BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC
XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM ĐỂ THU HỒI NỢ TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO THUÊ TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC
XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM ĐỂ THU HỒI NỢ TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO THUÊ TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Dương Kim Thế Nguyên
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Thị Bích Ngọc – là học viên lớp Cao học Khóa 26
chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Xử lý tài sản bảo
đảm để thu hồi nợ trong hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam” (Sau đây
gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn
này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của
người hướng dẫn khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý
kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích
dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được
sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện
NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TỪ KHÓA
TÓM TẮT LUẬN VĂN
LỜI NÓI ĐẦU ……………………………………………………………………………………..
1
1. Lý do chọn đề tài
………………………………………………………………………………..
1
2. Câu hỏi nghiên cứu …………………………………………………………………………….
3
3. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
……………………………………………………….
4
4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ………………………………………….
7
5. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
…………………………………………………
8
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
……………………………………..
9
7. Bố cục của luận văn ………………………………………………………………………….
10
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM ĐỂ THU
HỒI NỢ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH ………………..
11
1.1. Cơ sở lý luận về cho thuê tài chính và nợ phát sinh trong
hoạt động cho thuê tài chính ……………………………………………
11
1.1.1. Khái quát về cho thuê tài chính và sự phát triển của các
công ty cho thuê tài chính ………………………………………………
11
1.1.2. Khái niệm và phân loại nợ tại các công ty cho thuê tài
chính
……………………………………………………………………………
14
1.1.3. Khái quát về các biện pháp thu hồi nợ trong công ty cho
thuê tài chính
………………………………………………………………..
20
1.1.3.1. Bán nợ xấu cho VAMC, DATC hoặc cho các tổ
chức khác
……………………………………………………………….
20
1.1.3.2. Thu hồi và xử lý tài sản cho thuê tài chính ……..
24
1.1.3.3. Xử lý tài sản bảo đảm
…………………………………..
28
1.1.3.4. Các biện pháp khác ……………………………………..
30
1.2. Các quy định của pháp luật về thu hồi nợ bằng xử lý tài
sản bảo đảm ……………………………………………………………………
32
1.2.1. Các điều kiện để xử lý tài sản bảo đảm …………………..
32
1.2.2. Thủ tục, quy trình xử lý tài sản bảo đảm …………………
34
1.2.3. Hậu quả pháp lý khi xử lý tài sản bảo đảm
………………
36
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
…………………………………………………………………….
39
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀO XỬ LÝ TÀI
SẢN BẢO ĐẢM ĐỂ THU HỒI NỢ TẠI CÁC CÔNG TY CHO THUÊ
TÀI CHÍNH VÀ KIẾN NGHỊ …………………………………………………………….
40
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm để
thu hồi nợ tại các công ty cho thuê tài chính …………………….
40
2.1.1. Về điều kiện xử lý tài sản bảo đảm tại các công ty cho
thuê tài chính
………………………………………………………………..
40
2.1.2. Về thủ tục xử lý tài sản bảo đảm áp dụng tại các công ty
cho thuê tài chính ………………………………………………………….
41
2.1.3. Về giải quyết tranh chấp liên quan đến xử lý tài sản bảo
đảm tại các công ty cho thuê tài chính
……………………………..
46
2.1.3.1. Giải quyết tranh chấp tại Toà án …………………..
46
2.1.3.2. Trong công tác thi hành án …………………………..
48
2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài
sản bảo đảm và nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm để
thu hồi nợ xấu tại các công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam
……………………………………………………………………………………….
54
2.2.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tài sản
bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm trong hệ thống các tổ chức
tín dụng ……………………………………………………………………….
54
2.2.1.1 Về điều kiện xử lý tài sản bảo đảm tại các tổ chức
tín dụng
………………………………………………………………….
54
2.2.1.2. Về thủ tục xử lý tài sản bảo đảm tại các tổ chức
tín dụng
………………………………………………………………….
55
2.2.1.3. Về giải quyết tranh chấp liên quan đến xử lý tài
sản bảo đảm tại các tổ chức tín dụng
…………………………
58
2.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ xấu tại các công ty cho
thuê tài chính ở Việt Nam ………………………………………………
59
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
…………………………………………………………………….
62
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………..
63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật Dân sự
VAMC
Công ty TNHH một thành viên Quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng
DATC
Công ty TNHH mua bán nợ Việt Nam
TỪ KHÓA
Cho thuê tài chính, Nợ xấu, Tài sản bảo đảm, Xử lý tài sản bảo đảm
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Hoạt động cho thuê tài chính có ý nghĩa vô cùng to lớn và thiết thực đối với
nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay. Với tính chất và đặc thù của hoạt
động cho thuê tài chính, các vấn đề xoay quanh nợ xấu và hoạt động thu hồi
nợ phát sinh trong hoạt động cho thuê tài chính vẫn chưa được quan tâm một
cách đúng mức và chưa có một khung pháp lý riêng trong quản trị và thu hồi
nợ trong hoạt động cho thuê tài chính. Do đó, ngoài biện pháp bán nợ xấu cho
VAMC, DATC hoặc các doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện về kinh doanh
dịch vụ mua bán nợ theo quy định của pháp luật khác, thu hồi và xử lý tài sản
cho thuê tài chính, sử dụng trích lập dự phòng hay tái cơ cấu doanh nghiệp, xử
lý tài sản bảo đảm vẫn được chú trọng và là biện pháp thu hồi nợ có hiệu quả
nhất. Khung pháp lý về tài sản bảo đảm như đăng ký giao dịch bảo đảm, xử lý
tài sản bảo đảm để thu hồi nợ dần nhận được sự quan tâm một cách đúng mức
và đang trong tiến trình được hoàn thiện dần. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực
hiện các quy định của pháp luật vẫn còn gặp nhiều khó khăn và chưa đảm bảo
tính khả thi, chính vì vậy, chất lượng thu hồi nợ bằng xử lý tài sản bảo đảm
vẫn còn thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu cũng như kỳ vọng nhà các nhà
làm luật đã đặt ra khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở
các nghiên cứu về lý luận và thực tiễn trong xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi
nợ trong hoạt động cho thuê tài chính, Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm và nâng cao
chất lượng, hiệu quả thu hồi nợ trong các tổ chức tín dụng nói chung và trong
công ty cho thuê tài chính nói riêng.
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo Tổng Cục Thống kê Việt Nam, xét theo quy mô lao động, tại thời
điểm 01/01/2017 cả nước có hơn 10 nghìn doanh nghiệp lớn, tăng 29% so với
năm 2012 và chiếm 1,9% tổng số doanh nghiệp, giảm so với 2,3% của năm
2012. Doanh nghiệp vừa tăng 23,6%, doanh nghiệp nhỏ tăng 21,2% và doanh
nghiệp siêu nhỏ tăng tới 65,5% và chiếm 74% tổng số doanh nghiệp. Đáng
chú ý là tỷ trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng tới 6 điểm phần trăm so
với năm 2012 trong khi tỷ trọng lao động giảm 0,8 điểm phần trăm cho thấy
quy mô doanh nghiệp đang nhỏ dần1.
Tuy nhiên, một vấn đề nan giải muôn thuở đặt ra cho các doanh nghiệp
trước tình hình cạnh tranh hiện nay vẫn là câu hỏi về vốn, nhất là đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguồn vốn chỉ đủ để xoay sở cho các hoạt động
chính của doanh nghiệp, hoặc các doanh nghiệp vừa mới thành lập chưa có đủ
sức cạnh tranh cũng như chưa tạo lập được vị trí trong thị trường, uy tín và các
mối quan hệ với đối tác làm ăn và khách hàng chưa đủ vững chắc để thu hút
vốn đầu tư từ bên ngoài. Nguồn vốn đầu tư dài hạn cho các dự án của những
doanh nghiệp này ở Việt Nam vẫn còn khá nhiều hạn chế và hầu như đều xuất
phát từ nguồn vốn vay ở các ngân hàng thương mại. Đứng trước tình hình tài
chính như vậy, đi thuê tài chính ra đời như một giải pháp tối ưu và là kênh tín
dụng hữu hiệu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ này.
Tuy nhiên, sau một giai đoạn phát triển ồ ạt trong thời gian ngắn, hầu
hết các công ty cho thuê tài chính bắt đầu bộc lộ yếu kém, bất cập trong phòng
ngừa và quản lý nợ xấu, đặc biệt có thời kỳ tỷ lệ nợ xấu tăng cao đột biến,
1 Tổng Cục Thống kê. Thông cáo báo chí về kết quả sơ bộ Tổng Điều tra Kinh tế năm 2017
04 năm 2018]
2
vượt xa so với tiêu chuẩn an toàn. Tiêu biểu vào thời điểm tháng 9/2012, tỷ lệ
nợ xấu của Việt Nam được báo cáo là 464.000 tỷ đồng, chiếm đến hơn 15%
tổng dư nợ của cả nền kinh tế, vượt xa ngưỡng an toàn mà Ngân hàng Thế giới
(World Bank) đặt ra, đứng đầu danh sách các tổ chức tín dụng về tỷ lệ nợ xấu,
lên đến 40-50% tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống, song các công ty cho thuê tài chính
lại bế tắc trong việc xử lý nợ xấu… Trong lịch sử phát triển tín dụng, không ít
các công ty cho thuê tài chính có vốn đầu tư nước ngoài như Công ty cho thuê
tài chính ANZ/V-TRAC, Công ty cho thuê tài chính KEXIM,… đã gần chỉ
hoạt động trong trạng thái cầm chừng. Nhiều công ty cho thuê tài chính trong
nước khác cũng rơi vào tình trạng thua lỗ hoặc nợ xấu cao, như Công ty Cho
thuê tài chính Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam,
Công ty TNHH MTV Cho thuê tài chính Công nghiệp Tàu thủy, Công ty Cho
thuê tài chính TNHH MTV – Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam…2 Đặc biệt đáng chú ý là trường hợp của Công ty Cho thuê tài chính II –
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam kinh doanh lỗ
3.000 tỉ đồng (gấp 8,5 lần vốn điều lệ) và có thể chịu một số lỗ tiềm ẩn do
khoản đầu tư tài sản cho thuê lên đến gần 4.600 tỉ đồng bị quá hạn, phải gia
hạn nhiều lần, trong đó Kiểm toán Nhà nước tạm nêu ra số lỗ tiểm ẩn khoảng
1.266 tỉ đồng3… Những tổn thất này gây nên rất nhiều biến động cho nền kinh
tế Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn 2008-2012, đồng thời ngăn cản hoạt
động cho thuê tài chính phát huy mục tiêu, giá trị thực sự của nó là hỗ trợ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm phần lớn thị phần trong nền kinh tế Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước đã thành lập Công ty Quản lý tài sản (Vietnam
Asset Management Company – VAMC) nhằm mua lại những khoản nợ xấu
2 Hoàng Vũ, 2014. Nợ xấu tại Việt Nam đã từng trốn như thế nào?
tháng 07 năm 2018].
3 Nguyễn Văn Hải, “Xử lý nợ xấu tại công ty cho thuê tài chính TNHH MTV Ngân hàng thương mại
cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam” (Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh,
2014)
3
này. Tuy nhiên, không phải tổ chức tín dụng nào nói chung và công ty cho
thuê tài chính nói riêng cũng được VAMC mua lại các khoản nợ xấu. Những
tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài hiện nay như ngân hàng HSBC,
Standard Charter,… hay các công ty cho thuê tài chính như KEXIM,
Chailease,… vẫn chưa thể bán nợ xấu cho VAMC. Hơn nữa, không giống như
ngân hàng với nhiều nghiệp vụ khác nhau và có thể linh động huy động vốn từ
nguồn tiền gửi của khách hàng, công ty cho thuê tài chính, với hoạt động
chính là cho thuê tài chính, một loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn, phải
chật vật xoay sở với khủng hoảng nợ xấu trong nhiều năm. Đây là lý do người
viết chọn đề tài “Xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ trong hoạt động cho
thuê tài chính tại Việt Nam” cho Luận văn Thạc sĩ của mình như là một
đóng góp và củng cố cho hoạt động thu hồi nợ tại đơn vị mình đang công tác
và đề xuất một vài giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và
nâng cao hiệu quả thu hồi nợ trong thời gian tới.
2. Câu hỏi nghiên cứu
Mặc dù pháp luật hiện hành có những quy định về xử lý khoản nợ bằng
việc thu hồi và xử lý tài sản cho thuê tài chính cũng như xử lý tài sản bảo đảm.
Tuy nhiên, việc thu hồi và xử lý tài sản cho thuê tài chính vốn không dễ dàng
bởi lẽ thực chất việc sử dụng và vận hành tài sản thuê tài chính (chủ yếu là
máy móc, thiết bị…) đều do bên thuê thực hiện, chưa kể đến tính khấu hao của
tài sản cũng như hành vi tẩu tán tài sản thuê tài chính của bên thuê tài chính.
Chính vì vậy, xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng trở thành phương thức chủ
yếu khi thu hồi nợ. Pháp luật hiện hành đã có những quy định riêng về đăng
ký biện pháp bảo đảm, tuy nhiên, việc xử lý tài sản bảo đảm về mặt thực tế
không hề suôn sẻ và thuận lợi, đảm bảo thu hồi nợ cho công ty cho thuê tài
chính. Thực tế hàng loạt những tranh chấp, những vụ kiện đòi nợ thuê tài
chính giữa các công ty cho thuê tài chính với các doanh nghiệp đi thuê tài
chính đã kéo cả chục năm mà vẫn chưa được giải quyết triệt để và ngày càng
bế tắc, thậm chí tài sản bảo đảm không còn để thi hành án hoặc không còn
4
nhiều giá trị do tính khấu hao của tài sản trong khoảng thời gian tranh chấp
quá dài. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu nghiên cứu, người viết đã tập
trung giải quyết các câu hỏi sau:
– Tài sản bảo đảm (phổ biến nhất trong các hợp đồng tín dụng là cầm cố
và thế chấp tài sản) được quy định là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ thanh
toán, trả nợ của doanh nghiệp đi thuê tài chính đối với công ty cho thuê tài
chính. Quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp doanh nghiệp đi
thuê tài chính không thể trả nợ quá hạn cho thuê tài chính đã cụ thể và đảm
bảo thi hành chưa?
– Thực tế quy trình xử lý tài sản bảo đảm như bán, bán đấu giá tài sản
bảo đảm hoặc nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế nghĩa vụ trả nợ có đạt
hiệu quả không? Việc xử lý tài sản bảo đảm là động sản như máy móc, thiết
bị, phương tiện cơ giới… có nhanh chóng và khả thi hơn việc xử lý tài sản bảo
đảm là bất động sản như quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất là nhà cửa,
cơ sở sản xuất…hay không?
– Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm
xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã có những quy định nhằm ưu tiên tháo
gỡ vướng mắc, khó khăn khi xử lý nợ xấu cho các tổ chức tín dụng, đặc biệt là
những quy định về xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, đối với những tài sản bảo
đảm là dự án bất động sản, đặc biệt là bất động sản nằm trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, việc xử lý các tài sản bảo đảm này
liệu có đảm bảo tính khả thi? Việc phối hợp với các cơ quan chức năng có
thẩm quyền trong xử lý tài sản đã chặt chẽ và thực sự đạt hiệu quả chưa?
3. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Các vấn đề xoay quanh nợ xấu và phương án hạn chế, phòng ngừa rủi
ro tín dụng cũng như xử lý nợ xấu không còn xa lạ, thậm chí đến thời điểm
hiện tại, xử lý nợ vẫn luôn là đề tài nóng bỏng nhất đối với nền kinh tế Việt
Nam và xử lý nợ xấu vẫn luôn là thách thức mang tính cấp bách trong các
5
chính sách của các cơ quan quản lý. Nhiều nghiên cứu về vấn đề này liên tục
ra đời, như bài viết “Một số giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng
thương mại tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hoài Phương, đăng trên Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật tháng 9/20164, bài viết “Hoàn thiện các quy định về
quản lý và xử lý tài sản thế chấp” năm 2015 của tác giả Nguyễn Ngọc Điện5
đã đưa ra một vài giải pháp để hoàn thiện khung pháp lý về để xử lý tài sản
bảo đảm, đặc biệt tác giả chú trọng biện pháp xử lý tài sản bảo đảm trong
trường hợp bên có tài sản bảo đảm có thái độ và hành động bất hợp tác mà đến
nay mới chỉ được ghi nhận trong Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý
nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Bài viết “Thu hồi, xử lý tài sản cho thuê tài chính theo hình thức hợp
đồng bán và cho thuê lại – Từ quy định đến thực tiễn” năm 2016 của tác giả
Ngô Thanh Hương, đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 32,
Số 3 (2016), trang 89-95 đã có những phân tích và nhận định về việc hồi và xử
lý tài sản cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và cho thuê lại như
một cách thức thu hồi nợ hiệu quả mà công ty cho thuê tài chính có thể thực
hiện mà không cần khởi kiện lên Toà án. Bài viết cũng đã đánh giá được
những hạn chế trong hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về thu hồi
và xử lý tài sản cho thuê tài chính, đồng thời tác giả cũng đã chỉ ra được
nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập và đã đưa ra một vài giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản cho thuê tài chính theo hình thức
bán và thuê lại.
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế “Xử lý nợ xấu tại Công Ty Cho Thuê Tài
Chính TNHH MTV Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đầu Tư Và Phát Triển
4 Nguyễn Hoài Phương (2016), Một số giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại
tại
Việt
Nam,
Tạp
chí
Dân
chủ
và
Pháp
luật
số
tháng
9/2016.
tháng 07 năm 2018]
5 Nguyễn Ngọc Điện (2015), Hoàn thiện các quy định về quản lý và xử lý tài sản thế chấp”, Tạp chí
Nguyên cứu nghiên cứu lập pháp điện tử.
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Hải, được hoàn thành vào năm 2013 tại
Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đã chỉ ra được những vấn đề
lý luận cơ bản về nợ xấu, biện pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của
các tổ chức tín dụng nói chung và các công ty cho thuê tài chính nói riêng
cũng như đánh giá thực trạng nợ xấu và công tác, biện pháp xử lý nợ xấu tại
Công ty Cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên – Ngân hàng
thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam; đồng thời, tác giả đề ra
giải pháp hoàn thiện công tác xử lý nợ xấu, hạ thấp dần nợ xấu hiện tại, ngăn
ngừa phát sinh nợ xấu trong tương lai, hướng đến mục tiêu cao nhất là xây
dựng Công ty Cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên – Ngân
hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam phát triển bền vững
và ổn định, góp phần nâng cao hiệu quả công tác xử lý nợ xấu nhằm đạt mục
tiêu cải thiện hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực tài chính của công ty.
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất
theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Quỳnh Thoa, được hoàn thành
vào năm 2015 tại Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã khái quát
hóa được những vấn đề lý luận về biện pháp thế chấp tài sản là quyền sử dụng
đất và tìm hiểu thực trạng xử lý loại tài sản thế chấp này, từ đó tác giả đã có
những nhận định và đánh giá khách quan về hệ thống pháp luật liên quan đến
xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, đồng thời tác giả cũng đã có
những đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng các
quy định pháp luật về xử lý tài sản thế chấp.
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo
pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành” của tác giả Nguyễn Trung Hiếu, được
hoàn thành vào năm 2015 ở Khoa Luật, trường Đại học Quốc gia Hà Nội cũng
đã hệ thống hóa được các quy định của pháp luật dân sự về thế chấp và xử lý
tài sản thế chấp, tuy nhiên, luận văn của tác giả dựa trên Bộ luật dân sự 2005
và chủ yếu vẫn xoay quanh các vấn đề phát sinh trong giao dịch dân sự, cụ thể
là trong hoạt động cho vay vốn của các tổ chức tín dụng nói chung.
7
Các nghiên cứu trên đây tuy có tập trung vào các vấn đề xử lý nợ, đặc
biệt là nợ xấu, nhưng hầu như vẫn tập trung nghiên cứu các biện pháp xử lý nợ
xấu phát sinh trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại và rất ít
nghiên cứu liên quan đến nợ và các biện pháp thu hồi nợ phát sinh trong hoạt
động cho thuê tài chính. Hơn nữa, các nghiên cứu trên đây hầu như tập trung
vào các giải pháp xử lý nợ xấu thông qua việc siết chặt cơ chế quản lý rủi ro
và đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ trong tổ chức tín dụng, rất ít các nghiên cứu
đánh giá về hiệu quả, chất lượng của công tác thu hồi nợ thông qua xử lý tài
sản bảo đảm, nếu có cũng chỉ tập trung vào xử lý một loại tài sản thế chấp là
bất động sản, điển hình là quyền sử dụng đất của các tổ chức tín dụng mà chưa
có một nghiên cứu tổng quát về việc xử lý tài sản bảo đảm khác để thu hồi nợ
trong các công ty cho thuê tài chính, nhất là công ty cho thuê tài chính 100%
vốn nước ngoài.
4. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Người viết chọn nghiên cứu đề tài trước hết với mục đích tổng hợp và
hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung và khung pháp lý đối với nợ phát
sinh từ hoạt động cho thuê tài chính và thu hồi nợ thông qua hình thức xử lý
tài sản bảo đảm của các công ty cho thuê tài chính. Đồng thời, đề tài nghiên
cứu còn đánh giá thực trạng và chất lượng thu hồi nợ, đặc biệt thu hồi nợ xấu
trong hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung và tại các công ty cho thuê tài
chính nói riêng trên cơ sở áp dụng thực hiện các quy định của pháp luật vào
thực tiễn hoạt động. Trên cơ sở đó, luận văn rút ra những vướng mắc phát sinh
từ các quy định của pháp luật liên quan đến thu hồi nợ thông qua hình thức xử
lý tài sản bảo đảm cũng như đề xuất một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện khung
pháp lý nhằm hỗ trợ có hiệu quả việc thu hồi nợ, đặc biệt nợ xấu trong các
công ty cho thuê tài chính.
8
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về thu hồi nợ
bằng cách thức xử lý tài sản bảo đảm trong hệ thống tổ chức tín dụng nói
chung và tại các công ty cho thuê tài chính nói riêng. Đề tài không nghiên cứu
các phương pháp thu hồi nợ khác như mua bán nợ cho VAMC, DATC hay các
tổ chức khác cũng như xử lý nợ thông qua sử dụng trích lập dự phòng rủi ro,
thu hồi tài sản cho thuê tài chính hay tái cơ cấu công ty cho thuê tài chính.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp
luật về tài sản bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ trong hoạt động
cho thuê tài chính, đồng thời Luận văn tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật
trong thu hồi nợ bằng việc xử lý tài sản bảo đảm tại các công ty cho thuê tài
chính ở Việt Nam.
Về phạm vi thời gian: thời gian nghiên cứu được xác định trong khoản
thời gian sau khi Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực cho đến thời điểm kết thúc
việc nghiên cứu. Các kiến nghị được xây dựng sau khi Nghị quyết số
42/2017/QH14 của Quốc hội “Về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín
dụng” ra đời với tầm nhìn cho đến năm 2022.
5. Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã lựa chọn, vận dụng và
kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau, bao gồm: phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp hệ thống và phương pháp so sánh,
v.v để phù hợp với nội dung và vấn đề đặt ra ở từng chương, cụ thể như sau: :
– Trong Chương I, người viết đã sử dụng phương pháp phân tích đối với
các quy định của pháp luật về hoạt động xác lập, đăng ký giao dịch bảo đảm
và thực hiện giao dịch bảo đảm thông qua việc xử lý tài sản bảo đảm khi xuất
hiện nợ trong hoạt động cho thuê tài chính. Bên cạnh đó, người viết còn sử
9
dụng phương pháp định lượng, phân tích các số liệu, các kết quả cục thể đã
được Ngân hàng nhà nước thu thập và thống kê từ các tổ chức tín dụng, số liệu
đăng ký giao dịch bảo đảm từ các trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm và tình
hình xử lý tài sản bảo đảm phải đăng ký với cơ quan chính quyền địa phương
như các Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm, Văn phòng đăng ký đất đai, cơ
quan thi hành án… Trong tình hình cải cách hành chính tư pháp, các Trung
tâm đăng ký giao dịch bảo đảm và Văn phòng đăng ký đất đai ở các địa
phương có nhiệm vụ triển khai, thực hiện việc công khai các thông tin, tình
hình về đăng ký giao dịch bảo đảm và quy trình làm việc cũng như các thủ tục
hành chính công trên các trang điện tử thuộc quản lý của cơ quan có thẩm
quyền.
– Trong Chương II, phương pháp nghiên cứu, so sánh được người viết
sử dụng thông qua việc tham khảo pháp luật, các chính sách về hoạt động
quản lý và xử lý nợ xấu trong các tổ chức tín dụng, đặc biệt là trong lĩnh vực
cho thuê tài chính cũng như cách thức xử lý và tài sản bảo đảm hiệu quả của
các quốc gia có hoạt động cho thuê tài chính phát triển mạnh, bền vững và khá
ổn định trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… Bên cạnh đó, khả năng
áp dụng các quy định tiến bộ từ các quốc gia này đối với hoạt động phòng
ngừa cũng như quản lý nợ và rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng nói
chung và cho thuê tài chính nói riêng ở Việt Nam, đặc biệt trong tình hình ưu
tiên thu hút vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, đặc biệt là sự xuất
hiện của các doanh nghiệp sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
với nhu cầu khá khát về vốn ngày càng nhiều như hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
– Thứ nhất, Luận văn góp phần làm sáng tỏ và khái quát hoá các vấn đề
lý luận về hoạt động cho thuê tài chính và nợ phát sinh trong công ty cho thuê
tài chính.
– Thứ hai, bằng cách hệ thống các quy định của pháp luật về thu hồi nợ
của các công ty cho thuê tài chính, từ đó, phân tích và luận giải các quy định
10
này, đặc biệt trong đó tập trung vào cách thức xử lý tài sản bảo đảm để đảm
bảo thu hồi nợ trong công ty cho thuê tài chính. Luận văn đã góp phần phát
hiện những điểm hạn chế trong các quy định của pháp luật.
– Thứ ba, từ việc phân tích thực trạng áp dụng pháp luật, Luận văn đã
làm rõ khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật
vào thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ của công ty cho thuê tài
chính. Trên cơ sở đó, Luận văn đề xuất các giải pháp có giá trị tham khảo tốt
cho các cơ quan lập pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý về tài sản bảo đảm
và chất lượng, hiệu quả công tác thu hồi nợ bằng cách thức xử lý tài sản bảo
đảm ở các công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ
lục, nội dung chính của luận văn bao gồm 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Khái quát về xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ trong hoạt
động cho thuê tài chính.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật vào xử lý tài sản bảo đảm để
thu hồi nợ tại các công ty cho thuê tài chính – kiến nghị và giải pháp.
11
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO
ĐẢM ĐỂ THU HỒI NỢ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
THUÊ TÀI CHÍNH
1.1. Cơ sở lý luận về cho thuê tài chính và nợ phát sinh trong hoạt động
cho thuê tài chính
1.1.1. Khái quát về cho thuê tài chính và sự phát triển của các công ty cho
thuê tài chính
Cho thuê tài chính là hoạt động cấp tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ
sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê tài chính với bên thuê tài
chính. Bên cho thuê tài chính cam kết mua tài sản cho thuê tài chính theo yêu
cầu của bên thuê tài chính và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê
tài chính trong suốt thời hạn cho thuê. Bên thuê tài chính sử dụng tài sản thuê
tài chính và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê quy định trong hợp
đồng cho thuê tài chính6. Theo đó, tài sản cho thuê tài chính (sau đây gọi tắt là
tài sản thuê chính) là máy móc, thiết bị hoặc tài sản khác theo quy định cụ thể
của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ7.
So với hình thức cấp tín dụng phổ biến nhất là cho vay vốn thì trong
hoạt động cho thuê tài chính, thay vì cung cấp nguồn tài chính (như cho vay
vốn) cho khách hàng để tự khách hàng đi mua tài sản phục vụ nhu cầu sản
xuất của mình, thì bên cho thuê tài chính mua những tài sản, máy móc thiết bị
đó thay khách hàng và trao cho khách hàng quyền sử dụng tài sản. Hoạt động
này dễ gây nhầm lẫn với hoạt động cho thuê tài sản. Tuy nhiên, cho thuê tài
sản không phải là một hình thức cấp tín dụng, và khác biệt cơ bản chính nằm ở
tính hiện hữu của tài sản được cho thuê. Nếu trong hoạt động cho thuê tài sản,
6 Khoản 7 Điều 3 Nghị định 39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê
tài chính.
7 Khoản 8 Điều 3 Nghị định 39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê
tài chính.
12
tài sản được cho thuê ngay từ đầu đã hiện hữu và thuộc quyền sở hữu của bên
cho thuê, và việc bên cho thuê sở hữu tài sản được cho thuê không phụ thuộc
vào nhu cầu sử dụng tài sản của bên đi thuê thì trong hoạt động cho thuê tài
chính, tài sản được cho thuê không hiển nhiên hiện hữu và thuộc quyền sở hữu
của bên cho thuê tài chính mà phụ thuộc nhu cầu sử dụng của bên cho thuê,
việc tài sản hiện hữu và trở thành tài sản thuê tài chính khi và chỉ khi bên cho
thuê tài chính thực hiện cam kết mua tài sản và giao tài sản thuê tài chính cho
bên đi thuê sử dụng.
Với những đặc điểm trên, cho thuê tài chính có thể nói là một loại hình
cấp tín dụng khá đặc biệt. Chính vì vậy, loại hình này có tác dụng hỗ trợ kịp
thời nhu cầu về máy móc thiết bị trong sản xuất cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. So với việc vừa phải lo tìm nguồn vốn và tính toán chi phí mua máy móc
thiết bị cũng như tối đa hoá thời gian sử dụng của tài sản, thì việc sử dụng
công cụ, máy móc thiết bị từ việc đi thuê tài chính để phục vụ nhu cầu sản
xuất, kinh doanh mà không cần bỏ ra quá nhiều nhân lực và vật lực cho việc
duy trì và quản lý tài sản là một giải pháp vô cùng kinh tế và hiệu quả cho
doanh nghiệp. Aristotle đã từng phát biểu rằng “Sự giàu có thật sự không dựa
trên quyền được sở hữu tài sản mà dựa trên quyền được sử dụng chúng”8 để
chứng minh cho hiệu quả kinh tế mà loại hình cho thuê tài chính đem lại.
Các hợp đồng cho thuê sớm nhất đã được phát hiện khoảng 5.000 năm
trước. Các ghi chép cho thấy sự có mặt của một công ty cho thuê vào khoảng
năm 1.800 trước công nguyên ở Babylonia. Khi các quân nhân không muốn sử
dụng đất đai mà mình được nhà nước cấp để trồng trọt, họ sẽ cho thuê mảnh
đất của mình cho công ty cho thuê đó. Công ty cho thuê đã chi trả tiền thuê
cho quân nhân sở hữu mảnh đất và cho những người nông dân thuê lại chính
mảnh đất đã được công ty thuê trước đó9.
8 < http://www.bankofcardiff.com/main.pl?lang=vi&page=history>. [Truy cập ngày: 06 tháng 06 năm
2018]
13
Người Hy Lạp cổ đại là những người đầu tiên phát triển việc cho thuê
hầm mỏ. Nhiều hầm mỏ với những kích cỡ khác nhau ở Athens đều thuộc
quyền sở hữu của Nhà nước và được các công ty khai thác mỏ đặc quyền thuê
lại từ 3 đến 7 năm. Người Hy Lạp cổ đại cũng đi tiên phong tạo ra khái niệm
cho thuê ngân hàng. Hợp đồng cho thuê ngân hàng đầu tiên được ký kết vào
năm 370 trước công nguyên với nội dung bao gồm tên ngân hàng, tiền ký quỹ,
các văn phòng và đội ngũ nhân viên của ngân hàng đó.
Một trong những đạo luật đầu tiên liên quan đến hình thức cho thuê ở
Vương Quốc Anh là Đạo Luật Wales được viết vào năm 1284. Đạo Luật đã
dựa trên những luật lệ về đất đai đang hiện hành lúc bấy giờ để làm khung
pháp lý cho việc cho thuê bất động sản cũng như các dụng cụ, thiết bị trong
ngành nông nghiệp. Sự chuyên chở của ngành đường sắt vào giữa thế kỷ 19 đã
cho thấy rằng các doanh nghiệp nhỏ đã dùng vốn đầu tư của mình vào các
chuyến xe goòng chở than đá rồi sau đó cho những công ty hầm mỏ thuê lại
các xe này. Các hợp đồng cho thuê thường cho phép người đi thuê có quyền
được mua lại các dụng cụ đó khi hết hạn hợp đồng.
Cho thuê tài chính có nguồn gốc từ Hoa Kỳ. Công ty cho thuê tài chính
đầu tiên ở Hoa Kỳ do Henry Shoeld sáng lập vào năm 1952 để phục vụ cho
ngành công nghiệp đường sắt. Theo sau đó là các nước châu Âu đã thành lập
những công ty cho thuê tài chính vào cuối những năm 1950 và đầu những năm
1960.
Những bước cải tiến trong công nghệ khiến các doanh nghiệp phải nâng
cấp nguồn vốn của họ thường xuyên hơn. Cho thuê tài chính đã giúp các
doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận so với việc mua sắm hẳn trang thiết bị.
Mức thuế môi trường vào những năm 1950 phối hợp với nhiều mức thuế ưu
đãi đã làm gia tăng mạnh mẽ số lượng các hợp đồng cho thuê được ký kết trên
phạm vi toàn cầu. Trong khi đó, các quốc gia ở Châu Á, Nam Mỹ và Châu phi
14
ở giai đoạn này vẫn chưa phát triển hình thức cho thuê tài chính mãi cho đến
những năm 1970 và 19809.
Tại Việt Nam, hình thức cho thuê tài chính chính thức được khởi tạo
bằng sự ra đời của công ty cho thuê tài chính Quốc tế Việt Nam (tên tiếng Anh
viết tắt: VILC) vào năm 1996. Tính đến thời điểm cuối năm 2017, trải qua 21
năm hình thành và phát triển, cả nước có 11 công ty công ty cho thuê tài chính
với giấy phép hoạt động còn hiệu lực. Trong số này có 06 công ty là công ty
con của các ngân hàng thương mại, 03 công ty cho thuê tài chính nước 100%
vốn nước ngoài (KEXIM VLC, Chailease, VILC), 01 công ty trực thuộc tập
đoàn Vinashin và 01 công ty với sự hợp tác giữa hai ngân hàng là ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng TNHH Tín thác
Sumitomo Mitsui (BIDV-SuMi Trust)10. Hầu hết các công ty cho thuê tài
chính tại Việt Nam hiện đang hoạt động tại 2 thành phố phát triển nhất của đất
nước là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Các công ty cho thuê tài chính
thuộc khối công ty con của ngân hàng thương mại tận dụng hệ thống, mạng
lưới của ngân hàng mẹ để mở rộng phạm vi thông qua uỷ thác đến các chi
nhánh ngân hàng; nhận hỗ trợ hoạt động về vốn, chiến lược kinh doanh và đôi
khi là cả nguồn nhân lực từ ngân hàng mẹ.
1.1.2. Khái niệm và phân loại nợ tại các công ty cho thuê tài chính
Nợ, theo quy định tại Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013
quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng
rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
9
2018].
10
Theo
nguồn
thống
kê
từ
trang
web
của
Ngân
hàng
Nhà
Nước.
2018]
15
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số
09/2014/TT-NHNN ngày 18/03/2014 (gọi chung là Thông tư 02), là số tiền tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã gửi, giải ngân từng lần theo
thỏa thuận đối với nợ phát sinh trong hoạt động ngân hàng như: cho vay; cho
thuê tài chính; chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có
giá khác; bao thanh toán; các khoản cấp tín dụng dưới hình thức phát hành thẻ
tín dụng; các khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng; số tiền mua và ủy thác
mua trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc
chưa đăng ký giao dịch trên thị trường giao dịch của các công ty đại chúng
chưa niêm yết (Upcom) (sau đây gọi tắt là trái phiếu chưa niêm yết), không
bao gồm mua trái phiếu chưa niêm yết bằng nguồn vốn ủy thác mà bên ủy thác
chịu rủi ro; ủy thác cấp tín dụng; tiền gửi (trừ tiền gửi thanh toán) tại tổ chức
tín dụng trong nước, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam theo quy
định của pháp luật và tiền gửi tại tổ chức tín dụng nước ngoài11.
Đã là nợ sẽ luôn gắn liền với rủi ro, chính vì vậy, Thông tư 02 cũng
định nghĩa về rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng (sau đây gọi tắt là rủi
ro) là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả
năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết12.
Theo Thông tư này, việc phân loại nợ và cam kết ngoại bảng được thực
hiện theo phương pháp định lượng và phương pháp định tính. Đối với từng
phương pháp sẽ có các tiêu chí về xác định và phân loại nợ, theo đó từng
khách hàng tại một tổ chức tín dụng sẽ được phân loại vào một trong năm
nhóm nợ gồm: (i) nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn), (ii) nhóm 2 (nợ cần chú ý), (iii)
nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), (iv) nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và (v) nhóm 5 (nợ có
11 Khoản 2 Điều 3 Thông tư 02/2013/TT-NHNN
12 Khoản 1 Điều 3 Thông tư 02/2013/TT-NHNN
16
khả năng mất vốn. Từng nhóm nợ sẽ được xác định theo các tiêu chuẩn quy
định tại Điều 10 như sau:
– Nhóm 1 (được phân loại là nợ đủ tiêu chuẩn) gồm các khoản nợ được
xác định gồm (i) khoản nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn; (ii) khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và được
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy
đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn; và (iii) khoản nợ được phân loại vào
nhóm 1 theo quy định tại khoản 2 Điều 10.
– Nhóm 2 (hay nợ cần chú ý) bao gồm các khoản nợ được xác định như
sau: (i) khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày; (ii) khoản nợ điều chỉnh kỳ
hạn trả nợ lần đầu; và (iii) khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định
tại khoản 2 và khoản 3 Điều 10.
– Nhóm 3 (hay nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ có các đặc
điểm gồm: (i) khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; (ii) khoản nợ gia
hạn nợ lần đầu; (iii) khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không
đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; (iv) khoản nợ vi phạm quy
định tại các khoản 1, 3, 4, 5, 6 Điều 126, các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 127 và các
khoản 1, 2, 5 Điều 128 Luật các tổ chức tín dụng chưa thu hồi được trong thời
gian dưới 30 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi; (v) khoản nợ đang thu hồi
theo kết luận thanh tra; (vi) khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 10; và (vii) Nợ phải phân loại vào nhóm 3
theo quy định tại khoản 11 Điều 9.
– Nhóm 4 (hay nợ nghi ngờ) bao gồm các khoản nợ đáng chú ý như sau:
(i) khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; (ii) khoản nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại
lần đầu;(iii) khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai; (iv) khoản nợ quy
định tại điểm c(iv) khoản 1 Điều 10 chưa thu hồi được trong thời gian từ 30
ngày đến 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi; (v) Nợ phải thu hồi theo
kết luận thanh tra nhưng quá thời hạn thu hồi theo kết luận thanh tra đến 60
17
ngày mà vẫn chưa thu hồi được; (vi) Nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 10; (vii) Nợ phải phân loại vào nhóm 4 theo
quy định tại khoản 11 Điều 9.
– Nhóm 5 (hay nợ có khả năng mất vốn) là những khoản nợ được xác
định như sau:(i) khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; (ii) khoản nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu
lại lần đầu; (iii) khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; (iv) khoản nợ cơ cấu lại thời hạn
trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; (v) khoản nợ
quy định tại điểm c(iv) khoản 1 Điều 10 chưa thu hồi được trong thời gian trên
60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi; (vi) khoản nợ phải thu hồi theo kết
luận thanh tra nhưng quá thời hạn thu hồi theo kết luận thanh tra trên 60 ngày
mà vẫn chưa thu hồi được; (vii) khoản nợ của khách hàng là tổ chức tín dụng
được Ngân hàng Nhà nước công bố đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa vốn và tài sản; (viii) khoản nợ được
phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 Điều này; và (ix) khoản nợ
phải phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 11 Điều 9.
Tương tự Thông tư 02, Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ
xấu của tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42), việc phân loại nợ xấu cũng theo hai
phương pháp định lượng và định tính, và cũng bao gồm các khoản nợ nằm
trong nhóm nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), nhóm nợ nghi ngờ (nhóm 4) và
nhóm nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5).
Thông qua việc phân loại nợ quy định tại Thông tư 02 và Nghị quyết
42, có thể khái quát được rằng nợ xấu là khoản nợ quá hạn từ 91 ngày trở lên;
nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ từ ít nhất một lần trở lên; nợ phải thu hồi
theo kết luận thanh tra… mà trong đó, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ là nợ được
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chấp thuận điều chỉnh kỳ
hạn trả nợ và/hoặc gia hạn nợ cho khách hàng khi khách hàng không có khả
năng trả nợ gốc và/hoặc lãi đúng thời hạn ghi trong hợp đồng nhưng được tổ