BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ
NĂM 2014
Ngành: Luật kinh tế
NGUYỄN ĐÌNH THẮNG
Hà Nội – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ
NĂM 2014
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
Họ và tên học viên: Nguyễn Đình Thắng
Người hướng dẫn: PGS, TS Tăng Văn Nghĩa
Hà Nội – 2019
i
LỜI C M ĐO N
Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn nghiên cứu của riêng cá nhân tôi dưới
sự hướng dẫn khoa học của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tăng Văn Nghĩa – Trưởng Khoa
sau Đại học trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội. Các luận điểm, dẫn chứng, số
liệu, ví dụ trong luận văn đảm bảo tính chính xác, khách quan, trung thực.
Kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa từng công bố trong bất cứ đề tài
nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Đình Thắng
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ
đạo nhiệt tình và quý báu của PGS, TS Tăng Văn Nghĩa và tập thể các thầy cô giáo
Khoa sau Đại học, Khoa luật – Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.
Nhân dịp này, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS, TS Tăng
Văn Nghĩa và các thầy cô giáo Khoa sau Đại học, Khoa luật – Trường Đại học
Ngoại thương Hà Nội. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới gia
đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, hỗ trợ tài liệu, tạo mọi điều
kiện tốt nhất đồng thời đóng góp những ý kiến quý báu để hoàn thành công trình
nghiên cứu cuối khoá tại Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm tài liệu, nghiên cứu và tìm
hiểu thực tế nhưng do thời gian hạn chế nên Luận văn không thể tránh khỏi những
sai sót. Tác giả rất mong nhận đợc sự quan tâm đóng góp ý kiến của Quý thầy cô,
bạn bè, đồng nghiệp và độc giả.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Đình Thắng
iii
D NH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BCC
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
BCVT
Bưu chính viễn thông
CPTPP
Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
EVFTA
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
FDI
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
GCNĐKĐT
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
GDP
Tổng sản phẩn trong nước (nội địa)
GTVT
Giao thông vận tải
OECD
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
M&A
Mua bán và sát nhập
NSNN
Ngân sách Nhà nước
ODA
Vốn vay nước ngoài
PPP
Hợp đồng Hợp tác công tư
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TNHH MTV
Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
iv
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦ LUẬN VĂN
Tên luận văn: Các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014
Luận văn đã đạt các kết quả chính như sau:
– Đã phân tích khái niệm các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014
– Đã làm rõ quá trình hình thành và phát triển các hình thức đầu tư theo quy
định của pháp luật Việt Nam
– Đã phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền lựa chọn các
hình thức đầu tư của nhà đầu tư, những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc khi lựa
chọn các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014
– Đã đưa ra các đánh giá về những ưu điểm của các hình thức đầu tư theo Luật
đầu tư năm 2014, những điểm thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc lựa chọn hình
thức nào là phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
– Đã đưa ra các khuyến nghị thực thi pháp luật về: Những hình thức đầu tư mà
khi đầu tư nhà đầu tư có thể gặp phải
+ Khuyến nghị về hình thức thành lập tổ chức kinh tế
+ Khuyến nghị về hình thức đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào
tổ chức kinh tế
+ Khuyến nghị về đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
+ Khuyến nghị về đầu tư theo hình thức hợp đồng đối tác công tư (PPP)
v
MỤC LỤC
LỜI C M ĐO N ………………………………………………………………………………………… I
LỜI CẢM ƠN
……………………………………………………………………………………………..
II
D NH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ………………………………………………………………….. III
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦ LUẬN VĂN
…………………………… IV
LỜI MỞ ĐẦU
………………………………………………………………………………………………
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
………………………………………………………………………..
1
2. Tình hình nghi n cứu ……………………………………………………………………………
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghi n cứu …………………………………………………………
3
3.1. Mục đích nghiên cứu
…………………………………………………………………
3
3.2. Nhi m vụ nghiên cứu ………………………………………………………………..
3
4. Đối tượng và phạm vi nghi n cứu ………………………………………………………….
3
4.1. Đối tượng nghiên cứu: ………………………………………………………………
3
4.2. Phạm vi nghiên cứu: …………………………………………………………………
4
5. Phư ng pháp nghi n cứu ………………………………………………………………………
4
6. Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của luận văn …………………………………………..
5
7. Kết cấu của luận văn …………………………………………………………………………….
5
CHƯƠNG 1. ………………………………………………………………………………………………..
6
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ VÀ CÁC HÌNH THỨC
ĐẦU TƯ ………………………………………………………………………………………………………
6
1.1. Khái quát về đầu tư ……………………………………………………………………………
6
1.2. Khái quát về sự ra đời và phát triển của pháp luật đầu tư …………………..
7
1.3. Khái quát về các hình thức đầu tư
…………………………………………………….
11
1.3.1. Khái ni m hình thức đầu tư …………………………………………………..
11
1.3.2. Sự phát triển của các hình hình đầu tư
…………………………………..
11
1.3.3. Vai trò của các hình thức đầu tư ……………………………………………
29
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦ PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC ĐẦU
TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014 ……………………………………………………….
32
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về hình thức đầu tư
…………………….
32
2.1.1. Hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
…………………………….
32
2.1.2. Góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế
………..
34
2.1.3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh ………………
37
2.1.4. Hình thức đầu tư theo hợp đồng đối tác công tư PPP
………………
40
vi
2.2. Đánh giá các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 ……………….
46
2.2.1. Những ưu điểm
…………………………………………………………………….
46
2.2.2. Những vấn đề đặt ra khi áp dụng các hình thức đầu tư theo Luật
Đầu tư năm 2014 ……………………………………………………………………………………..
50
CHƯƠNG 3. ………………………………………………………………………………………………
59
KHUYẾN NGHỊ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ
THEO LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014
……………………………………………………………..
59
3.1. Xu hướng phát triển các hình thức đầu tư hiện nay …………………………..
59
3.2. Một số khuyến nghị nh m thực thi các quy định về hình thức đầu tư
theo Luật Đầu tư năm 2014
…………………………………………………………………………
59
3.2.1. Phổ biến, tuyên truyền về hình thức đầu tư …………………………….
60
3.2.2. Về năng lực thực thi của cơ quan nhà nước có thầm quyền ……
61
3.2.3. Khuyến nghị hoàn thi n quy định về định giá tài sản góp vốn,
mua cổ phần
…………………………………………………………………………………………….
63
3.2.4. Khuyến nghị hoàn thi n các quy định về hợp đồng PPP ………….
63
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………..
69
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư tại Việt Nam được phân chia thành hình thức đầu tư trong nước
và đầu tư nước ngoài căn cứ theo nguồn gốc vốn đầu tư của các nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư theo pháp luật về đầu tư
nước ngoài (trước hết theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987). Nhà
đầu tư trong nước gồm các tổ chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài thực hiện theo Luật Khuyến khích đầu tư năm 1995 (Sửa đổi
bổ sung năm 1998). Các nhà đầu tư ngước ngoài có thể lựa chọn các hình thức
đầu tư thành lập các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế.
Qua nhiều năm thực hiện nhận thấy các hình thức đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài bị hạn chế hơn rất nhiều so với nhà đầu tư trong nước.
Với chính sách phát triển kinh tế phù hợp với xu thế của thời đại hội
nhập, mở cửa, Luật Đầu tư năm 2014 được ban hành, quy định đa đạng và đổi
mới các hình thức đầu tư nhằm thu hút, khuyến khích các nguồn vốn từ các
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, nhằm thu hút nguồn lực cho đất nước
phát triển, xóa bỏ sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài, về cơ bản được thực hiện chung thông qua các hình thức mà Luật Đầu
tư năm 2014 quy định. Trước những đòi hỏi khách quan của xu thế thời đại,
cũng như đáp ứng nhu cầu thu hút đầu tư và phát triển kinh tế đất nước theo
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, theo nguyên tắc tự do và bình đẳng.
Luật Đầu tư năm 2014 đã được hoàn thiện theo hướng đảm bảo tính thống
nhất, đồng bộ giữa các bộ phận pháp luật điều chỉnh về những hành vi có nội
dung tương tự cũng như sự tương thích với các Điều ước quốc tế về đầu tư và
Việt Nam tham gia.
So với các quốc gia trong khu vực, các hình thức đầu tư theo pháp luật
về đầu tư của Việt Nam tương đối phong phú, tạo nhiều sự lựa chọn phù hợp
với quy mô nguồn vốn, khả năng quản lý và tính chịu trách nhiệm về hoạt
động đầu tư nhằm kinh doanh của các nhà đầu tư.
2
Trong những năm gần đây, với chính sách mở cửa hội nhập quốc tế của
Đảng và Nhà nước ta trong việc thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài
nhằm tìm kiếm nguồn lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Việt Nam đã tham
gia rất nhiều tác tổ chức thương mại thế giới, các tổ chức kinh tế trong và
ngoài khu vực như: WTO, AFTA, CPTPP, APEC, ASEAN….Điều này cũng
khiến chúng ta phải có những điều chỉnh hợp lý để phù hợp thực tiễn.
Vì những lý do trên, học viên lựa chọn vấn đề “Các hình thức đầu tư
theo Luật Đầu tư năm 2014” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghi n cứu
Trong những năm qua, với chính sách mở của kinh tế nhằm thu hút đầu tư
trong nước cũng như nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nhà nước ta đã có nhiều
chính sách để thu hút, kêu gọi đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Trước Luật Đầu tư năm 2014 ra đời, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như:
– Mai Ngọc Cường, “Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, HN, năm 2000. Đề xuất
hoàn thiện các cơ chế trong thu hút đầu tư, khai thác được các tiềm năng, thế mạnh
của Việt Nam.
– Huỳnh Thị Thúy Giang (2012), “Hình thức hợp tác công tư – PPP (Public
Private Partnership) để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam”.
Luận văn Tiến sĩ kinh tế. Nghiên cứu các bằng chứng thực nghiệm về hình thức hợp
tác công tư – trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Nhận diện các cơ hội của PPP từ
thực trạng đầu tư tư nhân trong lĩnh vực giao thông đường bộ Việt Nam và đo lường
mức độ sẵn sàng đầu tư theo hình thức PPP của khu vực tư nhân trong lĩnh vực giao
thông đường bộ tại Việt Nam.
Tuy nhiên, nghiên cứu tổng quát về các hình thức đầu tư và chuyên sâu về
khung pháp lý của các hình thức đầu tư trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam thì
chưa có nhiều đề tài thực hiện nghiên cứu toàn bộ, chủ yếu các đề tài tập trung
3
nghiên cứu về một số hình thức đầu tư như: Góp vốn, mua cổ phần hay hợp đồng
đối tác công tư hoặc thành lập các tổ chức kinh tế…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải, làm rõ cơ sở lý luận hình thức đầu tư của nhà đầu tư
nhằm đánh giá và chỉ ra những bất cập cũng như những vướng mắc, hạn chế trong
quá trình áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn đề xuất các
khuyến nghị thực thi các hình thức đầu tư liên quan tới Luật Đầu tư năm 2014.
3.2. Nhi m vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
– Luận giải để làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các hình thức đầu
tư theo Luật Đầu tư năm 2014: Làm rõ khái niệm và nội dung của khái niệm về
quyền lựa chọn hình thức đầu tư.
– Nghiên cứu các nguyên tắc, căn cứ, nội dung và phạm vi của các hình thức
đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014
– Phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp
luật về các hình thức đầu tư để chỉ ra những bất cập của pháp luật, những khó khăn
trong quá trình thực thi đồng thời so sánh với các quy định có liên quan của pháp
luật nhằm nêu bật những điểm chưa phù hợp của pháp luật Việt Nam.
– Luận giải cho những khuyến nghị được nêu trong Luận văn về hướng hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về các hình thức đầu tư.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các hình thức đầu tư của nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài theo Luật Đầu tư năm 2014 của Việt Nam. Phần nghiên
cứu nhà đầu tư trong nước chỉ nhằm mục tiêu so sánh, đối chiếu các quy định để rút
4
ra những bất cập, đề xuất, mà không mang tính phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
– Về nội dung, trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả nghiên cứu các hình
thức đầu tư của nhà đầu tư bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài theo Luật Đầu tư năm 2014. Luận văn chú trọng tìm hiểu các hình thức đầu tư
dựa trên các quy định của pháp luật đầu tư qua từng thời kỳ khi xem xét sự phát
triển của các hình thức đầu tư.
– Về không gian, Luận văn chỉ nghiên cứu các hình thức đầu tư đã và đang
được triển khai tại Việt Nam (theo các quy định của pháp luật). Những quy định về
hình thức đầu tư của nước ngoài có thể được xem xét làm đối tượng so sánh, chứ
không phải đối tượng nghiên cứu của luận văn.
– Về thời gian: Luận văn chỉ nghiên cứu các hình đầu về cơ bản từ Luật Đầu
tư năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật này ra đời cho đến năm 2025
trên cơ sở đề xuất một số khuyến nghị về hình thức đầu tư tại Việt Nam.
5. Phư ng pháp nghi n cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như đã nêu ở trên, tác giả s
sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống, như hệ thống hóa, phân tích,
tổng hợp, đối chiếu và so sánh luật học. Cụ thể:
– Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng đồng thời và xuyên suốt
trong toàn bộ luận văn nhằm làm rõ những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của
đề tài. Đặc biệt, phương pháp này được áp dụng nhiều nhất tại Chương 1 để giúp hệ
thống hóa các công trình nghiên cứu đã công bố và có cái nhìn một cách toàn diện,
đầy đủ cũng như cụ thể về cơ sở lý luận của việc quy định các hình thức đầu tư theo
Luật Đầu tư năm 2014.
– Phương pháp luận giải và phương pháp so sánh luật học được sử dụng đặc
biệt tại Chương 1 và Chương 2 để làm phân tích và làm rõ các ưu điểm và nhược
điểm của các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014.
5
– Phương pháp tổng hợp s được sử dụng chủ yếu tại Chương 3 khi đề xuất
các khuyến nghị và luận giải cho các khuyến nghị liên quan đến hình thức đầu tư tại
Việt Nam.
6. Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống về các hình thức đầu tư
theo Luật Đầu tư năm 2014. Các kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ
sung và phát triển những vấn đề lý luận pháp luật về các hình thức đầu tư, là rõ
cơ sở khoa học nhằm xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư trên các
khía cạnh:
– Làm sáng tỏ về mặt lý luận các vấn đề về các hình thức đầu tư theo Luật
đầu tư năm 2014
– Phân tích và làm rõ việc quy định các hình thức đầu tư trong Luật đầu tư
năm 2014 những ưu điểm và hạn chế của từng hình thức đầu tư.
– Đánh giá thực trạng pháp luật về đầu tư tại Việt Nam nhằm làm rõ bất cập,
hạn chế của pháp luật về đầu tư.
– Đề xuất một số khuyến nghị liên quan đến hình thức đầu tư theo pháp luật
đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
kết cấu thành 3 Chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư và các hình thức đầu tư;
Chương 2. Thực trạng quy định của pháp luật về các hình thức đầu tư theo
Luật Đầu tư năm 2014;
Chương 3: Khuyến nghị thực thi các quy định về hình thức đầu tư theo Luật
Đầu tư năm 2014.
6
CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ VÀ CÁC HÌNH THỨC
ĐẦU TƯ
1.1. Khái quát về đầu tư
Hoạt động đầu tư (gọi tất là đầu tư) là quá trình sử dụng các nguồn lực
về tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm
trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở
vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung. Xuất phát từ phạm vi phát huy tác
dụng của các kết quả đầu tư, có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật
chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực.
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn
lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế – xã hội những kết quả trong tương
lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Từ đây có khái niệm về đầu tư như sau: Đầu tư là hoạt động sử dụng các
nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản
xuất kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận hay
lợi ích kinh tế xã hội.
Hoạt động đầu tư có những đặc điểm chính sau đây:
– Trước hết phải có vốn: Vốn có thể bằng tiền, bằng các loại tài sản khác
như máy móc thiết bị, nhà xưởng, công trình xây dựng khác, giá trị quyền sở
hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật, giá
trị quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển, các nguồn tài nguyên khác. Vốn có
thể là nguồn vốn Nhà nước, vốn tư nhân, vốn góp, vốn cổ phần, vốn vay dài
hạn, trung hạn, ngắn hạn.
7
– Thời gian đầu tư, thường tương đối dài từ 2 năm trở lên, có thể đến 50
năm, thậm chí theo luật từng nước có thể dài hơn nữa lên tới 99 năm. Những
hoạt động ngắn hạn trong vòng một năm tài chính không được gọi là đầu tư.
Thời hạn đầu tư được ghi rõ trong quyết định đầu tư hoặc giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư và còn được coi là đời sống của dự án.
– Lợi ích do đầu tư mang lại được biểu hi n trên hai mặt: Lợi ích tài
chính (biểu hiện qua lợi nhuận) và lợi ích kinh tế xã hội (biểu hiện qua chỉ tiêu
kinh tế xã hội). Lợi ích kinh tế xã hội thường được gọi tắt là lợi ích kinh tế. Lợi
ích tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chủ đầu tư, còn gọi lợi ích
kinh tế ảnh hưởng đến quyền lợi của xã hội, của cộng đồng.
1.2. Khái quát về sự ra đời và phát triển của pháp luật đầu tư
Sau ngày 30/4/1975, nước ta chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn củng
cố và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lúc này, trong bối cảnh nước đi lên chủ nghĩa
xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh
lâu dài, nhân dân ta đã không ngừng phấn đấu vượt qua bao thử thách và khó
khăn chồng chất. Chúng ta đã có nhiều cố gắng hàn gắn vết thương chiến tranh,
khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, từng bước xác lập quan hệ sản xuất
mới; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; phát
triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, thiết lập và củng cố chính quyền nhân
dân trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng kém phát triển,
sản xuất nhỏ là phổ biến và mang nặng tính chất tự cấp tự túc. Trình độ trang bị
kỹ thuật trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng, văn hoá-xã hội lạc hậu; năng
suất lao động xã hội rất thấp. Cơ cấu kinh tế vẫn mang đặc trưng một nước
nông nghiệp lạc hậu, mất cân đối nặng nề trên nhiều mặt, chưa tạo được tích
luỹ trong nước và lệ thuộc nhiều vào bên ngoài, chủ yếu là các nước XHCN,
đặc biệt là Liên Xô. Tình trạng chia cắt, khép kín ở từng đơn vị, từng ngành và
từng địa phương còn phổ biến. Cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp để lại
nhiều hậu quả tiêu cực. Nền kinh tế hoạt động với hiệu quả rất thấp, chủ yếu
tập trung vào sản xuất nông nghiệp và một số ngành công nghiệp phụ vụ đời
sống nhân dân.
8
Với một thực trạng kinh tế xã hội như vậy, để thực hiện được nhiệm vụ
khôi phục và phát triển kinh tế xã hội, Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976 đã
khẳng định “việc đẩy mạnh quan hệ phân chia và hợp tác song phương trong
lĩnh vực kinh tế và phát triển các quan hệ kinh tế với các nước khác có một vai
trò vô cùng quan trọng” (Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ IV năm
1976). Thực hiện chủ trương đúng đắn đó của Đảng, ngày 18/4/1977, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 115/NĐ-CP kèm theo Điều lệ đầu tư nước ngoài
(sau đây gọi tắt là Điều lệ đầu tư năm 1977), một văn bản pháp quy riêng biệt
nhằm khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên về đầu tư nước ngoài này, thể hiện
đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, được các nhà đầu tư nước ngoài
thời kỳ đó đón nhận như một tín hiệu mở cửa của Việt Nam.
Tuy nhiên, vào thời điểm năm 1977, mới có 2 năm sau thống nhất đất
nước, nhà nước bắt tay vào công cuộc củng cố và phát triển kinh tế, với một đội
ngũ cán bộ chưa có kinh nghiệm làm kinh tế, cũng như quản lý kinh tế, với một
cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp, với một đường lối kinh tế chỉ công nhận 2
thành phần kinh tế, đó là thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế Hợp tác xã.
Hơn nữa chúng ta lại là một nước xã hội chủ nghĩa, thế mà chúng ta đã mạnh
dạn đưa ra một khung pháp lý như vậy, quả là một sự cố gắng rất cao, một “tầm
nhìn xa trông rộng” hơn nhiều so với một số nước xã hội chủ nghĩa khác. Điều
này cho thấy, tuy chưa được công nhận trong các văn kiện của Đảng, cũng như
chưa được thể chế hoá trong Hiến pháp, nhưng trên thực tế với Điều lệ đầu tư
năm 1977 đã phần nào minh chứng cho tư duy lúc đó chúng ta đã nghĩ tới việc
kết hợp với tư bản nước ngoài trong một khuôn khổ pháp lý để khôi phục phát
triển kinh tế. Điều lệ đầu tư năm 1977 đã đề cập đến, tạo ra được khung pháp lý
sơ khai cho hoạt động đầu tư nước ngoài, đây là những tiền đề cho những ý
tưởng và là cơ sở cho những bước cải cách sau này, ngay cả Luật Đầu tư nước
ngoài năm 1987 cũng đã lấy Điều lệ đầu tư năm 1977 làm nội dung chính để
nâng cấp, hoàn thiện thêm.
9
Có thể khẳng định Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1977 là
tiền đề và đặt nền móng cho sự phát triển của pháp luật về đầu tư sau này tại
Việt Nam.
Qua quá trình phát triển và mở rộng hội nhập quốc tế,Việt Nam đã không
nhừng hoàn thiện thể chế. Các Luật Đầu tư lần lượt được ra đời.
Năm 1987 nước ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đáp
ứng chủ trương đó Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 được ban
hành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu một giai đoạn mới của sự ra đời
hệ thống cơ sở pháp lý các hoạt động và thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Theo thống kê trong năm 1987, Việt Nam thu hút được 213 dự án, tổng
vốn đăng ký 1,793 tỷ USD
Qua một thời gian thực hiện, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
1987 đã bộc lộ những bất cập cần được sửa chữa và để phù hợp với tình hình
mới luật sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài năm 1990; Luật sửa đổi bổ sung một
số điều Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1992 lần lượt được ra đời,
khắc phục những tồn tại, hạn chế của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
năm 1987. Giai đoạn này thu hút đầu tư nước ngoài đã nâng lên 459 dự án đầu
tư, với tổng vốn đầu tư là 5,28 tỷ USD, trong đó vốn FDI (Foreign Direct
Investment- Vốn đầu tư nước ngoài) tăng tốc. Làn sóng đầu tư thứ nhất bắt đầu
vào Việt Nam bắt đầu khởi sắc.
– Sau gần 10 năm triển khai và thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1987 đã được sửa đổi và bổ sung vào các năm 1990 và năm 1992
nhưng không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn đầu tư tại Việt Nam. Năm
1996 nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập với khu vực và thế giới, Việt Nam trở thành thị trường thương mại có
sức hấp dẫn với các nhà đầu tư, để kịp thời đón nhận được những nguồn vốn
đầu tư nước ngoài, Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 10 ngày 12/11/1996 đã thông
qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
10
– Nhằm tạo điều kiện xích gần giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài, Quốc hội tiếp tục thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. Trong năm 2000 thu hút FDI có dấu
hiệu chậm lại do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, chỉ đạt 2,838 tỷ USD.
– Việc thực hiện các dự án có vốn đầu tư nước ngoài và dự án đầu tư
trong nước vẫn nằm ở hai đạo luật khác nhau và có những điều chỉnh khác biệt
trong đối xử, ưu đãi đầu tư. Để phù hợp và hài hòa với pháp luật về đầu tư của
các nước trên thế giới cũng như phù hợp với khuôn khổ pháp lý về đầu tư của
tổ chức thương mại thế giới (WTO), Luật Đầu tư năm 2005 đã được Quốc hội
thông qua ngày 29/11/2005 là văn bản pháp luật đầu tiên áp dụng thống nhất
cho cả hoạt động đầu tư trong nước và nước ngoài, Bên cạnh dó, Luật Doanh
nghiệp năm 2005 cũng được ban hành nhằm quy định liên quan đến tổ chức và
hoạt động của doanh nghiệp hình thành trong quá trình triển khai dự án đầu tư
tại Việt Nam, việc ban hành Luật Đầu tư năm 2005 góp phần thu hút vốn FDI
trở lại, làn sóng đầu tư thứ hai bắt đầu, trong năm 2005, thu hút được 6,839 tỷ
USD.1
– Nhằm đổi mới hơn nữa chính sách thu hút đầu tư tại Việt Nam Luật
Đầu tư năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2014 và có hiệu lực từ
ngày 01/01/2015. Việc ban hành luật này tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ
và hoàn chỉnh, nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động đầu tư và sử dụng
vốn đầu tư công, khắc phục những hạn chế, bất cập trong đầu tư công. Trong
năm 2017 vốn đầu tư nước ngoài FDI vào Việt Nam đạt 35,88 tỷ USD2.
Sau 30 năm đổi mới đất nước để đáp ứng nhu cầu phát triển, nước ta đã
không ngừng hoàn thiện thể chế, hoàn thiện pháp luật về đầu tư để thu hút đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng
đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1Nội dung trên được tham khảo từ bản thảo Giáo trình Pháp luật Đầu tư do PGS, TS Tăng Văn Nghĩa làm
chủ biên sắp được xuất bản (ghi chú này được thực hiện nhằm tránh tranh chấp về quyền tác giả sau này).
2 https://baodautu.vn/30-nam-fdi-du-luat-lich-su-va-nhung-chuyen-co-cho-ty-phu-d74458.html
11
1.3. Khái quát về các hình thức đầu tư
1.3.1. Khái ni m hình thức đầu tư
Trải qua nhiều quy định của pháp luật về đầu tư vào Việt Nam từ trước
đến nay thì chưa có văn bản nào quy định khái niệm các hình thức đầu tư. Ở
Điều lệ đầu tư năm 1977, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1990, Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1992… hay đến Luật Đầu tư năm
2014 chưa có Điều luật nào đưa ra khái niệm các hình thức đầu tư là gì, mà chỉ
quy định các hình thức nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được phép
thực hiện.
Quyền lựa chọn hình thức, phương thức đầu tư do nhà đầu tư quyết định.
Do vậy có thể hiểu: Các hình thức đầu tư là những phương thức được nhà đầu
tư lựa chọn theo quy định của pháp luật Việt Nam bao gồm: Đầu tư thành lập
doanh nghiệp, đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế,
đầu tư theo hợp đồng BCC (hợp đồng hợp tác kinh doanh), đầu tư theo hợp
đồng PPP (hợp đồng đối tác công – tư) theo Luật Đầu tư năm 2014.
1.3.2. Sự phát triển của các hình hình đầu tư
Các hình thức đầu tư được nhắc đến sớm nhất trong Điều lệ đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam năm 1977 ngay sau khi Việt Nam vừa giành được độc lập
thống nhất nước nhà.
Theo các quy định tại Điều 1 của Điều lệ đầu tư năm 1977, Chính phủ
Việt Nam chấp thuận đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các bên cùng
có lợi mà không phân biệt chế độ kinh tế chính trị của quốc gia của nhà đầu tư.
Mục đích khuyến khích đầu tư nước ngoài đã được thể hiện một cách rõ
ràng. Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định ba hình thức đầu tư đó là:
Hình thức đầu tư “hợp tác sản xuất chia sản phẩm”: là tiền đề của hình
thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày nay, theo Điều lệ đầu tư năm 1977 thì
bên nước ngoài thực hiện hình thức hợp tác chia sản phẩm s đóng góp vốn,
12
trang thiết bị, vật tư, kỹ thuật, công nghệ… để xây dựng cơ sở vật chất nhằm
thực hiện chương trình hợp tác kinh tế được thỏa thuận trong hợp đồng; sản
phẩm làm ra s được chia cho các bên theo một tỷ lệ do các bên thỏa thuận;
phần sản phẩm của bên nước ngoài về nguyên tắc là để xuất khẩu, trừ trường
hợp bên Việt Nam yêu cầu thì có thể tiêu thụ tại Việt Nam một phần hoặc toàn
bộ.
Hình thức đầu tư “xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp”: Đây là tiền đề của
hình thức liên doanh ngày nay, trong đó “Xí nghiệp” được định nghĩa là: Bên
nước ngoài và một tổ chức kinh tế quốc doanh Việt Nam hùn vốn lập một xí
nghiệp hoặc công ty hỗn hợp dưới hình thức công ty vô danh hoặc công ty
trách nhiệm có hạn, theo đó xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp được khẳng định là
một pháp nhân thành lập theo luật pháp Việt Nam, hoạt động theo các điều
khoản của hợp đồng hợp doanh và điều lệ của xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp.
Đồng thời quy định vốn do bên nước ngoài đầu tư vào xí nghiệp hoặc công ty
hỗn hợp được giới hạn ít nhất phải bằng 30% và nhiều nhất không quá 49%
tổng vốn đầu tư, quy định này có ý nghĩa không cho bên nước ngoài chiếm đa
số vốn dễ dẫn tới bên nước ngoài điều hành công ty, xí nghiệp. Sản phẩm của
xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp quy định là phải được xuất khẩu với một tỷ lệ
do các bên thỏa thuận.
Hình thức đầu tư “xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu”:
Đây là hình thức tiền để của hình thức 100% vốn nước ngoài ngày nay, theo đó
xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, với 100% vốn nước ngoài
này cũng có tư cách pháp nhân Việt Nam, đồng thời trong này quy định rất chặt
ch rằng sản phẩm của xí nghiệp tư doanh này phải được xuất khẩu 100%. Việc
chấp nhận hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực sản
xuất hàng xuất khẩu đã chứng tỏ tính tự do và cởi mở của Điều lệ đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam năm 1977.
13
1.3.2.1. Theo Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987
Sau đại hội VI năm 1986 của Đảng về đường lối đổi mới đất nước toàn
diện, sâu sắc và triệt để, mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng nước ta
trên con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập cũng như
phát triển kinh tế, Nhà nước ta thể chế đường lối bằng luật cụ thể, nhằm tiếp
tục thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã được xây dựng và ban hành. Luật
Đầu tư nước ngoài hoàn thiện 3 hình thức đầu tư mà đã được quy định một
cách sơ khai trong Điều lệ đầu tư năm 1977 với một nội dung rõ ràng hơn, khoa
học hơn, cụ thể như sau:
– Hình thức đầu tư “hợp đồng hợp tác kinh doanh”:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh được áp dụng ngày càng rộng rãi ở nhiều
nước và được nhà đầu tư nước ngoài hoan nghênh vì rất đa dạng, linh hoạt,
hình thức này được bắt nguồn từ hình thức hợp tác sản xuất chia sản phẩm quy
định trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977. Luật Đầu tư nước ngoài năm
1987 đã chuẩn hóa và hoàn thiện lại thành hình thức hợp đồng hợp tác kinh
doanh và quy định tại Điều 5 như sau: “Bên nước ngoài và Bên Việt Nam được
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp tác sản
xuất chia sản phẩm và các hình thức hợp tác kinh doanh khác”. Tinh thần của
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định rất rõ đặc trưng cơ bản của Hợp
đồng hợp tác kinh doanh là các bên cùng góp vốn để kinh doanh, sau đó phân
chia kết quả kinh doanh và không thành lập một pháp nhân mới như hình thức
liên doanh. Mỗi bên hợp doanh vẫn giữ pháp nhân riêng của mình và tự quản lý
thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo hai hệ thống luật pháp khác nhau. Bên
hợp doanh Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo pháp luật trong
nước, bên hợp doanh nước ngoài thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo pháp
Luật Đầu tư nước ngoài.
14
– Hình thức đầu tư “xí nghiệp liên doanh”:
Điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 định nghĩa về hình thức xí
nghiệp liên doanh như sau : “Xí nghiệp liên doanh là xí nghiệp do bên nước
ngoài và bên Việt Nam hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên
doanh hoặc Hiệp định ký giữa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
với Chính phủ nước ngoài”. Theo định nghĩa này Nhà nước cho phép xí nghiệp
liên doanh gồm chỉ có hai bên là bên nước ngoài và bên Việt Nam, nếu có
nhiều pháp nhân hoặc cá nhân muốn hợp tác đầu tư thì cũng cũng phải thoả
thuận lại thành một bên nước ngoài và một bên Việt Nam để liên doanh với
nhau. Ngoài ra, bên cạnh đó còn có một liên doanh được thành lập trên có sở
Hiệp định giữa Chính phủ Liên Xô và Chính phủ Việt Nam đó là liên doanh
dầu khí Việt-Xô nên định nghĩa trên đã mở rộng diện áp dụng cho cả đối tượng
liên doanh mà được thành lập trên cơ sở Hiệp định giữa hai Chính phủ, trên
thực tế thì từ đó đến nay, ngoài liên doanh dầu khí Việt-Xô thì cũng không có
bất kỳ liên doanh nào tương tự như vậy.
– Hình thức đầu tư “xí nghiệp 100% vốn nước ngoài”.
Hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài thực chất đã được quy định
trong Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1977, nhưng thời bấy giờ
quy định rất chặt ch , bắt buộc phải xuất khẩu 100%, nên đã lấy tên hình thức
này là “xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu”. Nếu quy định như
vậy s làm kém hấp dẫn của hình thức này, nên Luật Đầu tư nước ngoài năm
1987 đã đổi tên thành hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và được quy
định tại Điều 14 như sau: “Các tổ chức cá nhân nước ngoài được thành lập tại
Việt Nam xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, tự mình quản lý xí nghiệp, chịu sự
kiểm soát của cơ quan Nhà nước quản lý về đầu tư nước ngoài, đuợc hưởng
các quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ ghi trong giấy phép đầu tư. Xí
nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam”.
Như vậy theo tinh thần Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 thì xí nghiệp 100%
vốn nước ngoài là xí nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân nước
ngoài do tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và
15
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, không bắt buộc phải xuất khẩu 100%
sản phẩm làm ra. Đây là bước tiến rất quan trọng so với Điều lệ Đầu tư nước
ngoài năm 1977. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn và là một pháp nhân Việt Nam.
1.3.2.2. Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Vi t Nam năm 1996
Sau 10 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
(6/1996) nhận định đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội nhưng một
số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển
sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng đất nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ,
mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 1996 – 2000, nêu
nhiệm vụ tổng quát, những tư tưởng chỉ đạo, các chương trình và lĩnh vực phát
triển.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Xây
dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi
với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa3.
Đến năm 1996, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 đã được sửa
đổi, bổ sung 2 lần vào những năm 1990, năm 1992, đó là những bước rất quan trọng
góp phần vào việc tạo lập hành lang pháp lý ngày càng hoàn chỉnh nhằm tăng tính
hấp dẫn và cải thiện môi trường đầu tư tại Việt nam, từ đó đưa đến những kết quả
tăng trưởng rõ rệt.
3https://loigiaihay.com/khai-quat-tien-trinh-doi-moi-tu-1986-den-nay-c132a20697.html
16
Luật Đầu tư nước ngoài cũng như nhiều văn bản dưới luật được ban hành
trong hoàn cảnh ta chưa có kinh nghiệm về hợp tác đầu tư trực tiếp với nước ngoài,
nhưng về cơ bản đã dựng lên được một khuôn khổ pháp lý phù hợp với đường lối
quan điểm của Đảng về kinh tế đối ngoại. Luật Đầu tư nước ngoài đã có những quy
định vừa rộng rãi vừa chặt ch , bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài an toàn về đầu
tư và quyền tự chủ kinh doanh, đồng thời bảo đảm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền,
tuân thủ pháp luật của Việt Nam và bình đẳng, cùng có lợi. Tuy nhiên, đến thời
điểm năm 1996, khi đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, nhìn lại hệ thống pháp luật về đầu
tư nước ngoài, chúng ta thấy nhiều nhược điểm cần được khắc phục trong hoàn
cảnh mới. Những nhược điểm đó là: Một số quy định quá chung chung, không đủ
mức cụ thể để dễ thi hành; Thiếu tính đồng bộ, nhiều văn bản còn chồng chéo và
thiếu tính cập nhật; Thủ tục hành chính quá phức tạp, rườm rà; Chủ trương và quy
hoạch chưa đủ mức cụ thể, làm cho các nhà đầu tư mất nhiều thời gian tìm hiểu, làm
cho các cơ quan quản lý Nhà nước khó khăn trong việc xử lý.
Những thành tựu quan trọng của 10 năm đổi mới, đặc biệt là sự tăng trưởng
kinh tế liên tục trong nhiều năm với nhịp độ cao, việc nâng cao một bước năng lực
sản xuất xã hội, năng lực xuất khẩu, mức sống của nhân dân và sức mua của thị
trường trong nước, những cố gắng rất lớn để hình thành và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, đã tạo ra cho Việt Nam một hình ảnh mới trên thế giới như là một thị
trường thương mại và đầu tư có sức hấp dẫn. Đây là cơ hội mà ta có thể tranh thủ
thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài với qui mô lớn hơn, chất lượng cao hơn để
phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài càng có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng nhu cầu to lớn cho đầu tư phát triển.
Hoạt động hợp tác đầu tư của ta với nước ngoài từ 1996 trở đi đứng trước những cơ
hội và thách thức mới, số nước gia nhập vào cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư nước
ngoài ngày càng đông, làm cho cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn trước. Trong
cuộc cạnh tranh này, nhiều nước đã tiến hành những cải cách theo hướng thông
thoáng hơn nhằm vượt lên trên những nước khác.
17
Từ bối cảnh của tình hình mới và từ những nhược điểm của Luật Đầu tư
nước ngoài và trên cơ sở các mục tiêu :
– Chuẩn xác hóa các biện pháp khuyến khích đầu tư theo hướng tiếp tục tăng
cường khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, tập trung vào những mục tiêu
trọng điểm trong chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
– So sánh với các biện pháp khuyến khích ở các nước trong khu vực để các
điều kiện khuyến khích đầu tư ở nước ta không thể kém hấp dẫn hơn các nước trong
khu vực;
– Cụ thể hóa những quy định còn quá chung chung, bổ sung vào Luật những
qui định đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn, luật hóa những quy định quan trọng
đã được kiểm nghiệm là đúng đắn nhưng chỉ mới được ban hành ở dạng văn bản
duới luật;
– Từng bước tiến tới sự nhích dần giữa hệ thống pháp Luật Đầu tư nước
ngoài và pháp Luật Đầu tư trong nước, chỉ giữ lại những khác biệt mà điều kiện
trong nước chưa cho phép loại bỏ;
– Tăng cường khâu tổ chức quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài,
tạo cơ sở pháp lý cao hơn tạo chuyển biến một cách cơ bản nhằm đơn giản hóa thủ
tục đầu tư, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Quốc hội khoá 9 kỳ họp thứ 10 ngày 12/11/1996 đã thông qua Luật Đầu tư
nước ngoài năm 1996. Luật Đầu tư nước ngoài 1996 được soạn thảo trên cơ sở kế
thừa và phát triển của pháp luật đầu tư trước đó:
Về các hình thức đầu tư quy định tại Điều 4 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1996 vẫn quy định 3 hình thức đầu tư:
– Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
– Doanh nghiệp liên doanh;
– Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.