BAÙO CAÙO TIEÅU LUAÄN MOÂN TRIEÁT HOÏC
Đề tài 11
LÒCH SÖÛ TRIEÁT HOÏC TAÂY AÂU THÔØI PHUÏC HÖNG – CAÄN
ÑAÏI LAØ LÒCH SÖÛ TÌM KIEÁM NHÖÕNG PHÖÔNG PHAÙP
HIEÄU QUAÛ ÑEÅ CHÆ ÑAÏO HOAÏT ÑOÄNG NHAÄN THÖÙC VAØ
HOAÏT ÑOÄNG THÖÏC TIEÃN CHO GIAI CAÁP TÖ SA ÛN
GVHD
: TS. BUØI VAÊN MÖA
SVTH
: TOÁNG THÒ HÖÔNG
LÔÙP
: CAO HOÏC D1 K19
Thaùng O3/2010
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP HOÀ CHÍ MINH
NGAØNH QUAÛN TRÒ KINH DOANH
KHOA ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
MỤC LỤC
I.
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯ NG (THẾ KỶ XV – XVI)……1
I.1.
Tiền đề kinh tế, chính trị- xã hội và khoa học [1,4] …………………..1
I.2.
Đặc điểm của Triết học thời phục hư ng [1,2] ……………………………2
I.2.1
Triết học thời kỳ này là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong
cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội…………………………………………2
I.2.2
Tư tư ởng của các nhà triết học phục hư ng có tính hai mặt: ………2
I.2.3
Triết học thời kỳ này gắn liền với vấn đề nâng cao giá trị khát
vọng giải phóng con ngư ời………………………………………………………………….3
I.2.4
Triết học thời kỳ này là những tư tư ởng xã hội học thấm nhuần
chủ nghĩa nhân văn ……………………………………………………………………………3
I.3.
Một số triết gia tiêu biểu [1, 2] ……………………………………………….3
I.3.1
Nicolas Copernicus (còn đư ợc ghi là Copernide) (1473-1543)….3
I.3.2
Leonardo Da Vinci (1452-1519)………………………………………….3
I.3.3
Giordano Filippo Bruno (1548 – 1600)…………………………………4
I.3.4
Galiléo Galilée (1564 – 1642)……………………………………………..5
II.
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ CẬN ĐẠI (THẾ KỶ XVII – XVIII).6
II.1.
Tiền đề kinh tế, chính trị- xã hội, khoa học [1, 2, 4] ………………….6
II.2.
Đặc điểm của Triết học Tây Âu thời cận đại [1, 2, 4] …………………7
II.2.1
Ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản ……………………………………..7
II.2.2
Liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên ……………………….8
II.2.3
Triết học duy vật thế kỷ XVII – XVIII chịu ảnh hư ởng nặng nề
sự thống trị của phư ơ ng pháp siêu hình…………………………………………………8
II.2.4
Triết học duy vật thế kỷ XVII – XVIII là triết học duy vật không
triệt để
………………………………………………………………………………………9
II.2.5
Triết học Tây Âu thời Cận đại đặc biệt quan tâm đến những vấn
đề về nhận thức và phư ơ ng pháp luận …………………………………………………..9
II.2.6
Tư tư ởng nhân văn, khai sáng……………………………………………10
II.3.
Một số trư ờng phái tiêu biểu [1, 2, 3, 4] …………………………………11
II.3.1
Triết học của Francis Bacon (1561-1626) – cơ sở của Chủ nghĩa
Duy vật Kinh nghiệm Anh ………………………………………………………………..11
II.3.2
Triết học của Renne Descartes (1596 – 1650) – cơ sở của chủ
nghĩa duy lý tư biện (siêu hình học) ……………………………………………………13
II.3.3
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan – bất khả tri ……………………………14
II.4.
Triết học khai sáng và chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp………….16
II.4.1
Tư tư ởng duy vật tự nhiên của Charler Luis Secondat
Montesquieu (1689 – 1755) ………………………………………………………………17
II.4.2
Tư tư ởng duy vật về lịch sử nhân loại của Jean – Jacque
Rousseau (1712 – 1778)……………………………………………………………………18
II.4.3
Tư tư ởng duy vật chiến đấu của Denis Diderot (1713 – 1784) ..21
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………24
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 1
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯ NG – CẬN
ĐẠI LÀ LỊCH SỬ TÌM KIẾM NHỮNG PHƯ Ơ NG PHÁP HIỆU
QUẢ ĐỂ CHỈ ĐẠO HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC VÀ THỰC
TIỄN CHO GIAI CẤP TƯ SẢN
I.
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯ NG (THẾ KỶ XV – XVI)
I.1. Tiền đề kinh tế, chính trị- xã hội và khoa học [1,4]
Thời kì Phục hư ng của các nư ớc Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong
kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV – XVI). Tính chất quá độ đó biểu hiện trên tất cả
các mặt của đời sống kinh tế, chính trị- xã hội, văn hoá tư tư ởng thời kì này.
Vềkinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất
nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bư ớc vào thời kì tan rã. Thời kì phục hư ng là
giai đoạn quá độ của Phư ơ ng thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Đây là thời kỳ tích luỹ tư
bản đầu tiên đư ợc mở rộng. Ngư ời nông dân bị đuổi ra khỏi ruộng đất của họ, bạo lực của
kẻ cư ờng quyền đã tách ngư ời lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Nhiều công trư ờng thủ
công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nư ớc khác, thay thế
cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển.Các công trư ờng thủ công dần dần át cách làm
ăn kiểu phư ờng hội phong kiến.
Những phát kiến về đư ờng biển, tìm ra những miền đất mới, phát hiện ra châu
Mỹ… càng tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo h ư ớng tư bản chủ nghĩa.
Thư ơ ng mại, thị trư ờng trao đổi hàng hoá giữa các nư ớc đư ợc mở rộng; giao lư u quốc
tế đư ợc tăng cư ờng, nhờ đó mà các nư ớc phát triển sớm như Anh, Pháp, Tây Ban
Nha… thi nhau xâm chiếm thuộc địa để mở rộng việc khai thác thi ên nhiên và thị
trư ờng tiêu thụ hàng hoá.
Về chính trị- xã hội: Chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc
của nó đã bư ớc vào giai đoạn lụi tàn. Phong trào chống phong kiến của nông dân, thợ thủ
công trào dâng khắp Châu Âu. Giai cấp tư sản trở thành kẻ đồng minh. Ngư ời ta không
chỉ đòi xoá bỏ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chư ớng ngại trên con
đư ờng phát triển theo xu hư ớng TBCN mà còn chĩa mũi nhọn vào giáo hội La Mã, thành
luỹ tinh thần của chế độ phong kiến. Đặc điểm của phong trào đã ảnh hư ởng đến toàn bộ
cuộc đấu tranh tư tư ởng lúc bấy giờ, bao gồm cả sự phát triển của triết học. Thế giới quan
của giai cấp tư sản thể hiện dư ới hình thức duy vật và vô thần này càng rõ nét.
Đồng thời với sự phát triển của sản xuất v à thư ơ ng nghiệp, trong xã hội Tây Âu
thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Giai cấp tư sản xuất hiện gồm các
chủ xư ởng công trư ờng thủ công, xư ởng thợ, thuyền buôn… Vai trò và vị trí của họ
trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Trong khi ngư ời nông dân do không còn ruộng
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 2
đất phải ra thành phố kiếm kế sinh nhai bằ
ng cách làm thuê cho các công trư ờng, xư ởng
thợ. Họ là tiền thân của giai cấp vô sản sau này. Các tầng lớp xã hội trên đại diện cho
một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy
tàn.
Về khoa học: Do đòi hỏi của thực tiễ
n sản xuất vật chất, các ngành khoa học tự nhiên
bắt đầu phát triển và đây cũng là thời kỳ gặt hái bội thu về các thành tựu khoa học kỹ thuật
như sử dụng năng lư ợng nư ớc, dệt, khai mỏ, luyện kim, chếtạo vũ khí, in ấn, hàng hải…
Chẳng hạn với việc sử dụng năng lư ợng nư ớc đã cho phép thay thế dần sức ngư ời và sức
súc vật trong sản xuất.
Chính sự phát triển của khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã trở thành chỗ dựa vững chắc
cho giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống thần học và chủ nghĩa duy tâm.
I.2. Đặc điểm của Triết học thời phục hưng [1,2]
Những tư tư ởng triết học, những phát kiến khoa học của thời cổ đại đư ợc khôi
phục và phát triển. Các nhà tư tư ởng tiên tiến của thời đại phục hư ng đặc biệt dư ơ ng
cao ngọn cờ nhân văn. Họ xem con ngư ời là đối tư ợng nghiên cứu của triết học, những
tư tư ởng tốt đẹp về con ngư ời của Protagore, Xocrate…trở thành tiền đề lý luận cho
ư ớc mơ giải phóng con ngư ời. Các giá trị toán học của Talet, hình học của Euclide,
những yếu tố duy vật trong triết học của Epicure,..cũng đư ợc xem xét và ghi nhận thoả
đáng.
I.2.1 Triết học thời kỳ này là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong
cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội.
Các nhà Triết học đã vận dụng các tư tư ởng triết học của Hécralite, Épicure,
Démocrite, Empédocle… trong tình hình m ới để bênh vực và phát triển chủ nghĩa duy
vật. Áp dụng các tri thức khoa học tự nhiên để bác bỏ các luận điểm hoang đư ờng phi
lí của triết học kinh viện. Vì vậy, nhiều nhà tư tư ởng tiến bộ đã bị giáo hội sát hại, bắt
bớ, cầm tù. Trong cuộc đấu tranh này, chủ nghĩa duy vật đã đư ợc phát triển lên một
bư ớc, liên minh giữa chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên ngày càng chặt chẽ hơ n.
Cuối cùng, sự chuyên chính của giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung
cổ đã không ngăn đư ợc sự phát triển bư ớc đầu của khoa học thực nghiệm và triết học
duy vật – tiền đề cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học trong
các thế kỷ tiếp theo.
I.2.2 Tư tư ởng của các nhà triết học phục hư ng có tính hai mặt:
Vừa có những tiến bộ như ng còn chứa nhiều yếu tố duy tâm, luẩn quẩn với hình
thức “phiếm thần luận” hay “tự nhiên thần luận”.
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 3
I.2.3 Triết học thời kỳ này gắn liền với vấn đề nâng cao giá trịkhát vọng
giải phóng con ngư ời
Nếu như ở thời kỳ Trung cổ con ngư ời chỉ là sinh linh bé nhỏ, tồn tại, thụ động,
như ngọn nến càng cháy càng ngắn thì con ngư ời của thời kỳ Phục hư ng là thư ớc đo
tất thảy có vẻ đẹp cư ờng tráng của thân thể, sự tinh anh của trí tuệ và chỉ biết thờ
phụng, chiêm ngư ỡng chính bản thân mình, với một khát vọng cháy bỏng về tự do.
I.2.4 Triết học thời kỳ này là những tư tư ởng xã hội học thấm nhuần
chủ nghĩa nhân văn
Các nhà triết học đã nhìn thấy mặt trái của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, gây
ra thực trạng khốn quẫn, bần cùng của đời sống thợ thuyền lao động. Họ mơ ư ớc một
cuộc sống tốt đẹp hơ n cho ngư ời lao động, một xã hội bình đẳng không có chế độ tư
hữu. Đó là kiểu chủ nghĩa xã hội của các nhà không tư ởng ngư ời Anh, ngư ời Italia và
ngư ời Đức.
I.3. Một số triết gia tiêu biểu [1, 2]
I.3.1 Nicolas Copernicus (còn đư ợc ghi là Copernide) (1473-1543)
Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hư ởng to lớn đến nhận thức
duy vật về thế giới, nổi trội hơ n cả là thuyết nhật tâm của Nicolas Copernicus, nhà bác
học vĩ đại ngư ời Ba Lan. Nicolas Copernicus đã đứng trên lập trư ờng của triết học duy
vật đểbác bỏ thuyết địa tâm do Ptolémée (ngư ời Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một
giả thuyết sai lầm coi quả đất là trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm
của Nicolas Copernicus đã giáng một đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo, thần
học. Giả thuyết của ông là một cuộc cách mạng trên trời, báo trư ớc một cuộc cách
mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã hội sắp xảy ra.Vai trò đấng sáng tạo của Thiên
chúa đã mất đi. Quan niệm về chân lý cũng sai khác, không phải tất cả những gì hiển
nhiên trực tiếp là chân lý. Nếu mặt trời là trung tâm, trái đất xoay quanh mặt trời thì
việc đối lập giữa vận động trên trời và vận động dư ới đất, xem vận động trên trời là
hoàn thiện và vận động dư ới đất là không hoàn thiện là không thể chập nhận đư ợc vì
trên trời và dư ới đất không khác nhau về nguyên tắc, đều tuân theo những nguyên tắc
vận động cơ học.
I.3.2 Leonardo Da Vinci (1452-1519)
Ông sinh năm 1452 tại làng Tócane Da VinCi ở Florence (tên của ông đư ợc đặt
theo tên làng ông đư ợc sinh ra). Ông mất năm 1519 tại lâu đài Amboise (Pháp).
Từ lập trư ờng khoa học tự nhiên, Leonardo đã phê phán các quan niệm thần học và
giáo hội. Ông gọi giáo hội là cửa hàng bịp bợm, thần thánh chỉ là kẻ giả nhân giả
nghĩa; xem tư ớng ngư ời là khoa học giả hiệu; thuật chiêm tinh, luyện đan là giả dối.
Lửa giống như ánh sáng khoa học có nhiệm vụ loại bỏ tất thảy những thứ đó. “Lửa tiêu
diệt sự giả dối, nghĩa là tiêu diệt kẻ nguỵ biện và xua đuổi bóng tối mà vạch ra chân lý.
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 4
Lửa có nhiệm vụ tiêu diệt mọi kẻ nguỵ biện, nó là cái vừa giải thích vừa thuyết minh
chân ly cho rằ
ng nó là ánh sáng xua bóng tối đang che giấu bản chất của các sự vật.
Lửa đập tan mỏi kẻ nguỵ biện, nghĩa là đập tan sự lừa bịp và một mình nó vạch ra
chân lý.
Là một hoạ sĩ như ng với ông tranh không phải là mục đích cuối cùng. Tranh của
ông là những minh chứng mới về bố cục, nội dung tư tư ởng, tâm trí con ngư ời và màu
sắc. Ông lấy tranh để biểu hiện cái đối lập “Cơ thể của bất cứ vật sống nào cũng đều
luôn luôn chết đi và luôn luôn tái sinh… như ng nếu ta bù lại số lư ợng bị tiêu huỷ trong
một ngày, thì sẽ lại nảy ra từng ấy sức sống bị tiêu hao. Chẳng khác gì những ánh sáng
của cây nến do chất nến chảy ra nuôi dư ỡng: nhờ nó chất nến chảy ra rất nhanh từ dư ới
lên, cây nếnluôn luôn khôi phục đư ợc cái chết đi, đã tiêu diệt đi và khi chết đã biến từ
ánh sáng chói lọi thành khói đen”. Ông đã thấy đư ợc cái hữu hạn nhỏ bé của con ngư ời
trư ớc cái lớn lao vô hạn của tạo hoá. “Dù con ngư ời có đạt đến một nền khoa học nào
đi nữa, con ngư ời cũng không bao giờ hết quằ
n quại xót xa về cái bé bỏng của mình
trư ớc tạo hoá”. Tuy vậy, ông lại luôn luôn khám phá với mong mỏi giải phóng con
ngư ời khỏi những trói buộc của số phận.
Ông đã đứng trên lập trư ờng của nhà duy vật để phê phán các tín niệm thần học.
Nếu nhà thờ cho rằ
ng trái đất là trung tâm của vũ trụ thì ông khẳng định: “Trái đất
không phải ở trung tâm hệ thống mặt trời, cũng như không phải ở trung tâm thế giới
mà ở trung tâp những lực lư ợng tự phát của nó, những lực lư ợng gần gũi với nó và liên
kết với nó… Ai đứng trên mặt trăng khi mặt trăng ở cùng với mặt trời ở trên đầu chúng
ta thì đối với ngư ời ấy, quả đất là biển cả xung quanh nó sẽ tựa như giữ vai trò của mặt
trăng đối với chúng ta”. Ông kết luận “Trái đất đó là ngôi sao gần giống như mặt
trăng”. Theo ông, các sự vật hiện tư ợng trong thế giới này đều tuân theo các quy luật
khách quan vì đó là “chủ đề” là “dây cư ơ ng” điều hành vĩnh viễ
n.
I.3.3 Giordano Filippo Bruno (1548 – 1600)
Bruno là nhà triết học ngư ời Italia. Ông sinh năm 1548 trong một thành phố nhỏ-
Nôla. Mồ côi từ nhỏ, ông đư ợc nuôi dư ỡng trong tu viện. Biến cố quan trọng làm đổ tư
tư ởng của ông là do tình cờ ông tiếp xúc đư ợc cuốn “Về sự chuyển động của các thiên
thể trên bầu trời” của Copernide. Bruno có những đóng góp quan trọng vào việc phát
triển những tư tư ởng biện chứng.
Trư ớc hết là ở chỗ đã đư a ra tư tư ởng về sự phù hợp của các mặt đối lập. Với ông,
trong sự thống nhất của thế giới có sự phù hợp giữa cái “tối thiểu và cái tối đa, cái này
mất đi là tiền đề của các khác ra đời”. “Nếu suy nghĩ một cách chín chắn thì chúng ta
sẽ thấy rằng tiêu diệt chẳ
ng qua chỉ
là phát sinh, phát sinh chẳ
ng qua chỉ
là tiêu diệt.
Tình yêu là lòng căm thù, lòng căm thù là tình yêu. Rốt cục, cằm thù là cái đối lập tức
là căm thù cái thứ hai; do vậy, về mặt thực thể và gốc rễ, tình yêu và căm thù, hữu nghị
và thù hằn là cùng một cái”.
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 5
Như vậy các quá trình đối lập trong khi bài trừ phủ định lẫn nhau thì chúng lại
thống nhất với nhau. Quá trình tiêu diệt và sự phát sinh là hai quá trình độc lập như ng
sự tiêu diệt không khác gì hơ n là sự chuyển hoá từ cái này sang cái khác. Trong quá
trình nhận thức, con ngư ời chỉ
nhận thức đư ợc một mặt trong mối quan hệ với những
cái đối lập với nó. Từ sự đối lập với căm thù ta kết luận đư ợc thế nào là tình yêu và
ngư ợc lại.
Thứ hai, tư tư ởng phát triển
Kế thừa tư tư ởng của Héraclite ông cho rằng thế giới này chỉ
là một dòng chảy liên
tục, tất cả đều tồn tại trong biến đổi. Tư tư ởng phát triển là sự tiếp nối và triển khai
trên nguyên tắc về sự phù hợp của các mặt đối lập.
Về nhận thức, điểm gặp gỡ của Bruno với các nhà triết học cùng thời là khẳ
ng định
chân giá trị của con ngư ời thông qua nhận thức. Nhận thức là hư ớng tới chân lý như ng
chỉ
có một chân lý duy nhất là chân lý của triết học và khoa học. Còn nếu có cái gọi là
chân lý thứ hai thì chỉ
là hoang đư ờng và phi lý.
Ông cho rằng đối tư ợng của nhận thức là giới tự nhiên. Ông đư a ra nguyên tắc
nghi ngờ trong nhận thức. Không nên dựa vào sự thừa nhận của quá khứ khi phán đoán
sự vật khác bắt đầu từ nghi ngờ. Phải dựa vào lý trí trên cơ sở thực nghiệm để đảm bảo
tính xác thực của tri thức. Chân tri thức chứ không phải là của uy quyền là lòng tin mù
quáng.
Quá trình nhận thức đư ợc Bruno chia làm ba giai đoạn: cảm giác, lý trí và trí tuệ.
Dựa vào cảm giác, chủ thể chỉ
tiếp nhận đư ợc dáng vẻ
bề ngoài của sự vật chẳ
ng khác
gì nhìn ra ngoài khe cửa hẹp. Nhận thức lý trí tuy đã là sự phát triển về chất như ng
chân lý chư a bộc lộ đầy đủ mới chỉ
là “ánh sáng mặt trời do ánh sáng mặt trăng phản
chiếu”. Chỉ
có nhận thức trí tuệ mới nhận đư ợc chân lý. Vì vậy đây là giai đoạn cao
nhất của nhận thức.
I.3.4 Galiléo Galilée (1564 – 1642)
Galiléo là nhà vật lý học, toán học, thiên văn học, triết học ngư ời Italia. Galiléo tìm
ra định luật quán tính và đã chỉ
ra rằng trong chân không, mọi vật thể, dù trọng lư ợng
thế nào cũng đều rơ i xuống đất với một gia tốc như nhau. Từ thực nghiệm ông đi đến
kết luận nếu một vật thể nào đó chuyển động đều, điều này không ảnh hư ởng đến tính
chất của quá trình cơ học xảy ra bên trong vật thể đó. Nguyên tắc tư ơ ng đối này đã trở
thành cơ sở lý luận của ngành vật lý, những quan niệm về không gian, thời gian trong
khoa học tự nhiên thế kỷ XVII-XIX. Tất cả những thành tựu này đã làm cho quan
niệm của thần học về cùng một đề tài trở nên lạc lõng, chỉ
thuần tuý là kết quả của
tư ởng tư ợng.
Thế giới quan của Galiléo đư ợc xây dựng trên các thành tựu khoa học. Với kính
thiên văn tự tạo ông đã tìm ra những vệ tinh của sao Jupiter, những chấm đen trên mặt
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 6
trời, những dãy núi và khe núi trên mặt trăng, những chòm sao của sông Ngân
hà…Như vậy vũ trụ này chỉ
có thể là vật chất và vũ trụ này thống nhất ở tính vật chất.
II. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ CẬN ĐẠI (THẾ KỶ XVII – XVIII)
Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư bản, của khoa học và tư
tư ởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, như ng với những đặc điểm mới.
II.1. Tiền đề kinh tế, chính trị- xã hội, khoa học [1, 2, 4]
Về kinh tế: Biến đổi trong phư ơ ng thức sản xuất: phư ơ ng thức sản xuất tư bản
thay thế từng bư ớc phư ơ ng thức sản xuất cũ, mở ra khả năng phát triển khoa học, kỹ
thuật, cải tiến công cụ sản xuất. Đồng hồ cơ khí và máy hơ i nư ớc là hai chỉ
số quan
trọng của nền sản xuất, với vị trí hàng đầu của cơ học. Phư ơ ng thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa góp phần phá vỡ các quan hệ xã hội lỗi thời, đơ n giản hoá môi trư ờng giao
tiếp, kích thích tính sáng tạo của cá nhân, tạo nên hệ biến thái mới trong đánh giá hoạt
động của con ngư ời, xác lập những giá trị, những chuẩn mực phù hợp với thời đại
đang biến đổi nhanh chóng. Có thể khẳ
ng định rằng bằng việc thúc đẩy nhanh hơ n tiến
trình lịch sử– xã hội, thời đại tư bản trở thành thời đại năng động nhất, biện chứng
nhất so với các thời đại đã qua.
Quá trình hình thành các quốc gia tư sản hiện đại, mở ra khả năng giao lư u, hợp
tác về kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc với hiệu quả cao hơ n trư ớc, khả năng quốc tế
hoá, toàn cầu hoá kinh tếmang tính chất tư bản chủ nghĩa.
Về chính trị- xã hội: Các cuộc cách mạng tư sản đánh dấu bư ớc phát triển mới của
lịch sử nhân lọai: cách mạng tư sản Hà Lan (nửa sau thế kỷ XVI), cách mạng tư sản
Anh (1640), cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794) là những cuộc cách mạng tư sản
tiêu biểu. Đó là những cuộc cách mạng cơ cấu, làm đổi thay cơ cấu xã hội, chủ thể
quyền lực, vị trí con ngư ời và nền văn hoá., tạo ra những xung lực mới của tiến bộ xã
hội. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” C. Mác và Ph. Ăngghen khẳ
ng định rằng
giai cấp tư sản đã từng đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử(C. Mác và
Ph. Angghen, toàn tập, t.4, Nxb CTQG, HN, 1995, tr. 599). Nhận định đó phù hợp với
thời đại này.
Về khoa học: Thực tiễn đã chắp cánh cho khoa học tự nhiên dựa trên thực nghiệm
phát triển mạnh mẽ. Việc chế tạo ra kính hiển vi, kính viễn vọng, hàn thử biểu, máy
hút không khí đã gia tăng tốc độ, sự phát triển của nghề luyện kim, khai thác mỏ, đóng
tàu… và cho thấy ngay từ đầu khoa học tự nhiên đã có mối liên hệ gắn bó khăng khít
với sự tiến bộ của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Không chỉ
vậy, khoa học đã trở thành
vũ khí lợi hại của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống tôn giáo, triết học kinh
viện. Việc phát hiện ra sự tuần hoàn máu đã trở thành căn cứ khoa học để khẳ
ng định
tư duy, ý thực gắn chặt với cơ thể con ngư ời, ý thức không có đời sống độc lập thần bí.
Nhà hoá học Anh Robert Boyle (1627 – 1691) qua phân tích hoá học đã giải đáp đư ợc
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 7
nỗi niềm băn khoăn của các học giả trong nhiều thế kỉ
đó là thế giới vật chất gồm
những gì, thành phần các chất ảnh hư ởng thế nào lên tính chất của chúng… trên lập
trư ờng duy vật.
Khoa học không còn dừng lại ở vị trí “tri thức thuần túy”, mà dần dần trở thành lực
lư ợng sản xuất trực tiếp và thiết chế xã hội đặc trư ng, nghĩa là những thành quả của
khoa học, với sự tổ chức chặt chẽ (những trung tâm khoa học, dư ới hình thức các viện,
các hội khoa học) và khả năng ứng dụng kịp thời không chỉ
làm thay đổi cuộc sống
con ngư ời, cải tạo tự nhiên, mà còn góp phần vào tiến bộ xã hội. Bản thân nhà khoa
học cũng tích cực tham gia vào các họat động chính trị, xã hội phong phú, phức tạp.
Mặt khác, với tính ứng dụng hiệu quả của mình, đáp ứng nhu cầu giải phóng sức lao
động, khoa học dần dần trở thành lực lư ợng sản xuất trực tiếp.
Tất cả các thành tựu của khoa học như việc xác định đư ợc trọng lư ợng của không
khí, khẳ
ng định tính chất hạt và tính chất sóng của ánh sáng, những cách nhìn nhận
mới về điện, về từ… đã tác động không nhỏ đến sự phát triển của triết học, đặc biệt là
về bản thể luận.
Những di sản văn hóa, tư tư ởng của Hi Lạp và La Mã vẫn đư ợc các nhà triết học
kế thừa và phát triển. Các nhà tư tư ởng cận đại tiếp tục viện dẫn các di sản của
Démcrite, Épicure, Anaxagore, tư tư ởng duy vật của Aristote… trong hệ thống triết học
của mình.
Tóm lại, sự phát triển về kinh tế và xã hội cùng với sự phát minh vĩ đại trong khoa
học tự nhiên đã tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự ra đời của một hình thức lịch sử
mới của triết học duy vật – chủ nghĩa duy vật siêu hình ở Tây Âu thời cận đại.
II.2. Đặc điểm của Triết học Tây Âu thời cận đại [1, 2, 4]
II.2.1 Ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản
Triết học thế kỷ XVII – XVIII là sự nối tiếp của triết học thời kỳ Phục hư ng, tiếp
tục là ngọn cờ của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh để thiết lập trật tự tư bản chủ
nghĩa và giải phóng con ngư ời.Cuộc đấu tranh này diễn ra ở nhiều bình diện: duy vật
chống duy tâm thần bí, khoa học chống chủ nghĩa giáo điều và uy quyền tư tư ởng, cải
cách chính trị chống bảo thủ chính trị…So với thời Phục hư ng, giai cấp tư sản thế kỷ
XVII – XVII đóng vai trò lực lư ợng chính trị độc lập cách mạng, tập hợp xung quanh
mình các nhân tố tích cực, tiến bộ, tấn công trực diện vào chế độ phong kiến và nền
tảng tinh thần của nó, xác lập những chuẩn mực, giá trị mới, đơ n giản hóa các quan hệ
xã hội, phù hợp với sự vận động lịch sử. Thời Phục hư ng thể hiện quá trình chuyển
tiếp từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, còn thời đại mới đã là thời đại của
các cuộc cách mạng tư sản và sự hình thành xã hội tư sản, với những đặc trư ng mà xã
hội trư ớc đó chư a thể có đư ợc. Phục hư ng về cơ bản gắn liền với sự trở về những giá
trị bị lãng quên, để từ đó thực hiện sự nhận thức lại quá khứ và mở hư ớng cho tư ơ ng
lai. Thế kỷ XVII – XVIII tiếp thu tinh thần mở đó, và làm cho nó trở nên hiện thực
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 8
thông qua cuộc cách mạng cơ cấu, nghĩa là cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi quan hệ
và cơ cấu xã hội, thay đổi hình thức và cơ chế quyền lực chính trị, phá vỡ các đặc
quyền đẳ
ng cấp, thay đổi quan hệ giữa nhà nư ớc và nhà thờ v.v.. Cách mạng trong lý
trí đi trư ớc cách mạng trong lĩnh vực thực tiễn, các học thuyết triết học thực hiện quá
trình phê phán cái cũ, cái lỗi thời, xác lập cái mới, cái tiến bộ, xem cái đang tồn tại, tức
chế độ phong kiến và hệ tư tư ởng của nó là cái phi lý, cũng đồng thời là phi nhân tính,
đòi hỏi thay thế nó bằng cái hợp lý – hơ p nhân tính, theo quan điểm phổ biến về sự
thống nhất lý trí – nhân tính.
Những thành tựu của khoa học mới và thực tiễn sinh động của xã hội thời kỳ Cận
đại, như ngọn đèn chiếu rọi giúp cho giai cấp tư sản nhận chân đư ợc bộmặt của giai
cấp phong kiến. Những quan điểm xã hội tiến bộ của chủ nghĩa duy vật trở thành cơ sở
lý luận cho việc bác bỏ thần học và tôn giáo.
Những luận chứng của Hollbach về tôn giáo đã trở thành mẫu mực cho cuộc đấu
tranh chống tôn giáo vì mục đích thoát khỏi những ràng buộc do sự yếu kém từ chính
nó tạo ra. Những khẳ
ng định và chứng minh của Diderot về nguồn gốc của loài ngư ời
là những cơ sở lý luận vững chắc cho chủ nghĩa vô thần phê phán.
II.2.2 Liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên
Triết học phư ơ ng Tây Cận đại phát triển trong điều kiện gắn bó chặt chẽ với khoa
học. Sự phát triển của triết học gắn kết chặt chẽ, hữu cơ với sựphát triển của khoa học
tự nhiên, thể hiện trình độ nhận thức chung của thời đại. Nhiều nhà triết học đồng thời
là nhà khoa học (Descartes, Newton, Pascal , Leibniz …) ho ặc có những am hiểu sâu
sắc về khoa học, trở thành bộ óc bách khoa của thời đại (Diderot chẳ
ng hạn). Nói khác
đi, trong điều kiện khoa học phát triển như vũ bão, các nhà triết học, để có thể đứng
vững trong cuộc luận chiến tư tư ởng, không có nhu cầu nào khác hơ n là phải am hiểu
những thành quả của khoa học. Mà để đạt đư ợc điều đó họ cần tự mình tìm hiểu,
nghiên cứu các lĩnh cực khoa học, cần mài sắc tư duy bằng sự hiểu biết về bức tranh
khoa học tổng thể, hoặc chí ít cũng làm quen với môi trư ờng khoa học ở những nét căn
bản nhất.
II.2.3 Triết học duy vật thế kỷ XVII – XVIII chịu ảnh hư ởng nặng nề sự
thống trị của phư ơng pháp siêu hình.
Nhờ biết bám sát vào những thành tựu của khoa học tự nhiên và trình độ nhận thức
chung của xã hội, các nhà triết học đã xác lập bức tranh vật lý mới về thế giới, nắm bắt
những tính quy luật khách quan của nó, đào sâu một số vấn đề bản thể luận mà trư ớc
đây chư a từng biết đến. Song ảnh hư ởng của khoa học tự nhiên đến tư duy tríết học
cũng làm nảy sinh những nan giải nhất định. Trư ớc hết, sự thống trị của cơ học đã để
lại dấu ấn trong triết học bằng quan điểm máy móc về thế giới, cả giới tự nhiên lẫn thế
giới của chính con ngư ời. Tiếp theo, quá trình toán học hóa tư duy bên cạnh mặt tích
cực của nó đã góp phần vào việc hình thành cách tiếp cận siêu hình đối với một số lĩnh
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 9
vực tự nhiên, xã hội, chủ trư ơ ng đư a khoa học chính xác vào môi trư ờng nhân văn.
Chẳ
ng hạn, theo Hobbes, nếu chúng ta đã có vật lý học, nghiên cứu cụ thể về các vật
thể tự nhiên, thì cần thiết phải xác lập “vật lý xã hội”, tìm hiểu các vật thể nhân tạo.
Nếu trong tự nhiên có lực đẩy và lực hút, thì trong xã hội, hai lực ấy là chiến tranh và
hoà bình! Hobbes cũng xem logic tính toán là khoa học nhập môn của các lĩnh vực
khác. Rất nhiều nhà triết học không chỉ
lệ thuộc vào các nguyên lý cơ học trong
nghiên cứu, mà còn từ đó hình thành phư ơ ng pháp tư duy theo kiểu tách rời và đem
đối lập một cách tuyệt đối “đúng – sai”, “trắng – đen”, “khoa học – không khoa
học”… Phư ơ ng pháp tư duy của Siêu hình học thế kỷ XVII – XVIII có những mặt tích
cực nhất định, nhất là trong điều kiện các nhà khoa học cần đến “những chứng cứ của
lý trí” để chống các hình thức nguỵ tạo khoa học và triết học kinh viện. Song phư ơ ng
pháp ấy lại tỏ ra không thích hợp trong việc giải thích bản chất của thế giới đang biến
đổi. Vấn đề là ở chỗ, trong khi tìm hiểu những mặt, những thuộc tính của sự vật,
những lĩnh vực của đời sống, các nhà triết học và khoa học chư a vạch ra một cách thỏa
đáng mối liên hệ và tác động lẫn nhau giữa chúng, hoặc tuyệt đối hóa mặt nào đó,
đồng thời lý giải thiếu thuyết phục nguyên nhân, động lực của vận động và phát triển.
Hình thức thứ hai của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII
cũng chịu sự quy định của tính chất máy móc, siêu hình ấy, và đư ợc gọi là chủ nghĩa
duy vật máy móc – siêu hình, hay đơ n giản là chủ nghĩa duy vật siêu hình.
II.2.4 Triết học duy vật thế kỷ XVII – XVIII là triết học duy vật không
triệt để
Khi bàn về các hiện tư ợng tự nhiên họ là những nhà triết học duy vật, như ng khi
giải quyết các vấn đề của xã hội thì họ lại là những nhà triết học duy tâm.
Do không nhận thức đư ợc vai trò của nhân tố vật chất kinh tế trong sự tồn tại và
phát triển của xã hội nên các triết gia bất lực không giải thích đư ợc căn nguyên chế độ
tư hữu, tình trạng kẻ
giàu, ngư ời nghèo, sự bần cùng hoá trong xã hội nên đã đư a ra
các giải pháp ở tình trạng cục bộ và duy tâm. Theo họ sở dĩ có những tình trạng như
vậy là do trình độ dân trí thấp, luật pháp lỏng lẻ
o… Vì vậy để tháo gỡ tình trạng này
phải phổ thông giáo dục đại chúng, khai sáng trí tuệ và đạo đức con ngư ời.
Trong cuộc đấu tranh chống tôn giáo, các nhà triết học duy vật mới chỉ
nhận thấy ở
khía cạnh nhận thức, mà không thấy đư ợc nguyên nhân xã hội của vấn đề. Vì vậy
không ít những biện pháp đư a ra chỉ
là ảo tư ởng.
II.2.5 Triết học Tây Âu thời Cận đại đặc biệt quan tâm đến những vấn đề
về nhận thức và phư ơng pháp luận
Về mặt nhận thức luận, thời kỳ này có 2 xu hư ơ ng cơ bản. Một là, nhấn mạnh đề
cao nhận thức cảm tính, cho thí nghiệm, thực nghiệm giữ vai trò quyết định đối với
việc hình thành tri thức. Xu hư ớng ngư ợc lại cho rằng nhận thức lý tính mới giữ vai trò
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 10
quyết định trong quá trình nhận thức. Cả hai đã không thấy đư ợc tính biện chứng,
thống nhất của quá trình nhận thức.
Về mặt phư ơ ng pháp nổi lên tư tư ởng tuyệt đối hoá một phư ơ ng pháp trong nhận
thức, diễn dịch hay quy nạp là do chủ thể, do nhà triết học quy định chứ không phải do
đối tư ợng và mục đích nghiên cứu quyết định.
II.2.6 Tư tư ởng nhân văn, khai sáng
Con ngư ời đã trở thành niềm kiêu hãnh của thời đại, nó không chỉ
là thư ớc đo của
vạn vật mà còn là điểm tựa của toàn vũ trụ. Vì vậy, quan hệ con ngư ời với thế giới
phải trở thành trung tâm các quan niệm triết học. Khoa học không gì khác hơ n là tiền
đề để con ngư ời đi đến hoàn thiện. Nói như Spinoza, nếu khoa học không giúp con
ngư ời đi đến mục đích ấy thì nó cũng không có lý do tồn tại. Tất nhiên do tinh thần
của thời đại, con ngư ời trong triết học mới chủ yếu đư ợc đề cập ở khía cạnh cá thể, ở
những đòi hỏi bức bách đư ợc khẳ
ng định về năng lực và giải phóng chỉ
mới dừng lại ở
tính sinh vật, mặt nhận thức, nhu cầu tình cảm, còn mặt bản chất xã hội dư ờng như ít
đư ợc đề cập đến.
Tư tư ởng nhân văn, khai sáng làm nên một trong những nội dung cốt lõi của triết
học Cận đại. Quan điểm của Bacon về xã hội lý tư ởng, đư ợc xây dựng trên cơ sở
“quyền lực của tri thức” cho đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự. Nếu Bacon tuyên bố “tri
thức là sức mạnh”, thì Hobbes nhấn mạnh rằng quyền lực cần phải hàm chứa yếu tố tri
thức, nghĩa là đư ợc xác lập trên sự hiểu biết bản chất con ngư ời, hư ớng đến mục tiêu
ổn định chính trị, chủ quyền quốc gia và thống nhất ý chí toàn dân. Locke trở thành
ngư ời đặt nền móng cho quan điểm nhà nư ớc pháp quyền, đư ợc các nhà khai sáng
Pháp thế kỷ XVIII phát triển và hoàn thiện ởđêm trư ớc của cách mạng tư sản. Hình
ảnh “con ngư ời lý trí” và “nhà nư ớc hợp lý tính”, quan niệm về tự do, bình đẳ
ng, bác
ái, dân chủ … không chỉ
gợi mở con đư ờng đi tới một trật tự xã hội khác với chế độ
phong kiến “phi lý” và phi nhân tính, ngự trị suốt hàng ngàn năm, mà còn là mục tiêu
phấn đấu của nhiều dân tộc. Một số phác thảo của các nhà khai sáng về mô hình xã hội
tư ơ ng lai cho đến nay vẫn còn là mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc. Với những đặc
trư ng vừa nêu, có thể nói rằng, thế kỷ XVII – XVIII là một trong những thời đại sôi
động nhất trong lịch sử loài ngư ời.
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 11
II.3. Một số trường phái tiêu biểu [1, 2, 3, 4]
II.3.1 Triết học của Francis Bacon (1561-1626) – cơ sở của Chủ nghĩa
Duy vật Kinh nghiệm Anh
Là nhà triết học duy vật kiệt xuất của nư ớc Anh. Mác đánh giá Bacon là “ông tổ
thực sự của chủ nghĩa duy vật Anh và của khoa học thực nghiệm hiện đại”.
Các tác phẩm chính:
– Khái lư ợc về đạo đức và chính trị
– Đại phục hồi các khoa học
– Công cụ mới
– Lịch sử sự sống và cái chết
Bacon thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Khoa học không biết
một cái gì khác ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tự nhiên. Ông cho rằng con ngư ời
cần phải thống trị, phải làm chủ giới tự nhiên. Điều đó có thực hiện đư ợc không hoàn
toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết của con ngư ời. Bacon cho rằng tri thức là sức mạnh,
sức mạnh là tri thức. Do đó cần có một khoa học mới lấy giới tự nhiên làm đối tư ợng
nghiên cứu nhằm biến tự nhiên thành “giang sơ n” của con ngư ời.
Bacon phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh viện vì nó xa rời cuộc sống, chỉ
dựa vào
những lập luận tuỳ tiện không có nội dung và chẳ
ng đem lại lợi ích gì cho con ngư ời.
Theo Bacon, triết học phải giúp con ngư ời trở nên mạnh hơ n. Nhiệm vụ của triết học là
nhận thức giới tự nhiên và các mối liên hệ phức tạp của nó.
Về nhận thức luận và phư ơ ng pháp luận.
Một trong những vấn đề đư ợc quan tâm đặc biệt ở thời cận đại đó là vấn đềnhận
thức luận và phươ ng pháp luận. Bacon đã dành một vị trí thích đáng để bàn về những
nội dung này
Trư ớc hết đểnhận thức đúng bản chất của sự vật thì phải chỉ
ra khả năng và giới hạn
nhạn thức của con ngư ời. Một trong những ảnh hư ởng đến quá trình nhận thức chân lý,
theo Bacon đó là những sai lầm vốn có trong tư duy, do sai lầm trong lý tính mang lại.
Những sai lầm do lý tính tạo ra, Bacon gọi là những IDOLA (ảo tư ởng, ảo ảnh –
theo tiếng Hi Lạp cổ Idola là những hình ảnh bị phản ánh một cách lệch lạc). Bacon đã
gom lại các sai lầm và chia thành bốn ảo ảnh sau:
ẢO ẢNH LOÀI (IDOLA TRIBUS). Những nhận thức sai lầm do loài ngư ời
thư ờng xuyên nhầm lẫn bản chất trí tuệ của mình với bản chất khách quan của sự vật
nên dễ dàng gán cho sự vật những ý tư ởng của mình, biến chúng thành thư ớc đo chân
lý, thư ớc đo giá trị của sự vật. Ông cho rằng trí tuệ của con ngư ời cũng tư ơ ng tự như
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 12
chiếc gư ơ ng méo, khi pha trộn bản chất của mình với bản chất của sự vật thì nó phản
ánh các sự vật dư ới dạng bị xuyên tạc, bị bóp méo.
Để loại trừảo ảnh này, con ngư ời trong nhận thức phải tôn trọng tính khách quan,
không đư ợc duy ý chí, chủ quan áp đặt tư tư ởng của mình cho các đối tư ợng, thận
trọng thăm dò, tăng cư ờng quan sát, thực nghiệm, thư ờng xuyên kiểm tra các tài liệu
do cảm tính mang lại, loại bỏ những sai lầm về mặt logic…
ẢO ẢNH HANG ĐỘNG (IDOLA SPECUS). Thực chất là ảo ảnh loài như ng nó
đư ợc biểu hiện ở mỗi con ngư ời cụ thể. Do có những đặc điểm sinh lý riêng biệt,
hoàn cảnh giáo dục, nghề nghiệp khác nhau…làm khúc xạ tầm nhìn, đẻ
ra những
phán đoán về mọi cái theo bản thân mình hay theo bè nhóm cảm tính.
Ảo ảnh này đư ợc gọi là hang động vì Bacon xem trí tuệ của con ngư ời méo mó như hang
động của Platôn, cái ta cảm nhận đư ợc không phải là bản chất, chỉ
là bản sao giống như ảo
ảnh tư ởng rằng nhốt đư ợc mặt trăng vào trong chậu nư ớc.
ẢO ẢNH THỊ
TRƯ ỜNG (IDOLA FORI). Ảo ảnh này xuất hiện do thư ờng xuyên sử
dụng những danh từ trống rỗng để giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày (giống như ở chợ). Đó
còn do sự ngộ nhận sử dụng các thuật ngữ khoa học chư a thật chính xác. Theo ông, nhiều từ
ngữ đã trở nên cư ỡng bức lý tính, làm đảo lộn tất cả và cuối cùng, thì chỉ
dẫn mọi ngư ời đến
các cuộc cãi vả để diễn giải những cái rỗng tuếch. Vì thế phải phải bỏ thói quen dựa vào các
quan niệm đang lư u hành và có thái dộ phê phán đối với các thuật ngữ mơ hồ không chính
xác. Theo Bacon, điều kiện đư ợc gọi là tri thức phải là tính chính xác của khái niệm.
ẢO ẢNH SÂN KHẤU (IDOLA THEATRI). Sai lầm bắt nguồn do chúng ta quá tin vào
ngư ời xư a, diễn ra trư ớc mắt ngư ời ta như diễn ra trên sân khấu. Quá khứ chỉ
là một thời kỳ
ấu trĩ của loài ngư ời chứ không phải là một thời hoàng kim; để đi đến chân lý không nên giáo
điều, hoặc rơ i vào chủ nghĩa hoài nghi luận.
Ý nghĩa tích cực của những ảo ảnh là ở chỗ không chỉ
chống lại các suy luận vô căn cứ
của thần học, kinh viện mà còn đặt cơ sở xã hội cho quá trình nhận thức. Đó là tôn trọng
khách quan, phê phán và không giáo điều. Một ý nghĩa không chỉ
thuộc về thời Cận đại mà
cho tất cả các thời đại. Ý nghĩa đã trở thành nguyên tắc của nhận thức.
Về phư ơ ng pháp luận, theo Bacon cần phải rà soát những phư ơ ng pháp trư ớc đây để từ
đó kế thừa và triển khai phư ơ ng pháp mới.
Ông cho rằng từ trư ớc đến nay con ngư ời chủ yếu sử dụng hai phư ơ ng pháp là phư ơ ng
pháp con nhện và phư ơ ng pháp con kiến. Cả hai phư ơ ng pháp này đều bộc lộ hạn chế, vì vậy
ông đề xuất phư ơ ng pháp con ong. “Con ong chọn phư ơ ng thức hành động trung gian, nó
khai thác vật liệu từ hoa ngoài vư ờn và ruộng đồng như ng sử dụng và biến đổi nó phù hợp với
khả năng và chỉ
định của mình. Công việc đích thực của triết học cũng không khác gì công
việc đó”.
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 13
Về vai trò của phư ơ ng pháp, Bacon cho rằng “ngư ời què chạy đúng hư ớng sẽ nhanh hơ n
kẻ
lành chạy sai đư ờng” hoặc “phư ơ ng pháp giống như ngọn đèn soi đư ờng cho lữ khách
trong đêm đông”.
Ông đề xuất phư ơ ng pháp quy nạp. Theo ông đó là phư ơ ng pháp tối ư u để nhận thức,
khám phá những bí mật của đối tư ợng nhận thức. Bản chất của phư ơ ng pháp này là xuất phát
từ những sự kiện riêng biệt sau đó tiến dần lên những nguyên lý phổ biến, khẳ
ng định bản
chất của sự vật.
Triết học Bacon là triết học duy vật không triệt để khi ông không dám công khai xung đột
với tôn giáo. Điều này thể hiện tính thoả hiệp trong triết học của ông. Mặc dù vậy, triết học
duy vật của Bacon đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của khoa học, nó giáng một
đòn rất mạnh vào uy tín của nhà thờ và giáo hội.
II.3.2 Triết học của Renne Descartes (1596 – 1650) – cơ sở của chủ nghĩa
duy lý tư biện (siêu hình học)
Cũng như Bacon, Descartes đã chú ý đến nghiên cứu phư ơ ng pháp nhận thức khoa
học để tạo nên khả năng đi sâu vào nghiên cứu những bí mật của giới tự nhiên. Ông tin
tư ởng rằng, với phư ơ ng pháp mới có thể đạt đư ơ c những tri thức có ích cho cuộc sống.
Triết học của ông có tính chất nhị nguyên. Ông cho rằng, hai thực thể tinh thần và vật
chất tồn tại độc lập với nhau, như ng cả hai thực thể này đều phục tùng nguyên thể thứ
ba – nguyên thể tối cao là thần linh. Nhị nguyên luận của Descartes biểu hiện tính chất
thoả hiệp của hệ tư tư ởng tư sản.
Gạt bỏ những đạo lý kinh viện của tôn giáo, Descartes đư a lý trí lên vị trí hàng đầu trong
lý luận về nhận thức. Gống như Bacon, ông cho rằng nhiệm vụ của thí nghiệm không phải là
phát minh ra các quy luật của tự nhiên mà là khẳ
ng định những tri thức, những quy luật mà lý
trí phát hiện ra. Nếu Bacon cho rằng điều kiện cần thiết đầu tiên để xây dựng một khoa học
chân chính về khoa học tự nhiên là tẩy rửa đư ợc mọi ảo tư ởng, thì Descartes thừa nhận rằng
sự nghi ngờ là điểm xuất phát của phư ơ ng pháp khoa học. Ông nhấn mạnh rằng, dù anh nghi
ngờ mọi cái như ng không thể nghi ngờ rằng anh nghi ngờ. Descartes nói: Tôi tư duy, vậy tôi
tồn tại, và ông cho đó là nguyên lý cơ bản bất di bất dịch. Ý nghĩa tiến bộ của nguyên lý trên
là ở chỗ nó đề cao vai trò của lý trí, phủ nhận một cách tuyệt đối những gì mà ngư ời ta mê tín.
nHư ng nguyên lý ấy lại thể hiện tính chất duy tâm, vì Đecáctơ đã không nhìn thấy rằng không
thể đi tìm tiền đề xuất phát của nhận thức ở ngay trong nhận thức mà phải tìm từ bản thân đời
sống thực tiễn xã hội.
Descartes là ngư ời sáng lập ra chủ nghĩa duy lý. Chủ nghĩa duy lý của Descartes ở một
mức độ khá lớn có liên hệ với chủ nghĩa duy tâm, vì ông cho rằng trong lý trí của c ngư ời có
“những tư tư ởng bẩm sinh”, độc lâp với kinh nghiệm. Ông đã thừa nhận một cách sai lầm
rằng, những nguyên tắc cơ bản của logic học và toán học là những cái “bẩm sinh”, không phụ
thuộc vào kinh nghiệm.
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 14
Trong học thuyết về tự nhiên, Descartes là một nhà duy vật, ông coi vật chất là một thực
thể duy nhất, là cơ sở duy nhất của tồn tại và nhận thức. Quảng tính là thuộc tính cơ bản của
vật chất, như ng ông lại đi đến đồng nhát vật chất với quảng tính, và ngư ợc lại, ở đâu không có
quảng tính thì không có vật chất. Vật chất choán đầy vũ trụ, không có không gian trống rỗng.
Đêcátơ thừa nhận tính vĩnh cửu của vật chất. Vạn động cơ học đư ợc ông xem như là một biểu
hiện sức sống của vật chất. Vận động đư ợc chuyển từ vật này đến vật khác và không bao giờ
bị tiêu diệt. Luận điểm của Descartes về tính không bị tiêu diẹt của vận động đư ợc
Ph.Ăngnhen đánh giá như một thành tựu khoa học vĩ đại.
Descartes thừa nhận sự xuất hiện của thế giới thực vật và động vật trong quá trình vận
động. Như ng ông chư a thấy sự khác nhau vè chất giữa thế giới sinh vật, coi cơ thể sống là
một cỗ máy phức tạp. Ông cho rằng, sự khác biệt giữa con ngư ời và con vật là ở chỗ: con
ngư ời không chỉ
là một cơ thể vật chất mà còn là một thực thể có lý trí. Như ng lý trí, theo ông
không phụ thuộc vào qúa trình vật chất. Điều này thể hiện tính chất duy tâm trong triết học
của Đêcátơ .
II.3.3 Chủ nghĩa duy tâm chủ quan – bất khả tri
a)
Triết học của George Berkeley (1685 – 1753)
George Berkeley là nhà triết học nổi tiếng ngư ời Anh, đại biểu điển hình của chủ
nghĩa duy tâm chủ quan. Ông sinh trong một gia đình quý tộc miền Nam Ailen. Năm
15 tuổi ông đã học tại Đại học Tổng hợp Đublin. Ông say mê nghiên cứu thần học,
toán học, triết học cho đến cuối đời. Ông có nhiều tác phẩm như Kinh nghiệm của
thuyết thị giác mới (1709), Khái niệm về các nguyên lý của nhận thức con ngư ời
(1710)…
b)
Quan niệm về thế giới
George Berkeley chịu nhiều ảnh hư ởng của các xu hư ớng phê phán các quan niệm
triết học cũ. Ông sử dụng ngay lập trư ờng duy cảm của các nhà duy vật Anh để chống
lại họ và các hệ thống siêu hình học lúc bấy giờ. Đặc biệt ông chống lại các quan niệm
duy vật về vật chất, cho rằng chỉ
có sự vật riêng lẻ
tồn tại (với tính cách là tổ hợp các
cảm giác của con ngư ời), còn tất cả những gì phổ biến, trư ớc hết là thực thể vật chất,
đều bị xem là trừu tư ợng trống rỗng.
George Berkeley khẳ
ng định nguồn gốc hoàn toàn chủ quan của các sự vật trong
thế giới, coi chúng chỉ
là hiện thân của cảm giác con ngư ời. Ông viết: “Tôi hiểu ý niệm
là bất kì sự vật nào đư ợc cảm giác hay tư ởng tư ợng… Sự tồn tại của các sự vật không
khác gì với sự tư ởng tư ợng cảm tính hay tri giác”. Điều đó có nghĩa là tất cả các đặc
tính của sự vật không tồn tại khách quan mà chỉ
tồn tại trong ý thức của con ngư ời. Sự
vật không phải là sự phản ánh khách thể mà nó chính là sự vật thực tế.
Từ quan niệm trên, George Berkeley đi đến một công thức chung: Tồn tại tức là
đư ợc tri giác (esse est percipi). “Khi tôi nói rằng, cái bàn mà tôi đang viết trên nó tồn
tại thì điều đó có nghĩa rằng tôi đang nhìn và tôi đang cảm giác đư ợc nó; và nếu tôi đi
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 15
ra khỏi căn phòng của mình, nếu tôi nói là cái bàn đang tồn tại, thì tôi có hàm ý rằng,
nếu tôi ở trong phòng của mình, thì tôi có thể cảm nhận nó,… Ở đây có mùi có nghĩa là
tôi đang ngửi thấy, ở đây có âm thanh có nghĩa là tôi đang nghe thấy”. Mọi quan niệm
duy vật về tồn tại đều bịGeorge Berkeley phê phán.
Quan niệm trên đư a George Berkeley đến chủ nghĩa duy ngã: ngoài cái tôi ra thì
không có gì hết. Không có chủ thể thì không có khách thể. Ông nói: “Một điều kì lạ là
trong nhiều ngư ời có ý kiến cho rằng, các ngôi nhà, sông núi, tóm lại các sự vật cảm
tính lại có đư ợc sự tồn tại hiện thực mang tính tự nhiên khác với sự tồn tại mà lý tính
đang cảm nhận chúng, tôi cho rằng tất cả sự vật cấu thành vũ trụ không có sự tồn tại
bên ngoài tinh thần”.
Tính chất phi lý hiển nhiên của chủ nghĩa duy ngã đư ợc George Berkeley giải
quyết bằng cách cho rằng, mọi sự vật trong vũ trụ, sở dĩ tồn tại vì chúng đư ợc Thư ợng
đế tri giác. Thực chất, do sự bất lực của lập trư ờng duy tâm chủ quan, George
Berkeley đã phải ngả sang lập trư ờng duy tâm khách quan. Tuy nhiên, về cơ bản ông
vẫn là đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan thời cận đại.
c)
Quan niệm về con ngư ời
Cũng như các nhà duy tâm khác, George Berkeley quan niệm con ngư ời bao gồm
linh hồn và thể xác; linh hồn là cái quyết định. Thể xác thuộc về các vật thể tự nhiên,
tức các cảm giác. Do vậy, thể xác tồn tại đư ợc là nhờ linh hồn cảm nhận nó. Thể xác
phải tuân theo cái gậy chỉ
huy của linh hồn.
Đối với linh hồn con ngư ời, George Berkeley cho rằng, “tồn tại nghĩa là cảm
nhận”. Có nghĩa là linh hồn chỉ
tồn tại khi nó cảm nhận các sự vật khác mà trư ớc hết là
cảm nhận thể xác của con ngư ời.
d)
Về nhận thức luận
Từ chỗ khẳ
ng định nguồn gốc hoàn toàn chủ quan của mọi sự vật trong thế giới,
coi toàn bộ thế giới chỉ
là chỉ
là tổ hợp các cảm giác của con ngư ời, George Berkeley
cho rằng linh hồn là cái quyết định quá trình nhận thức. Linh hồn chỉ
tồn tại khi nó
cảm nhận các sự vật khác, và cũng chỉ
khi nó bắt đầu cảm nhận thì chúng ta mới có
đư ợc tri giác về sự vật.
George Berkeley đề cao cảm giác, đồng nhất toàn bộ các ý niệm của con ngư ời với
các cảm giác. Các khái niệm trừu tư ợng chỉ
là kết quả so sánh và phân tích các cảm
giác. Mặc dù các ý niệm, tức các cảm giác, tồn tại trong linh hồn như ng chúng khác
với linh hồn, bởi vì linh hồn là cơ chất và nền tảng “nuôi dư ỡng” các ý niệm, cảm giác.
Theo George Berkeley, chân lý là sự phù hợp giữa sự suy diễn của con ngư ời về sự
vật với chính bản thân sự vật đó tồn tại trên thực tế. Tuy nhiên, ông phủnhận sự tồn tại
khách quan của chân lý.
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 16
e)
Triết học của David Hume (1711 – 1776)
Sinh tại Scotland. Các tác phẩm: Luận về bản chất con ngư ời (1739 – 1740);
Nghiên cứu nhận thức con ngư ời (1748); Nghiên cứu nguyên lý đạo đức” (1751).
Chủ nghĩa hoài nghi. Trong “Luận về bản chất con ngư ời” Hume chỉ rõ tính chất
thiếu vững chắc của các nguyên lý khoa học và sự thiên kiến của tầng lớp tri thức thời
đại ông. Nguyên nhân là do thiếu một khoa học nghiêm túc về con ngư ời, về năng lực
nhận thức. Hume lý giải nguồn gốc tri thức từ lập trư ờng duy cảm luận như ng lại
hư ớng nó sang chủ nghĩa duy tâm. Ông chia cảm giác ra “những ấn tư ợng”
(impressions) và “những ý niệm”, và xem đó là phát minh nền tảng trong lý luận nhận
thức. Ấ
n tư ợng đi trư ớc ý niệm, ý niệm là bản sao của ấn tư ợng, vì vậy kém nó về tính
rõ ràng và sinh động. Tất cảấn tư ợng đư ợc lư u giữ và tái tạo lại trong trí tuệ thành các
ý niệm nhờ sự trợ giúp của ký ức và tư ở
ng tư ợng. Cuộc sống là dòng chảy của những
ấn tư ợng và những ý niệm.
Tất cả mọi thứ diễn ra theo quy luật nhân quả, tức quy luật phản ánh mối quan hệ
giữa các khách thể: quan hệ kế cận trong không gian và thời gian, quan hệ trư ớc sau
trong thời gian (chuỗi liên hệ thời gian), quan hệ sản sinh. Cái cuối cùng không rõ
ràng, nên bị Hume hoài nghi. Theo Hume sự thống nhất thư ờng thấy (tức thống nhất
theo thói quen) của các ấn tư ợng và các ý niệm, sự chuyển hóa liên tục từ cái này sang
cái khác, gắn với trạng thái xúc cảm đặc biệt, tạo ra một loại ý niệm về mối liên hệ tất
yếu giữa nguyên nhân và hành động, vì vậy tính tất yếu là cái gì đó tồn tại trong trí tuệ,
chứ không phải trong các sự vật. Do chỗ các sự vật khách quan hoàn toàn thụ động
nên chúng đư ợc đư a về mối liên hệ điều chỉnh của các cảm giác và tri giác.
Lý giải các hiện tư ợng và quá trình từmối quan hệấn tư ợng – ý niệm, thói quen,
trạng thái tâm lý, Hume đã phủ nhận vai trò nhận thức khoa học đối với thế giới xung
quanh.
Triết học xã hội. Hume đánh giá quyền tư hữu như lợi ích chân chính, đư ợc thừa
nhận bở
i quy luật của công bằng, song ông lý giải nó từ khía cạnh tâm lý. Cũng như
Hobbes, Hume xem quyền lực nhà nư ớc mạnh, tập trung là công cụ hữu hiệu bảo vệ tư
hữu, như ng khác với Hobbes ông nhìn thấy nguồn gốc hình thành nhà nư ớc ở
sự xâm
lăng và chiếm đoạt, chứ không phải ở
sự liên hiệp tựnguyện các cá nhân. Hume cho
rằng con ngư ời có quyền bày tỏ sự phản kháng một khi nhà nư ớc không còn bênh vực
quyền lợi kinh tế– chính trị của họ và không tuân thủ nghiêm minh các quy luật công
dân.
II.4. Triết học khai sáng và chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp
Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là một giai đoạn phát triển quan trọng trong
tiến trình phát triển tư tư ở
ng triết học Tây Âu và thế giới. Triết học Khai sáng Pháp thế
kỷ XVIII là sự kế tục và phát triển mới về chất các khuynh hư ớng tư tư ở
ng bài trừsiêu
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 17
hình học thế kỉ XVII, cũng như đánh giá lại các giá trị tuyền thống. Nó bắt đầu từ việc
phê phán không thư ơ
ng tiếc các quan niệm cũ về thế giới và con ngư ời.
Là vũ khí lí luận của giai cấp tư sản Pháp trong thời kì chuẩn bị cho cuộc đại cách
mạng tư sản Pháp 1789, đư ợc hình thành bở
i các nhà Khai sáng Pháp, triết học Khai
sáng Pháp có nhiệm vụ thu hút, giác ngộ, tập hợp đông đảo mọi tầng lớp tiến bộ trong
xã hội, hư ớng họ tới cuộc đấu tranh cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng chế
độ tư sản. Chính vì vậy mà triết học Khai sáng Pháp có nội dung cơ
bản là duy vật,
tiến bộ, nó đề cập nhiều đến tiến bộ xã hội, tự do của con ngư ời…
Các nhà triết học duy vật vô thần Pháp thế kỷ XVIII đã góp phần quan trọng vào
sự phát triển triết học duy vật vô thần. Họ đấu tranh kiên quyết chống lại tôn giáo, kêu
gọi đẩy mạnh nghiên cứu giới tự nhiên. Họ cho rằng, không nắm đư ợc các quy luật
của tự nhiên thì con ngư ời không thể có hạnh phúc. Mục đích của khoa học và triết
học là phải nhận thức và chinh phục giới tựnhiên.
Đây là một phong trào sinh họat học thuật, tư tư ở
ng tại Pháp, sau đó lan rộng sang
các nư ớc Đông Âu, tạo nên thời đại ánh sáng.
Tư tư ở
ng khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là ngọn cờ lý luận của Đại cách mạng Pháp
năm 1789.
II.4.1 Tư tư ởng duy vật tự nhiên của
Charler Luis Secondat
Montesquieu (1689 – 1755)
Montesquieu sinh ra trong một gia đình quan chức nghị viện tiến bộ. Bản thân ông
từng giữ chức Chủ tịch Nghị viện Thành phố Bordeaux. Montesquieu say mê nghiên
cứu văn học cổ, luật học, vật lý học và triết học. Ông là một trong những ngư ời sáng
lập ra nền triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Tinh thần luật pháp là tác phẩm triết
học chủ yếu của ông bàn về các vấn đề xã hội, nó chứa đựng tinh thần quyết định luận
địa lý.
Montesquieu cho rằng, không chỉ các hiện tư ợng tự nhiên mà cả các hiện tư ợng xã
hội đều tuân theo các quy luật xác định. Quy luật nằm trong bản chất của hiện tư ợng.
Như ng nếu các hiện tư ợng tự nhiên chỉ do các quy luật tự nhiên chi phối, thì các hiện
tư ợng xã hội (lịch sử nhân loại) bị chi phối cùng lúc bở
i hai loại quy luật – các quy luật
tự nhiên và các quy luật xã hội.
Các quy luật tự nhiên tác động đến những cái sinh học trong con ngư ời như ăn,
uống, sinh, đẻ
…, chúng thể hiện rất rõ trong thời kỳ tiền xã hội của loài ngư ời. Các
quy luật xã hội tác động đến những cái xã hội như lao động, nhân cách…, chúng thể
hiện càng rõ khi xã hội loài ngư ời càng phát triển.
Khi xã hội loài ngư ời càng phát triển, thì các cuộc chiến tranh, xung đột giữa con
ngư ời càng quyết liệt hơ
n, quan hệ xã hội càng phức tạp hơ
n. Tình thế này đòi hỏi luật
pháp và nhà nư ớc phải xuất hiện để khắc phục các cuộc chiến tranh, điều chỉnh các
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 18
quan hệ xã hội giữa các con ngư ời và các quốc gia nhằm mục đích sử dụng hiệu quả
các thành tựu khoa học vào sự phát triển xã hội.
Khi xuất phát từ lập trư ờng duy vật tự nhiên để lý giải các hiện tư ợng xã hội,
Montesquieu cho rằng, điều kiện địa lý là yếu tố quyết định không chỉ đối với nền sản
xuất vật chất, đời sống kinh tế mà nó còn chi phối mọi mặt đời sống nhân loại như dân
tộc, chủng tộc, lối sống, văn hóa, pháp luật, thể chế chính trị… Đối với ông, uy quyền
của khí hậu là uy quyền của mọi uy quyền. Như vậy, từ chỗ cho rằng các quy luật tự
nhiên chi phối các hiện tư ợng xã hội, Montesquieu đã đi đến quyết định luận địa lý –
kinh tế; và từ quyết định luận địa lý – kinh tế, ông tiến đến quyết định luận địa lý –
chính trị. Quyết định luận địa lý – chính trị là chỗ dựa cho chủ nghĩa thực dân châu Âu
sau này.
Mặc dù bị chi phối bở
i quyết định luận địa lý như ng Montesquieu luôn chủ trư ơ
ng
một thế giới hòa bình, công lý; một xã hội không quá bất công, bất bình đẳng. Bở
i vì
theo ông, một xã hội hoàn toàn bình đẳng sẽ thủ tiêu động lực cạnh tranh trong quá
trình phát triển của mình.
Như vậy, bằng phư ơ
ng pháp duy cảm và cách xem xét cụ thể (hoàn cảnh địa lý)
của mình, Montesquieu đã khắc phục trong một chừng mực nhất dịnh các quan niệm
duy lý, tư duy tư biện giáo điều khi phân tích các hiện tư ợng xã hội.
II.4.2 Tư tư ởng duy vật về lịch sử nhân loại của Jean – Jacque Rousseau
(1712 – 1778)
Trong sốcác nhà Khai sáng Pháp J.J. Rousseau (1712-1778) là nhân vật cấp tiến
nhất. Tư tư ở
ng Rousseau chia làm hai thời kỳ: thời kỳ đầu (từ những năm 40 đến năm
1762) chủ nghĩa bi quan lịch sử đan xen với ý chí đấu tranh vì tự do và bình đẳng xã
hội.
Chủ nghĩa bi quan thể hiện rõ nhất trong sự đối lập tiến bộ kỹ thuật, trình độ văn
minh, với nguy cơ
suy thoái đạo đức, sự thống trị của tính vị kỷ và trạng thái vô chính
phủ. Thời kỳ tiếp theo đư ợc đánh dấu bằng tác phẩm bất hủ “Bàn về khế ư ớc xã hội”
(Du contrat social). Nó là điển hình của khuynh hư ớng cộng hòa cấp tiến và dân chủ
trong sinh hoạt tinh thần tại Pháp ở
đêm trư ớc của cách mạng, mặc dù về hình thức
Rousseau không tán thành dân chủ do những khuyết tật mà nó mắc phải trong lịch sử
(13). Tác phẩm mở
đầu bằng câu “Ngư ời ta sinh ra tự do, như ng rồi đâu đâu con ngư ời
cũng sống trong xiềng xích”. Nội dung các chư ơ
ng tiếp theo trình bày những đư ờng
nét cơ
bản của “Khế ư ớc xã hội”, đư a con ngư ời từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái
công dân, quyền tự nhiên sang quyền đư ợc hợp pháp hóa, tự do tự nhiên sang tự do
công dân, đảm bảo sự thống nhất lợi ích cá nhân và lợi ích toàn xã hội. Đấng chủ tế
hay quyền lực tối cao, chính là nhân dân và thuộc về nhân dân. Nhân dân tự quyết định
số phận số phận mình bằng “ý chí chung”, thông qua những đại diện ư u tú và hợp
pháp.
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 19
Jean Jacques Rousseau (1712-1778) sinh ra trong một gia đình thợ thủ công làm
đồng hồở
Giơ
nevơ
, Thụy sĩ. Do mẹ mất sớm, cha ít quan tâm nên ông phải phiêu bạt
qua các nư ớc Ý, Pháp, và làm nhiều nghề khác nhau để tự kiếm sống. Ông rất quan tâm
đến triết học và nghệ thuật, từng cộng tác với Diderot biên soạn bộBách khoa toàn
thư … Các tác phẩm nổi tiếng của ông là: Luận về nguồn gốc, cơ sở của sự bất bình
đẳ
ng; Bàn về khế ư ớc xã hội. Là nhà tư tư ở
ng kiệt xuất của triết học Khai sáng Pháp và
cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789, Rousseau có nhiều quan điểm biện chứng về quá
trình phát triển của xã hội.
Mặc dù xuất phát từ thế giới quan tự nhiên thần luận như bao nhà triết học khai sáng
khác, như ng Rousseau không coi lịch sử nhân loại là sản phẩm do Thư ợng đế xếp đặt
trư ớc, mà là kết quả hoạt động của chính bản thân con ngư ời. Lịch sử nhân loại là quá
trình không ngừng hình thành và giải quyết các mâu thuẫn, và là một chuỗi các hành
động phủ định biện chứng của các trạng thái xã hội kế tiếp nhau. Như ng đó cũng là một
quá trình đầy nghịch lý, bở
i vì bản chất của con ngư ời là tự do, mà quá trình phát triển
của lịch sử nhân loại từ trư ớc tới giờ lại luôn kìm hảm khát vọng tự do đó của con
ngư ời.
Là nhà khai sáng nên Rousseau cho rằng, quá trình phát triển của lịch sử nhân loại
phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của khoa học và nghệ thuật. Nhiều dân tộc trên thế
giới sở
dĩ còn sống trong cảnh nghèo hèn, lạc hậu là do chính trị và trí tuệ chư a liên
minh đư ợc với nhau. Xã hội sẽ phát triển nhanh khi thể chế chính trị- xã hội không kìm
hảm mà là tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của khoa học và nghệ thuật. Tuy nhiên, để
có đư ợc điều này cần phải thay đổi nền chính trị và cơ
chế quản lý xã hội hiện hành.
Rousseau nhận thấy tình trạng các thể chế chính trị và bộ máy quản lý xã hội kìm
hảm khát vọng tự do của con ngư ời có nguyên nhân nằm trong sự bất công, bất bình
đẳng, mất dân chủ trong đời sống xã hội, trong sự xung đột chính trị, pháp luật của con
ngư ời. Và sau cùng cội nguồn dẫn đến mọi tình trạng như thế trong đời sống xã hội, và
cũng là cơ sở để xóa bỏ chúng là sự ra đời và phát triển của trí tuệ, kinh tế và các hình
thức sở hữu tư nhân. Sau khi phát hiện ra “nguyên nhân của mọi nguyên nhân” trong
quá trình phát triển của đời sống xã hội, Rousseau xây dựng quan điểm của mình về tiến
trình phát triển xã hội trải qua ba trạng thái.
Trạng thái tự nhiên là trạng thái đầu tiên và lâu dài nhất trong lịch sử nhân loại. Đó
là giai đoạn bình yên, hạnh phúc nhất của con ngư ời; vì khi ấy, con ngư ời đư ợc sinh ra
và tồn tại, ai cũng như ai; các quan hệ xã hội thuần khiết; sự khác nhau về kinh tế, xã hội
chư a xuất hiện. Tuy nhiên, trạng thái tự nhiên không thể tồn tại mãi đư ợc. Đến lúc trí
tuệ, kinh tế và các hình thức sở
hữu tư nhân ra đời và phát triển, thì trạng thái tự nhiên
của xã hội bị phá vỡ, trạng thái công dân đư ợc hình thành để thay thế.
Trạng thái công dân trực tiếp ra đời từ nền tảng sở hữu tư nhân. Việc hình thành và
củng cố hình thức sở
hữu tư nhân sinh ra sự khác nhau trong thu nhập, đư a đến sự hình
thành ngư ời giàu kẻ
nghèo và nảy sinh ra các đạo luật xã hội. Điều này đã tạo ra xiềng
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 20
xích trói buộc kẻ
nghèo yếu, tăng cư ờng sinh lực cho kẻ
giàu mạnh; hủy hoại một cách
không thư ơ
ng tiếc bản tính tự do tự nhiên của con ngư ời; thiết lập các đạo luật xã hội và
tạo nên sự áp bức, bất công, bất bình đẳng, mất tự do, không dân chủ trong đời sống xã
hội. Quan hệ giữa con ngư ời không còn thuần khiết nữa, xã hội bị tha hóa. Chiến tranh,
tệ nạn xã hội xuất hiện và nhanh chóng lan tỏa khắp mọi nơ
i. Chúng làm hủy hoại bản
tính tự do tự nhiên của con ngư ời. Tuy nhiên, bản tính cộng đồng tự nhiên vẫn còn tồn
tại, và là cơ
sở
hình thành các khế ư ớc xã hội. Lúc đầu, khế ư ớc xã hội giúp ngăn chận
trong một chừng mực nào đó tính ích kỷ cá nhân, đảm bảo một mức độ nào đó quyền lợi
tự nhiên của con ngư ời; và sau đó nó trở
thành cơ
sở
để hình thành pháp luật và nhà
nư ớc. Trong nhà nư ớc, có thể con ngư ời không bình đẳng về trí tuệ và thể lực, như ng họ
bình đẳng về pháp luật và đạo đức.
Tuy nhiên, theo Rousseau, do xã hội công dân đầy rẫy bất công, bất bình đẳng về
kinh tế và đầy tệ nạn xã hội mà nhà nư ớc không thực hiện đư ợc nhiệm vụ cao cả của
mình là đảm bảo quyền lợi tự nhiên cho nhân dân. Vì vậy, nhà nư ớc bị tha hóa, rồi trở
thành công cụ đàn áp nhân dân; còn cơ
sở
của nó – khế ư ớc xã hội trở
thành công cụ
hợp pháp hóa sở
hữu tư nhân và bất công xã hội.
Như vậy, theo Rousseau, sở
hữu tư nhân vừa mang lại văn minh cho con ngư ời, vừa
đem lại cho họ nỗi bất hạnh làm hủy hoại chính mình. Lịch sử vừa mang lại tiến bộ cho
cá nhân như ng cũng mang lại thoái bộ cho xã hội. Để xã hội tiến bộ cần phải xóa bỏ xã
hội công dân bằng công cuộc cách mạng, đư a xã hội quay về trạng thái tự nhiên ở
trình
độ cao.
Trạng thái tự nhiên ở trình độ cao là xã hội lý tư ở
ng của Rousseau; trong đó, mọi sự
áp bức, bất công, bất bình đẳng, mất tự do, không dân chủ trong đời sống xã hội đều
đư ợc khắc phục; kỷ cư ơ
ng xã hội đư ợc lập lại; tư Ï do, công bằng, bác ái đư ợc khôi phục.
Nhà nư ớc nhân dân và khế ư ớc xã hội đư ợc thực hành đầy đủ trong chế độ dân chủ cộng
hòa với chính quyền lập pháp thuộc về nhân dân và phục vụ toàn dân. Mặc dù trong xã
hội lý tư ở
ng này vẫn còn sở
hữu tư nhân, như ng do cơ
chế kết hợp hợp lý giữa công lý
và lý tính mà bất công, bất bình đẳng nảy sinh từ nó chỉ dừng lại ở
mức thấp. Do bất
công, bất bình đẳng rất thấp mà sự đối kháng giai cấp không xuất hiện. Tình hình như
thế chỉ tạo điều kiện lành mạnh để cạnh tranh phát triển xã hội. Bên cạnh sở
hữu tư
nhân, thì các điều kiện tự nhiên như địa lý có vai trò to lớn trong sự phát triển xã hội.
Theo ông, các nư ớc ở
vùng khí hậu nóng cần phải thực hành nền chính trị chuyên chế để
cư ỡng bức nhân dân thực hiện mệânh lệnh của nhà nư ớc; còn ở
vùng khí hậu ôn hòa thì
nền chính trị phải hoàn toàn dựa trên khế ư ớc xã hội.
Lý luận về xã hội của Rousseau là ngọn cờ lý luận của cuộc cách mạng tư sản Pháp
xảy ra năm 1789.
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 21
II.4.3 Tư tư ởng duy vật chiến đấu của Denis Diderot (1713 – 1784)
Tư tư ởng triết học của Diderot
Diderot sinh tại một thành phốở
Đông Bắc nư ớc Pháp, trong một gia đình thợ thủ
công. Sau nhiều năm học ở
Pari, do chịu ảnh hư ở
ng tư tư ở
ng của các nhà khai sáng,
ông từ bỏ ý định thành nhà hoạt động tôn giáo, như mong muốn của ngư ời cha. Ông là
ngư ời khở
i xư ớng và chủ biên bộ Bách khoa toàn thư của khoa học, nghệ thuật và thủ
công nghiệp (1751-1780). Đây là một trong những bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của
thế giới – một trong những di sản văn hoá vĩ đại không chỉ của nư ớc Pháp mà cả Tây
Âu thế kỉ XVIII nói chung. Nó có vai trò rất to lớn trong việc xây dựng và truyền bá
thế giới quan khai sáng. Ông có nhiều tác phẩm như Tư tư ở
ng triết học (1746), Cuộc
dạo chơ
i của nhà hoài nghi luận hay là Alleax (1747), là tác giả nhiều tác phẩm văn
học mang đầy tính triết lý như Nữ tu sĩ, Ngư ời cháu của ông Ramô…
a)
Quan niệm về thế giới
Diderot khẳng định tính vật chất của thế giới đồng thời phê phán mạnh mẽ những
điểm không triệt để của chủ nghĩa duy vật Anh, mỉa mai quan niệm duy tâm chủ quan
của George Berkeley vì ông này đã quy toàn bộ thế giới thành các cảm giác của một
chủ thể. Diderot ví chủ thể của George Berkeley như một chiếc đàn pianô ngộ nhận
rằng nó là nhạc cụ duy nhất trên thế gian, và mọi sự hài hoà của vũ trụ đều diễn ra
trong đó. Theo ông, trong vũ trụ chỉ có một thực thể, cả trong con ngư ời lẫn động vật
và các sự vật khác, đó là vật chất.
Diderot đã có bư ớc tiến mới trong quan niệm về vận động, thừa nhận sự phát triển
của thế giới. Ông cho rằng, bản tính cố hữu của vật chất là vận động. Chính vận động
là năng lực sống động của vật chất. Ông quan niệm sự dịch chuyển của vật thể từ vị trí
này sang vị trí khác không phải là vận động mà chỉ là sự di động, còn vận động thì có
cảở
vật đang vận động lẫn vật đứng yên. Ông khẳng định, trong quá trình vận động và
phát triển, giới tự nhiên sẽ chọn lọc mhững gì giúp cho nó ngày càng hoàn thiện, đồng
thời đào thải những vật nào không thích nghi hoặc không tuân theo quy luật của nó.
Cấu trúc và trạng thái của các sinh vật là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới
tự nhiên. Với quan niệm này, ông là bậc tiền bối của thuyết tiến hoá của Darwin.
b)
Quan niệm về con ngư ời
Diderot cho rằng con ngư ời đư ợc cấu thành từ thể xác và linh hồn. Thể xác và linh
hồn thống nhất hữu cơ
với nhau. Linh hồn không có nguồn gốc từ chúa mà là một tổng
thể các hiện tư ợng tâm lý. Bản thân nó cũng là đặc tính của vật chất. Ông viết: “Không
có cơ
thể con ngư ời thì nó (tức linh hồn) không là cái gì cả. Tôi khẳng định rằng,
không có cơ
thể con ngư ời thì không thể giải thích đư ợc cái gì cả”. Ông nhấn mạnh, cơ
thể con ngư ời là khí quan vật chất của tư duy, ý thức cũng như mọi quá trình tâm lý
của anh ta. Ông đã nhận thấy, nhân cách con ngư ời là sản phẩm của hoàn cảnh môi
trư ờng xung quanh như ng chư a hiểu đư ợc rằng, bản thân môi trư ờng và hoàn cảnh đó
Báo cáo Tiểu luận Triết học
GVHD: TS. Bùi Văn Mư a
Thực hiện: Tống Thị Hư ơ ng
Trang 22
cũng là sản phẩm của hoạt động con ngư ời, và vì vậy, cả con ngư ời lẫn hoàn cảnh
sống của nó đều mang tính lịch sử. Đây cũng là hạn chế chung của các triết học trư ớc
Mác.
c)
Về lý luận nhận thức
Cũng như các nhà duy vật khác, Diderot thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, tính
thứ hai của ý thức. Ông cho rằng quá trình chuyển biến từ vô tri vô giác tới khả năng
cảm giác, tư duy gắn liền với quá trình phát triển của cấu trúc vật chất từ vô cơ
, hữu cơ
đến sự sống và cơ
thể con ngư ời. Tuy nhiên, cũng như các nhà duy vật trư ớc Mác, ông
chư a thấy đư ợc rằng, ý thức không chỉ là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao là bộ
óc ngư ời, mà còn là sản phẩm của sự phát triển xã hội.
Đề cao vai trò đặc biệt của quá trình nhận thức đối với sự phát triển của xã hội,
Diderot đư a ra tư tư ở
ng biện chứng khẳng định tính vô cùng tận trong sự phát triển của
giơ
í tự nhiên, cũng như quá trình nhận thức của con ngư ời. Tuy khả năng nhận thức
của mỗi cá nhân là hữu hạn, như ng đối với nhân loại về nguyên tắc có thể nhận thức
đư ợc toàn bộ thế giới, mặc dù quá trình đó cũng là vô tận.
d)
Quan niệm về xã hội – tôn giáo
Là nhà triết học duy vật triệt để và vô thần nhất của triết học Khai sáng Pháp thế
kỷ XVIII, Diderot phủ nhận sự tồn tại của Thư ợng đế, coi Thư ợng đế chỉ là sự thần
thánh hoá các điều kiện sống hiện thực của con ngư ời. Không phải tôn giáo sáng tạo ra
con ngư ời mà là con ngư ời sáng tạo ra tôn giáo.
Ông viết: “Nếu như lý tính là của trời cho và tín ngư ỡng cũng tư ơ
ng tự như vậy,
nghĩa là trời cho chúng ta hai vật không thể dung hợp đư ợc với nhau… Để loại trừ bế
tắc đó, cần phải thừa nhận rằng tín ngư ỡng là một nguyên lý huyền thoại, không
tư ở
ng”. Ông chỉ ra sự khác biệt giữa khoa học và tôn giáo: Khoa học thì hư ớng tới vũ
trang cho chúng ta quan niệm đúng về thế giới, làm cho con ngư ời lớn mạnh thêm lên,
còn tôn giáo thì chỉ đem lại những điều ảo tư ở
ng, làm cho con ngư ời mềm yếu đi.
“Thư ợng đế của những ngư ời Cơ
đốc giáo – đó là ngư ời bố chỉ coi trọng những đám
mây, chứ chẳng để tâm gì đến những đứa con của mình” trên trần gian cả.
Diderot kịch liệt phê phán những quan niệm đạo đức của tôn giáo, coi đó chỉ là trò
giáo dục con ngư ời tới chỗ cả tin vào số mệnh. Thực chất, tôn giáo chỉ là sợi dây
cư ơ
ng yếu ớt ngăn chặn các hành vi phạm tội của con ngư ời. Khẳng định chính môi
trư ờng và hoàn cảnh tạo nên bộ mặt trí tuệ và đạo đức của con ngư ời, Diderot kêu gọi
xoá bỏ các quan hệ phong kiến của nư ớc Pháp, cái đã thông qua tôn giáo làm hư hỏng
con ngư ời, đồng thời kêu gọi xây dựng một cuộc sống hiện thực chứ đừng tin vào tôn
giáo.
Tuy nhiên Diderot chư a nhận thấy cơ
sở
kinh tế- xã hội của sự tồn tại tôn giáo.
Ông mới chỉ thấy đư ợc nguồn gốc nhận thức của nó là từ sự kém hiểu biết và từ tâm lý
sợ chết của con ngư ời. Vì vậy, ông đã sai lầm khi cho rằng, để xoá bỏ tôn giáo chỉ cần