đối tượng nhận thức chính là nền tảng của hệ thống phạm trù của Arixtốt.
Nhận thức bản thể luận của ông về bản chất của các phạm trù xuất phát từ chỗ cho
rằng lôgic học là một khoa học không chỉ về những hình thức của tư duy mà còn về
nội dung của nó.
Các phạm trù của Arixtốt là kết quả của một sự phân tích có hệ thống những vấn đề
nhận thức luận và bản thể luận của tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại. Chúng có ảnh
hưởng rất lớn tới sự phát triển tư tưởng triết học trong các giai đoạn tiếp theo và là
một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng của học thuyết duy vật về các phạm
trù.
Khi xem xét hệ thống phạm trù của Arixtốt, chúng ta không thể tách rời nó khỏi hệ
thống triết học của ông, bởi lẽ nó chính là bộ khung cho toàn bộ hệ thống triết học
đó. Trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, hệ thống phạm trù của Arixtốt là ý đồ đầu
tiên xây dựng một bản thể luận nhằm tái tạo hiện thực dưới hình thức các khái niệm
lôgic cao nhất – các phạm trù.
Sự tồn tại vật chất là nguyên tắc chỉ đạo duy nhất và là nội dung của hệ thống phạm
trù của ông. Anxtốt khẳng định không có sự tồn tại vật chất thì sẽ không có gì trên
thế gian cả). Mỗi phạm trù của Arixtốt giữ một vai trò nhất định trong sự nhận thức
và xác định mặt này hay mặt khác của tồn tại. Toàn bộ hệ thống các phạm trù của
ông xác định sự tồn tại từ mọi mặt có thể có nhằm vạch ra bản chất, còn bản chất là
phạm trù trung tâm, là sự tổng hợp các mặt khác nhau của tồn tại đang được các
phạm trù nghiên cứu. Ông là người đầu tiên trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, đã
nêu lên luận điểm cho rằng bản chất là cơ sở hiện thực của mọi phạm trù còn lại.
Các phạm trù này “hoặc là nói về các bản chất thứ nhất như là nói về các chủ từ,
hoặc là nằm trong chúng như nằm trong các chủ từ”(12).
9
Theo Arixtốt, nếu xét về toàn bộ sự tồn tại vật chất thì bản chất sẽ chỉ là sự xác định
cơ bản của sự tồn tại duy nhất này. Không một phạm trù nào trong số các phạm trù
còn lại có thể tồn tại một cách riêng biệt lập của bản chất đối với các phạm trù khác
không có nghĩa là bản chất tồn tại bên ngoài số lượng, chất lượng và những cái khác.
Còn các phạm trù khác thì không tồn tại độc lập đối với bản chất và không tồn tại
bên ngoài bản chất. Yếu tố tích cực của Arixtốt ở đây là mối quan hệ biện chứng
giữa bản chất với các phạm trù khác của ông. Mối quan hệ biện chứng giữa các
phạm trù trong hệ thống phạm trù của Arixtốt tuy mới chỉ ở mức độ sơ khai nhưng
rất thú vị. Nó đã được tiếp tục phát triển trong lịch sử triết học, đặc biệt là ở Hêgen
và đã được giải quyết một cách khoa học trong triết học mác xít. Enghen viết:
“Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh
và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu
những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng”(13).
Thật vậy, trong hệ thống phạm trù của mình, Arixtốt đã nêu lên mối quan hệ biện
chứng giữa tất cả các phạm trù. Nhờ có bản chất mà toàn bộ các phạm trù đã tạo nên
một hệ thống có kết cấu chặt chẽ. Theo Arixtốt, bản chất được bộc lộ rõ thông qua
các phạm trù khác. Còn các phạm trù khác thể hiện từng mặt, từng khía cạnh của
bản chất. Tất cả các phạm trù đều có đặc tính chung và đặc tính riêng. Đặc tính
chung của các phạm trù thể hiện ở chỗ không một phạm trù nào tồn tại thiếu sự hiện
diện của phạm trù bản chất. Về mặt này mọi phạm trù đều giống nhau bởi chúng đều
là những phạm trù cơ bản và từ các phương diện khác nhau thể hiện cùng một bản
chất, phụ thuộc vào bản chất ở một mức độ giống nhau, còn đặc tính riêng của các
phạm trù thể hiện ở chỗ, mỗi phạm trù riêng biệt chỉ xác định bản chất ở một khía
cạnh nhất định và từ một phía nhất định. Thí dụ, phạm trù chất lượng chỉ vạch ra
mặt chất lượng của bản chất, phạm trù số lượng chỉ vạch ra mặt số lượng của bản
chất… Đặc tính riêng của các phạm trù là ở chỗ chúng không thay đổi vị trí cho nhau
và trong quan hệ với bản chất vị trí đó được xác định một cách nghiêm ngặt. Nội
dung của từng phạm trù rất cụ thể và riêng biệt. Nhưng sự khác biệt giữa các phạm
10
trù của Arixtốt không phải là một sự khác biệt tuyệt đối. Ông không xem xét chúng
một cách hoàn toàn tách biệt nhau mà trong một sự thống nhất và có mối quan hệ
lẫn nhau. Thí dụ, các phạm trù chất và lượng phản ánh hai mặt riêng biệt của bản
chất, nhưng thiếu một trong hai cái đó thì cái kia không có ý nghĩa. Cũng vậy, vật
chất, vận động, không gian, thời gian là những phạm trù luôn được Arixtốt xem xét
trong mối quan hệ lẫn nhau.
Tìm hiểu hệ thống phạm trù của Arixtốt ta thấy rất rõ mối quan hệ biện chứng và
tính nhất quán giữa 4 phạm trù đầu trong số các phạm trù được ông nêu ra trong tác
phẩm “Các phạm trù”: bản chất, chất lượng, số lượng, quan hệ. Chính bản thân
Arixtốt đã viết trong tác phẩm “Siêu hình học “Nếu toàn bộ sự tồn tại hiện ra như
một khối thống nhất nào đó, trong trường hợp đó bản chất là bộ phận cơ bản của
khối thống nhất này, còn nếu như để cho sự tồn tại mọc lên thành một hàng liên tục
thì lúc đó bản chất ở vị trí hàng đầu, tiếp đến là chất lượng, sau đó là số lượng”(14).
Đối với Arixtốt việc làm sáng tỏ mặt số lượng của bản chất là điều kiện cần thiết để
hiểu một cách đúng đắn phạm trù chất lượng. Để thiết lập mối quan hệ như vậy giữa
các phạm trù này ông đã đưa ra thí dụ trong giới tự nhiên. Arixtốt phê phán Dênông
không hiểu được sự khác biệt về chất giữa việc một hạt thóc rơi không gây ra tiếng
động và nhiều hạt thóc rơi gây ra tiếng động. Ông cũng đưa ra thí dụ những giọt
nước rơi dần dần làm thủng đá. Ở đây ta nhận thấy Arixtốt đã có những dự đoán về
sự thay đổi số lượng dẫn đến sự thay đổi chất lượng. Tiếp đó ông đã xác định vị trí
của phạm trù quan hệ trong hệ thống phạm trù của mình: “nó đứng sau chất lượng và
số lượng”(15). Arixtốt đã chỉ rõ vị trí của từng phạm trù trong hệ thống phạm trù
chung của ông và phân loại chúng theo nguyên tắc tương đồng và quan hệ của
chúng với bản chất của các sự vật vật chất. Theo Arixtốt, bản chất được xác định
một cách toàn diện về mặt vật chất và hình thức, chất lượng và số lượng, quan hệ và
không gian. Bản chất xuất hiện trong thời gian. Trong sự xác định này bản chất là
kết quả của sự thay đổi và vận động – của sự chuyển từ khả năng thành hiện thực, từ
ngẫu nhiên thành tất nhiên.
11
Hệ thống phạm trù của Arixtốt nói riêng và triết học của ông nói chung là một sự thể
hiện về mặt logic học. Khi nói về bản chất logic trong triết học Arixtốt Lênin đã
viết: “Ở Arixtốt, đâu đâu lôgic khách quan cũng lẫn lộn với lôgic chủ quan và lẫn
lộn một cách khiến cho đâu đâu lôgic khách quan cũng lộ ra”(l6) và “lôgic của
Arixtốt là nhu cầu, là sự cố gắng tìm tòi, là sự đến gần với lôgic của Hêgen”(17).
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, để nghiên cứu một cách đúng đắn và toàn
diện lịch sử triết học nói chung và về lịch sử phép biện chứng nói riêng cần phải
nghiên cứu một cách có hệ thống các phạm trù triết học theo quan điểm lịch sử triết
học. Điều này có nghĩa là cần phải nghiên cứu các phạm trù trong các hình thức lịch
sử cụ thể của chúng. Các phạm trù phản ánh những nét chung nhất của sự phát triển
tư duy của nhân loại. Cùng với sự phát triển của triết học, các phạm trù cũng thay
đổi và phát triển. Lênin đã nêu lên sự cần thiết phải nghiên cứu các phạm trù trong
mối quan hệ biện chứng với việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng nhân loại. Hệ thống
phạm trù của Arixtốt là một trong những thành tựu đáng kể của lịch sử tư tưởng
nhân loại. Về vấn đề này Enghen đã viết: “Việc nghiên cứu các hình thức tư duy,
các phạm trù lôgic là một nhiệm vụ rất cần thiết và cao cả. Sau Arixtốt chỉ có Hêgen
là người đã giải quyết nhiệm vụ này một cách có hệ thống” .
Tuy nhiên, Arixtốt vẫn chưa vượt được xa hơn những dự đoán thiên tài của ông về
tính hiện thực của các phạm trù và về mối quan hệ biện chứng giữa các phạm trù đó.
Theo Lênin, học thuyết triết học Arixtốt nói chung và hệ thống phạm trù của ông nói
riêng là nét đặc trưng cho tư duy của người Hy Lạp cổ đại và phép biện chứng chất
phác của họ. “Những người Hy Lạp chính đã có một cách đặt vấn đề, tựa hồ như
những hệ thống đưa ra thí nghiệm, một sự phân kỳ ý kiến chất phác, được phản ánh
rất hay ở Arixtốt”.
12
2.
Arixtốt với cộng đồng chính trị và nhà nước lý tưởng:
Cộng đồng chính trị chính là hình thức tổ chức đời sống chính trị xã hội của Hy Lạp
cổ, nó cũng được hiểu là polis (thành – bang). Khái niệm cộng đồng chính trị được
Arixtốt dùng để phân biệt với đời sống gia đình, để phân biệt lĩnh vực công (public)
với lĩnh vực tư (private) trong cách tổ chức đời sống con người.
Lĩnh vực tư của con người, hay gia đình, theo Arixtốt, là lĩnh vực đời sống được tổ
chức để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu nhất của con người nhằm đảm bảo sự tồn tại
về mặt sinh học của cá thể và duy trì sự tồn tại của giống loài. Sự tồn tại này đòi hỏi
sự liên kết giữa các cá thể một cách tự nhiên, liên kết tiêu biểu nhất là hình thức
sống chung trong gia đình giữa đàn ông và đàn bà. Trong hình thức tổ chức của gia
đình thì người đàn ông đóng vai trò là ông chủ cai trị và điều hành cuộc sống của
người vợ, các con và nô lệ. Đời sống kinh tế của Hy Lạp cổ đại chủ yếu mang tính
tự cung, tự cấp và vì thế, được bó gọn trong lĩnh vực tư của gia đình. Kinh tế được
hiểu là điều hành gia đình (Oikos) (1) và nằm trong “vương quốc thiết yếu” mà ở đó,
cuộc sống của con người bị chi phối bởi các nhu cầu thiết yếu. Ở đây không có sự
bình đẳng, người đàn ông là chủ có quyền quyết định hầu hết mọi việc quan trọng
trong gia đình mà không cần tham vấn các thành viên khác trong gia đình, anh ta
điều hành gia đình thông qua mệnh lệnh và sự cưỡng ép đối với vợ con và nô lệ.
Trong quan điểm của Arixtốt, hình thức liên kết cộng sinh ở dạng gia đình này của
con người không khác mấy so với đời sống của động vật, của xã hội hoang dã bầy
đàn.
Tuy nhiên, ngoài đời sống tư trong gia đình (Oikos), người Hy Lạp còn có đời sống
công, đời sống chính trị (bios politikos) của những công dân dưới dạng thành – bang
(polis). Nếu như sự cần thiết của liên kết gia đình là để đáp ứng các nhu cầu thiết
yếu của cuộc sống và thuộc về “vương quốc của thiết yếu” thì liên kết thành – bang,
(cộng đồng chính trị) xuất hiện là để đáp ứng nhu cầu tự hoàn thiện cao cả của con
người và thuộc về “vương quốc của tự do”. Arixtốt nêu rõ sự hình thành của thành –
13
bang không phải chỉ là sự mở rộng của gia đình, của đời sống tư (kinh tế), mà là liên
kết có sự khác biệt rõ ràng về mục đích: trong khi gia đình được lập ra để duy trì
cuộc sống mang tính sinh học (life) thì mục đích của thành – bang (hay cộng đồng
chính trị) là để nhắm đến cuộc sống phúc lành, hạnh phúc (good life), để tự do hoàn
thiện những tiềm năng trí tuệ và đạo đức của con người .
Khác với lĩnh vực tư được hiểu như đời sống kinh tế gia đình – nơi mà các cá nhân
theo đuổi cái tư lợi cho riêng mình và gia đình mình, lĩnh vực công hay đời sống
chính trị là nơi các công dân cùng nhau theo đuổi sự phát triển chung của cả cộng
đồng, khi mà họ hoàn toàn bình đẳng với nhau, cùng nhau thảo luận và tham vấn để
tìm ra cách thức tổ chức và phát triển cộng đồng hợp lý nhất có thể. Cái chính trị,
trong quan điểm của Arixtốt, cũng chính là cái chung, bởi Koinonia có hàm nghĩa
chứa đựng cái chung (cái công) trong khi Oikos chỉ giới hạn trong gia đình, trong
lĩnh vực của cái kinh tế, cái tư (cái riêng). Cũng cần phải hiểu là cái chung trong
quan niệm của Arixtốt không phải là cái chung mang tính trừu tượng, đứng tách biệt
với cái riêng. Cái chung ở đây không phải đơn giản là cái tổng thể, một tập hợp cơ
học của các cá thể, mà là cái toàn thể mang tính hữu cơ. Tập hợp các hộ gia đình
một cách cơ học thôi thì chưa đủ để tạo ra cộng đồng chính trị hay thành-bang. Mối
liên hệ giữa cái chung và cái riêng (cái tư) cần được hiểu trên cơ sở quan niệm của
Arixtốt về sự khác biệt biện chứng giữa trình tự lôgíc và trình tự hiện hữu, bởi học
thuyết chính trị – xã hội của Arixtốt được thiết lập trên cơ sở siêu hình học của ông.
Cái chung “có trước” cái riêng theo trình tự lôgíc, với tư cách là mục đích hay điều
kiện khả thể cho sự tồn tại của cái riêng. Tuy nhiên, cái chung này không tồn tại một
cách độc lập, đứng bên ngoài cái riêng, mà nó hiện thể (hiện thân) qua cái riêng.
Vậy nên, theo trình tự hiện hữu, chỉ khi xuất hiện cái riêng thì cái chung mới được
phát lộ ra. Tiến trình phát lộ cái chung được trung gian hóa qua sự xuất hiện của cái
riêng hạn định và cũng chỉ thông qua các cái riêng này mà cái chung mới hiện hữu.
Với tư cách mục đích và điều kiện khả thể cho cái riêng, cái chung là cái đem lại ý
14
nghĩa cho sự hiện hữu của cái riêng, là cấu trúc tổ chức, một hình thức thiết lập trật
tự các mối quan hệ của các cái riêng. Mối liên hệ giữa các cái riêng cá biệt không
nảy sinh từ tập hợp ngẫu nhiên của chúng, mà được chế định bởi cái chung, chỉ
trong mối liên hệ với các cá thể khác và tồn tại với tư cách là hiện thể của cái chung,
cái riêng mới nhận được đầy đủ ý nghĩa sự tồn tại của nó.
Từ góc độ về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng như vậy, chúng ta có thể hiểu
vì sao Arixtốt, trong Chính trị học, đã tuyên bố con người là động vật chính trị
(politikon zoon)(3). Chỉ tham dự vào cộng đồng chính trị, nơi mà cái chung hiện hữu,
con người mới thực sự có điều kiện hoàn thiện được bản chất người của mình, tìm
được ý nghĩa đích thực về sự tồn tại của mình. Cái chung, hay cái chính trị, chỉ tồn
tại trong cộng đồng chính trị (polis) thông qua sự tham dự tích cực và chủ động của
các công dân bình đẳng và tự do. Cộng đồng chính trị ấy có thể hiểu là xã hội công
dân, bởi chính cái chung hiện hữu như một thiết chế lịch sử cụ thể ở dạng Ethos (có
thể hiểu là đức lý hay nền đạo đức) là cái nền tảng mà dựa vào đó, bản chất người
của mỗi cá nhân ở dạng tiềm thể (tiềm năng) được triển khai và định hướng. Vì vậy,
Ethos có thể được hiểu là truyền thống văn hóa, ngôn ngữ hay sinh thức (form of
life) của một cộng đồng người. Cũng chính vì thế mà khi nói rằng, về bản chất, con
người là động vật chính trị, Arixtốt còn tuyên bố con người là sinh thể hữu ngôn
(zoon logon ekhon). Tuy nhiên, cái Ethos đó không phải là những khuôn mẫu xơ
cứng, mà nó luôn được đổi mới thông qua hoạt động của công dân trong cộng đồng
chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà trong tiến trình tư tưởng của Arixtốt thì điểm
kết thúc của Đạo đức học của Nichomachus lại là điểm xuất phát của Chính trị học.
Cái chính trị, hay cái công, dựa trên nền tảng của cái đạo đức, quy định bản sắc
(identity) của công dân trong cộng đồng, đồng thời chỉ có thể tồn tại, duy trì và phát
triển thông qua thực tiễn (praxis) của những công dân đó.
Cộng đồng chính trị hay polis, không những bao gồm các hoạt động chính trị của
công dân, mà còn là một chỉnh thể hữu cơ bao trùm lên mọi khía cạnh khác của cuộc
15
sống của công dân Hy Lạp cổ. Như Heidegger đã nhận xét, polis bao gồm cả “các vị
thần và đền miếu, các lễ hội và trò diễn, các vị lãnh đạo chính trị và hội đồng các
trưởng lão, hội đồng công dân và quân đội, các tướng lĩnh bộ binh và hải quân, các
nhà thơ và nhà tư tưởng…”. Vì vậy, “chúng ta không thể quy polis là một nhà nước
dân sự như thường thấy ở thế kỷ XIX được” (4). Như Andrew Lookyer đã giải thích
rằng, từ gốc từ polis, người Hy Lạp còn có politeia (hiến pháp), polites (công dân),
politeuma (cơ quan điều hành) và politicos (chính trị gia). Hiến pháp chính là “linh
hồn của polis” (5), vì nó quy định các tổ chức của polis, chỉ ra đường lối cụ thể để
đạt đến cuộc sống toàn thiện, đồng thời định đoạt ai là công dân của polis và quy
định quyền lợi cũng như nghĩa vụ của họ. Các nhà lãnh đạo chính trị cũng theo hiến
pháp mà điều hành polis, giúp mọi người hoàn thiện và đạt đến cuộc sống phúc lành.
Như vậy, có thể hiểu polis là một xã hội được tổ chức theo hiến pháp (hay một cách
chính trị, có sự tham gia tích cực của các công dân).
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, trong xã hội Hy Lạp cổ đại không phải tất cả mọi
người đều là công dân, mà công dân chỉ bao gồm những người đàn ông trưởng
thành, có giáo dục và thường là người chủ trong gia đình. Phụ nữ, trẻ em, nô lệ và
người nước ngoài không phải là công dân của thành -bang. Họ bị giới hạn trong lĩnh
vực kinh tế (gia đình), lĩnh vực tư và chịu sự cai quản của người đàn ông chứ không
có quyền được tham gia vào đời sống chính trị, lĩnh vực công của cộng đồng. Đây
cũng chính là những nét hạn chế của quan niệm cộng đồng chính trị Hy Lạp cổ bị
các nhà triết học nữ quyền phê phán mạnh mẽ.
Hêghen nhận thấy những hạn chế mang tính lịch sử(7) của mô hình cộng đồng chính
trị của các triết gia Hy Lạp cổ đại trong việc loại trừ vai trò của hoạt động kinh tế
trong đời sống chính trị của cộng đồng(8). Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa – nền kinh tế có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, lợi
ích cá nhân đóng vai trò động lực cho sự phát triển này.
16
Arixtốt luận về các cơ quan chính quyền cần thiết cho một quốc gia. Các cơ quan do
Arixtốt đề nghị hơn 2000 năm trước vẫn còn được tổ chức trong các mô hình hiện
nay; cụ thể là cơ quan kiểm soát thị trường nhằm bảo đảm cho việc buôn bán và thi
hành các giao kèo được đúng đắn và trật tự. Cơ quan thứ nhì nhằm kiểm soát các bất
động sản, công cũng như tư, và bảo trì công thự và đường xá. Cơ quan thứ ba cũng
tương tự như cơ quan thứ nhì, nhưng liên quan đến các khu vực ngoài thành phố và
rừng núi (kiểm lâm). Cơ quan thứ tư là ngân khố để thu giữ tiền của nhà nước và để
trả lương cho nhân viên. Cơ quan thứ năm là văn khố lưu giữ tất cả mọi khế ước, tài
liệu công cũng như tư. Cơ quan thứ sáu là cơ quan thi hành các bản án, giam giữ tội
phạm. Trên những cơ quan cần thiết này để điều hành sinh hoạt, một quốc gia còn
cần các cơ quan sau đây: quốc phòng, thanh tra tài chính các cơ quan chính quyền
và quốc dân nghị hội.
3.
Arixtốt với tri thức và xúc cảm:
3.1.
Giáo dục trong triết học Arixtốt:
Nền giáo dục quốc gia, theo Arixtốt phải là một nền giáo dục toàn diện về thể chất
cũng như tinh thần. Arixtốt cũng quan niệm rằng, giáo dục ảnh hưởng đến tư cách
công dân và muốn xây dựng đạo đức công dân thì phải bắt đầu từ xây dựng đạo đức
cá nhân vì cả hai loại đạo đức này-cơ bản-giống nhau (đã bàn ở Quyển III). Việc
hôn nhân cũng là một vấn đề trọng đại trong việc xây dựng một nhà nước lý tưởng
gồm những công dân khỏe mạnh. Về phương diện sinh lý học, Arixtốt cho rằng thể
chất của cha mẹ ảnh hưởng đến thể chất của con cái. Arixtốt đề nghị là người chồng
nên lớn tuổi hơn người vợ, từ 17 đến 20 tuổi, và lứa tuổi thích hợp nhất cho việc lập
gia đình và sinh sản là người chồng 37 tuổi, người vợ 18 tuổi. Khi con cái lớn lên,
việc giáo dục cần được quan tâm đặc biệt để trẻ em phát triển về thể chất cũng như
đức tính: không nên để trẻ nhỏ từ 5 đến 7 tuổi ở gần dân nô lệ và tuyệt đối cấm
không cho nghe những lời tục tĩu hoặc những hình ảnh dâm ô. Điều này quan trọng
17
đến nỗi nhà nước phải ra luật cấm trên toàn quốc. Sau 7 tuổi, giáo dục trẻ em nên
chia làm hai giai đoạn: từ 7 tuổi đến dậy thì và từ dậy thì tới 21 tuổi.
Arixtốt dành ra Quyển VIII để bàn về giáo dục. Giáo dục là nhiệm vụ của quốc gia
và nhà nước phải xây dựng một hệ thống giáo dục đồng nhất cho mọi công dân.
Arixtốt đề nghị 4 môn học cho chương trình giáo dục: đọc-viết, thể dục, âm nhạc, và
hội họa. Âm nhạc, theo Arixtốt, là một môn học quan trọng, không phải chỉ là môn
học để giải trí, mà là môn học để sử dụng thì giờ nhàn rỗi một cách đúng đắn.[11]
Hơn thế nữa, bản chất của âm nhạc là sự hòa hợp âm thanh, và do đó sẽ khiến cho
tâm hồn dễ đạt được sự cân bằng giữa tình cảm và lý trí (C.5).
Arixtốt cũng đề nghị là dạy cho trẻ em phát triển thể chất trước khi phát triển tinh
thần. Cho nên, trẻ em nên được tập thể dục trước, vì huấn luyện thể chất sẽ giúp trẻ
em phát triển các tập quán tốt như kỷ luật tự giác, rồi đến âm nhạc, sau rốt mới đến
các môn học về tri thức.
Arixtốt mở đầu Chính Trị Luận bằng lập luận rằng “nhà nước, hay cộng đồng chính
trị là cái tốt cao nhất” và lý do để nhà nước hiện hữu là để giúp cho công dân sống
một đời sống “tốt.” Do đó, việc giáo dục công dân trở thành những người dân đạo
đức là điều tối quan trọng. Khi một nước có được những người dân vừa học thức lại
vừa đức hạnh, dĩ nhiên đất nước đó phải trở nên tốt hơn. Đó cũng là kết luận tự
nhiên khi Arixtốt chấm dứt Chính Trị Luận bằng chương luận về giáo dục.
Mặc dù đã trên hai ngàn năm, với một số nhận định về nô lệ và phụ nữ đã không còn
hợp thời nữa, nhưng Chính Trị Luận vẫn là một kiệt tác nêu lên những câu hỏi căn
bản của đời sống chính trị “lý tưởng” của mọi quốc gia, và là một trong những tác
phẩm kinh điển của khoa Chính trị học Tây phương.
Arixtốt đã đi trước thời đại trong việc xây dựng hệ ‘thống giáo dục công lập mà ngày
nay, chúng ta vẫn đang thực hiện. Việc thiết lập một sự giảng dạy công cộng là một
18
sự dân chủ hoá của giáo dục. Giáo dục nhất thiết phải là thông nhất và đồng nhất
cho mọi người, kể từ khi lọt lòng cho đến 21 tuổi.
Lý thuyết giáo dục của Arixtốt không mất đi tỉnh thời sự của nó. Điều mà ông nói về
vai trò của giáo dục trong xã hội, về một hệ thống giáo dục thường xuyên và một
nền giáo dục cho hoà bình, về sư phạm học đã khiến cho những người có trách
nhiệm đối với nền giáo dục hiện thời phải suy ngẫm. Đặc biệt, điều đó rất có ý nghĩa
đối với việc xây dựng và phát triển nền giáo dục Việt Nam, một nền giáo dục đang
thiếu sự định hướng của tư duy triết học.
3.2.
Quan điểm về hạnh phúc và sự tự phát triển năng lực của Arixtốt:
Đối với ông, hai bộ môn Đạo Đức Học (ethics) và Chính Trị Học (politics) đều khảo
cứu kiến thức thực tế, đây là sự hiểu biết cho phép con người hành động đúng cách
và sống hạnh phúc. Qua tác phẩm đề tặng cho con trai tên là Nichomachus và được
gọi tên là Nichomachean Ethics (Đạo Đức Học của Nichomachus), Arixtốt đã phân
tích cá tính (character) và trí thông minh (intelligence) khi những tính chất này liên
quan đến hạnh phúc, và ông cho rằng một cuộc đời hạnh phúc của con người là cuộc
đời làm theo lý trí (reason).
Một đưa bé sơ sinh chưa phải là con người, chỉ là một cá nhân tiềm tàng. Để trở
thành một con người thực sự, tiềm năng của nó phải được “nhận thức và phát triển.”
Thí dụ: Đứa bé ấy có thể tiềm ẩn khả năng cảm nhận âm nhạc như Beethoven,
nhưng nếu không nhận thức được tài năng của mình hoặc không có cơ hội phát huy
tài năng ấy, nó vẫn chỉ là một “nhạc sĩ tiềm tàng” cho đến khi phát hiện ra thiên tư
và hoàn thiện kỹ năng âm nhạc của mình.
Theo Arixtốt, mục đích chính đáng nhất của con người trong đời là nhận thức bản
chất thực sự (hoặc nhân cách) của mình một cách toàn diện, là phát triển các tiềm
năng cuả mình đến độ viên mãn và từ đó, tự hoàn thiện chính mình. Một cá nhân
không thực hiện được điều này sẽ luôn dằn vặt, tự bất mãn với chính mình hậu quả
của những thất bại trong đời. Sự suy sụp tính thần ấy bộc lộ rõ ràng qua các biểu
19
hiện buồn chán, đau khổ- những dấu hiệu của một cuộc sống bất hạnh. Ngược lại,
người nào nhận thức và phát huy được bản chất cũng như năng lực tiềm ẩn của mình
sẽ có được cuộc sống thỏa nguyện – một đời sống hạnh phúc.
Con người, như Arixtốt khẳng định, theo đuổi rất nhiều mục tiêu trong đời, nhưng
mục đích tối hậu mà anh ta mưu cầu suốt một đời chính là Hạnh Phúc. Tất cả mục
tiêu khác chỉ là phương tiện để đạt đến hạnh phúc, dạng mục đích luôn được khao
khát thành tựu lấy chính nó. Thí dụ: Tiền bạc chỉ là phương tiện, không phải là mục
đích tối hậu. Nó là loại vật dụng cho phép sở hữu chủ mua sắm những vật dụng
khác, góp phần vào cuộc sống hạnh phúc cá nhân của anh ta. Tương tự như vậy,
công việc hàng ngày, đời sống hôn nhân, các hoạt động xã hội và các dạng tài sản
khác là những nguồn nuôi dượng hạnh phúc của một con người. Mưu cầu hạnh phúc
mang đến mục đích và ý nghĩa cho cuộc sống. Thực tế, nếu một cá nhân bị tước đoạt
cơ hội vươn đến hạnh phúc, mối quan tâm của anh ta dành cho cuộc sống, cũng như
ước muốn tiếp tục tồn tại trong đời, sẽ chấm dứt.
Theo Arixtốt, sự thành tựu hạnh phúc tuỳ thuộc hoàn toàn vào quá trình phát huy
tiềm năng và thiên tư của mỗi cá nhân. Tiến trình nhận thức ấy mang đến đời sống
hạnh phúc. Hơn nữa, một viễn cảnh hạnh phúc sáng lạn hơn. Ngược lại, khi tiềm
năng bản thân bị bỏ phế, ngủ quên và thui chột đi, cá nhân sẽ không tránh khỏi một
đời sống tự dằn vặt, khổ đau và suy sụp. Theo Arixtốt, Thượng Đế sáng tạo ra con
người có mục đích. Không nhận thức ra được mục đích của mình, con người sẽ
không bao giờ cảm thấy thoả mãn với cuộc đời; nhận thức và thực hiện được mục
đích ấy, con người mới tìm thấy sự thoả nguyện, hạnh phúc và cái đẹp của cuộc
sống.
Như đã trình bày ở trên, Arixtốt đồng nhất cuộc sống “chí thiện tận mỹ” (the
summun bonum) với hạnh phúc; hạnh phúc vươn đến chỗ siêu việt khi con người
nhận thức ra được bản chất tối thượng của chính mình. Bản chất tối thượng ấy được
tìm thấy trong lãnh vực tâm hồn, ở khía cạnh tinh thần của cuộc sống- khía cạnh
riêng biệt của giống người. Hoạt động viên mãn của tư tưởng (ở các lĩnh vực khoa
học, triết học, nghệ thuật, tôn giáo, v.v… ) chính là nguồn gốc phát sinh ra niềm
20
hạnh phúc tối thượng. Năng lực tối cao của trí tuệ con người là tư duy, vì thế suy tư
chiêm nghiệm chính là nguồn hoan lạc lớn nhất của con người.
4.
Arixtốt với văn học nghệ thuật:
Những tác phẩm của Arixtốt lên đến hàng trăm cuốn. Có người bảo 400 cuốn, có
người bảo 1.000 cuốn. Những cuốn còn lại đến nay chỉ là một số nhỏ nhưng cũng có
thể lập thành một tủ sách. Trước hết là những tác phẩm về luận lí dạy các cách xếp
đặt và phân loại các ý nghĩ. Rồi đến các tác phẩm khoa học như vật lí học, thiên văn
học, khí tượng học, vạn vật học, những sách nói về sự phát triển và suy tàn, về linh
hồn, về cơ thể sinh vật, về cử động và về sự sinh đẻ. Loại thứ ba là những sách dạy
về cách viết văn và làm thơ. Loại thứ tư là những sách về triết lí như đạo đức học,
chính trị học và siêu hình học.
Toàn thể các tác phẩm có thể xem là một bộ bách khoa của Hi Lạp nhưng khác với
bộ bách khoa của các nước khác ở chỗ chỉ do một người viết ra. Công trình của
Arixtốt xứng đáng được so sánh với công trình của Alexandre. Văn chương của
Arixtốt không bóng bẩy và thi vị như của Platôn, đó là một loại văn chương chính
xác và khoa học. Arixtốt phải đặt thêm nhiều từ ngữ mới để có thể diễn tả tư tưởng.
Những từ ngữ Âu Mĩ hiện nay phải mượn ở những tác phẩm của Arixtốt như
faculty, mean, maxim, category, energy, actuality, motive, principle, form …. Những
chữ này không khác gì những viên gạch để xây dựng tư tưởng và góp phần rất lớn
trong công cuộc phát triển tư tưởng đời sau. Arixtốt còn viết nhiều tác phẩm văn
chương nhưng đến nay đã thất truyền.
Arixtot ( ), nhà khoa học, triết học, thiên văn học của Hy Lạp cổ với cuốn “Nghệ
thuật thi ca” ra đời cách chúng ta hơn 2300 năm mang tựa đề là “Poetics”, trùng với
bộ môn thi pháp học hiện nay. Trong tác phẩm của mình, ông nêu lên một học
thuyết cơ bản về nguyên tắc “mô phỏng miêu tả” các hình thức thi ca mà người Hy
Lạp thời đó tiếp nhận. Theo quan điểm của Arixtot thì đặc trưng chủ yếu để phân
21
biệt thi ca với các bộ môn nghệ thuật khác bên ngoài văn chương như : múa, phục
trang biểu diễn, trang trí sân khấu… và các phương tiện ngôn ngữ như phương thức
tu từ. Arixtot nghiên cứu thi ca như một nghệ thuật, xem xét bản chất của sáng tạo
văn chương nói chung chứ không giới hạn vào việc phân tích và hệ thống lại các yếu
tố đã trở thành phương tiện thể hiện ý thức nghệ thuật một cách hạn chế. Công trình
này có ảnh hưởng lớn khắp châu Âu suốt nhiều thế kỷ sau này, do đó, sau này người
ta dịch cuốn “Poetics” của ông là “Nghệ thuật thi ca”, còn thuật ngữ “Poetics” được
sử dụng làm tên gọi cho môn “ Thi pháp học”. Ở Hy Lạp cổ đại, hình thức thơ ca
chủ yếu nhất là kịch.
Ông giao động giữa 2 dòng duy tâm và duy vật, nhưng do không nghi ngờ gì về tính
hiện thực của thế giới xung quanh nên những tư tưởng mỹ học của ông mang xu
hướng duy vật.Arixtốt thừa nhận các tiêu chí cơ bản của vẻ đẹp mà những người đi
trước đã đưa ra như tính quy mô có trật tự, hài hòa. Dấu hiệu tối quan trọng của cái
đẹp mà Arixtốt nhấn mạnh là sự chỉnh thể: phải có đầu, có giữa, có cuối, phải liên
kết giữa các bộ phận trong chỉnh thể một cách hưũ cơ.Arixtốt không thừa nhận sự
đồng nhất cái đẹp với cái có ích; cái có ích chỉ ở hành vi, hành động, trong khi đó
cái đẹp có cả trong sự tĩnh tại.Arixtốt quan niệm nghệ thuật là sự tái tạo hiện thực,
mô phỏng lại hiện thực. Sự mô phỏng tiến hành thông qua nhịp điệu, ngôn từ, giai
điệu – và nó có mặt trong tất cả các loại nghệ thuật từ tạo hình đến ngôn từ, trong cả
thi ca lẫn âm nhạc. Ông cho các loại hình nghệ thuật được phân biệt bởi các phương
thức mô phỏng: âm thanh cho ca hát, âm nhạc; màu sắc và hình thức cho hội họa và
điêu khắc; nhịp điệu chuyển động cho các nghệ thuật múa; ngôn từ và âm lực thi ca;
các loại hình còn được chia theo nghệ thuật vận động (thi ca, âm nhạc, múa) và nghệ
thuật tĩnh tại (hội họa, điêu khắc).
Nghệ thuật không có giá trị độc lập, nó gắn bó với đời sống đạo đức của con người,
nó gột rửa con người khỏi vẩn đục. Tác dụng gột rửa của nghệ thuật sẽ giúp con
22
người vượt qua cơn xúc động, nỗi sợ hãi và có khả năng chống đỡ lại hoàn cảnh bất
hạnh.
5.
Triết học của Arixtốt tạo nền tảng cho các ngành khoa học khác:
5.1.
Logic học:
Khi bàn tới vấn đề phương pháp trong triết học Arixtốt, chúng ta không thể bỏ qua
các tác phẩm về logic học của ông. Các nhà nghiên cứu lịch sử triết học đã xếp
chúng vào vị trí số một trong số 8 loại tác phẩm của Arixtốt còn lưu lại đến ngày
nay. Vào thời mình, Arixtốt chưa coi logic học là một bộ môn khoa học độc lập. Đối
với ông, nó chỉ là công cụ của các khoa học.
Do vậy, khi tìm hiểu các tác phẩm của Arixtốt về lĩnh vực này, ta thấy thuật ngữ
“logic học” (tiếng Hy Lạp là Logikè) chưa được ông sử dụng với tính cách là danh
từ. Arixtốt mới chỉ sử dụng thuật ngữ này như những tính từ (logikos), thí dụ như:
“tam đoạn luận logic”, “lập luận logic”, “những vấn đề logic”… Mặc dù vậy, người
đời sau vẫn coi ông là “người cha của logic học” và cho rằng, “từ thời Arixtốt, logic
học… đã là một khoa học hoàn chỉnh”.
Những vấn đề logic được Arixtốt trình bày trong “Organon” đã đề cập tới phương
pháp nhận thức, phương pháp’ tư duy. Đúng như nhận xét của nhà nghiên cứu người
Nga M.M Rôdentan: “Arixtốt đã luận giải họe thuyết logic của mình là học thuyết
về phương pháp nhận thức thế giới”. Các phương pháp Arixtốt đề cập tới trong triết
học của mình là phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp. Các phương pháp này
được ông trình bày trong mối quan hệ biện chứng, trong đó phân tích, diễn dịch
được đặt lên vị trí hàng đầu.
Tam đoạn luận của Arixtốt. Để hiểu được các phương pháp của Arixtốt và mối quan
hệ giữa chúng, trước hết cần tìm hiểu tam đoạn luận của ông, bởi chính ở đây, ông
đã trình bày một cách đầy đủ nhất về lý luận diễn dịch. Thuật ngữ “Tam đoạn luận”
theo tiếng Hy Lạp là “Syllogismos”. Arixtốt là người đầu tiên đưa ra học thuyết về
23
tam đoạn luận và suy lý. Đây chính là cống hiến bất diệt của ông trong lịch sử phát
triển logic học. Arixtốt đã dành cuốn một của tác phẩm “Analitika I” để mô tả chi
tiết tam đoạn luận và coi đó là lý luận diễn dịch. Ba cuốn còn lại (cuốn hai của
“Analitika II”, cuốn một và cuốn hai của “Analitika II” ông dành cho việc thảo luận
những vấn đề phương pháp luận có liên quan tới lý luận diễn dịch lôgic và việc áp
dụng phép diễn dịch này về mặt lý luận và thực tiễn.
Trong chương một, cuốn một của “Analitika I”‘ Arixtốt đã định nghĩa: “Tam đoạn
luận” là một mệnh đề mà trong đó nếu một cái nào đó được giả định, thì một cái
khác nào đó cần phải bắt nguồn từ một cái đã định, vì rằng cái đã định đó là có”.
Tam đoạn luận của Arixtốt được cấu thành từ ba phán đoán, trong đó hai phán đoán
là tiền đề, còn phán đoán thứ ba là kết luận . Cũng ở đây, ông đã định nghĩa thế nào
là tiền đề và từ, thế nào là tam đoạn luận hoàn thiện và tam đoạn luận không hoàn
thiện. Ông viết: “Tiền đề là một mệnh đề khẳng định hay phủ định một cái gì đó đối
với một cái gì đó. Có – đó hoặc là tiền đề chung, hoặc là tiền đề riêng, hoặc là tiền đề
bất định”, “Từ” là cái được tiền đề tách ra, tức là cái thể hiện và cái mà nó thể hiện
liên kết với nhau bằng động từ “là” hoặc động từ “không phải là”, còn “tam đoạn
luận” hoàn thiện là cái mà khi biểu lộ sự cần thiết, nó không cần một cái nào khác
ngoài cái đã được thừa nhận. Tam đoạn luận không hoàn thiện cả cái cần một hoặc
nhiều cái khác [cho nó], tuy rằng cần phải thông qua những từ đã cho, nhưng thông
qua những tiền đề [đã cho] thì không được.
Arixtốt cho rằng cấu trúc của tam đoạn luận được xác định rất chặt chẽ và để có các
phán đoán tạo thành một tam đoạn luận cần phải có chủ từ (subjet) “S”,’vị từ
(Predicat) “P” và trung từ (moyen terme) “M”, hay như ông thường gọi là “từ nhỏ”,
“từ trung” và “từ lớn”. Arixtốt đã định nghĩa rõ các khái niệm mà ông đưa ra như
sau: “Tôi gọi từ lớn ngoài cùng là từ mà trong đó bao hàm cả từ trung, từ nhỏ là từ
phụ thuộc vào từ trung, còn “từ trung là từ mà bản thân nó có trong một từ, đồng
thời trong bản thân nó lại bao hàm một từ khác và về vị trí thì nó đứng ở giữa”. Từ
24
nhỏ (túc là chủ từ “S”) và từ lớn (tức là vị từ úp “) thông qua từ trung “M” tạo ra mối
quan hệ qua lại giữa chủ thể và khách thể. Tùy thuộc vào vị trí của từ trung mà có
các dạng (figures) tam đoạn luận khác nhau.
Khi nói về các dạng tam đoạn luận, Arixtốt đã nêu lên những biến thể (Modus) khác
nhau để xác định tính chất của các tiền đề. Những tiền đề này có thể là tiền đề khẳng
định chung, tiền đề phủ định chung, tiền đề khẳng định riêng và tiền đề phủ định
riêng. Ngoài ra còn có loại tiền đề không xác định. Ông chứng minh rằng chỉ trong
bốn trường hợp sau đầy là có thể rút ra được kết luận:
1) khi kết hợp một tiền đề khẳng định chung này với một tiền đề khẳng định chung
khác,
2) khi kết hợp một tiền đề phủ định chung với một tiền đề khẳng định chung,
3) khi kết hợp một tiền đề khẳng định chung với một tiền đề khẳng định riêng và
4) khi kết hợp một tiền đề phủ định chung với một tiền đề khẳng định riêng.
Như vậy, để có được kết luận thì trong hai phán đoán tiền đề nhất thiết một tiền đề
phải là tiền đề chung còn tiền đề kia nhất định phải là tiền đề khẳng định. Từ hai tiền
đề riêng hay từ hai tiền đề phủ định đều không thể dẫn đến một điều gì cả. Thí dụ,
“Một số người là người da trắng” và “Một số người là vận động viên” hay “Một số
người không phải là người da trắng” và “Một số người không phải là vận động viên”
– từ hai cặp phán đoán tiền đề trên chúng ta không thể rút ra được điều gì ở đây.
Như vậy, tam đoạn luận của Arixtốt là một quá trình vận động của tư duy đi từ cái
chung đến cái đơn nhất. Ông viết: “Quả là không thể kết luận được rằng các góc của
tam giác này bằng hai góc vuông nếu như không phải ở mọi tam giác chúng đều
bằng hai góc vuông, hoặc là con người là sinh vật sống nếu như không phải mọi
người đều là sinh vật sống”.
Phân tích và tổng hợp. Arixtốt đã gọi khoa học về tư duy của mình là “analitika” –
tức là khoa học phân tích và vì vậy, một trong những tác phẩm logic học chủ yếu
của ông có tên gọi “Analitika I” và “Analitika II”. Ở đây Arixtốt đã sử dụng danh từ
“sự phân tích” (tiếng Hy Lạp là analysis) như là sự phần giải cái phức tạp thành
25
những cái đơn giản cho tôi khi không thề phân giải hơn nữa, tức là phân giải thành
những khởi nguyên hay tiên đề. ông cho rằng cần phải bất đầu nghiên cứu khoa học
từ việc phân tích những tài liệu kinh nghiệm. Chính vì vậy mà ông đã thu thập được
một khối lượng tài liệu kinh nghiệm vô cùng phong phú đó lịch sử trước đó tích lấy
được và phân tích chúng một cách khoa học trong nhiều lĩnh vực tri thức như triết
học, y học nghệ thuật, sinh vật học, thiên văn… Nếu như trước Arixtốt, tụ nhiên mới
chỉ được nghiên cứu một cách khái quát thì ông là người đầu tiên đã phân tích từng
sự vật và hiện tượng riêng biệt của tự nhiên. Ở đây ông đánh giá cao vai trò của
nhận thức cảm tính và coi cảm giác và kinh nghiệm có một ý nghĩa quan trọng để từ
đó nhận được tri thức về cái chung. Do vậy, Lênin đã gọi “Arixtốt là một người kinh
nghiệm chủ nghĩa, nhưng đang tư duy”.
Trong học thuyết tam đoạn luận của mình, Arixtốt rất đề cao phương pháp phân tích.
Nhưng, sẽ là không đầy đủ nếu cho rằng ông chỉ chú ý tới phương pháp phân tích
mà không quan tâm đến phương pháp tổng hợp. Đúng, vấn đề phân tích và tổng hợp
chỉ được giải quyết tốt để trong phép biện chứng của triết học Mác. Song, ngay từ
thời cổ đại, Arixtốt là người đầu tiên đã nêu lên một cách khá rõ nét vấn đề này và
bước đầu giải quyết nó khi bàn tới mối quan hệ giữa các phạm trù chung và cái đơn
nhất trong học thuyết phạm trù, cũng như khi bàn từ quan hệ giữa chủ từ và vị từ từ
trong học thuật tam đoạn luận của ông.
Theo Arixtốt, phân tích và tồng hợp được thực hiện trong các phán đoán mà từ đó
rút ra kết luận. Trước hết, phán đoán được xây dựng trên cơ sớ của sự phân tích.
Việc xác định chủ từ nằm trong vị từ được tiến hành bằng cách phân tích cái gì quy
về cái gì. Phán đoán S-P cần có sự phân tích sơ bộ nhiều chủ từ mà kết quả của sự
phân tích đó cho phép gắn chủ từ xác định đã cho với vị từ trong phán đoán. Nhưng
mặt khác, do chủ từ và vị từ trong phán đoán không hoàn toàn đồng nhất và trùng
hợp với nhau nên trong phán đoán chúng có thời điểm tổng hợp.
Để thấy rõ hơn vấn đề này, ta quay trở lại thí dụ về Xôcrát và cái chết. Trong phán
đoán “Xôcrát là người” thì ở đây chính là sự xác định bản chất của “Xôcrát”. Do
vậy, phán đoán “Xôcrát là người” là phán đoán tổng hợp. Việc quy cái chung cho cái